Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.88 KB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



THÂN VĂN THƢƠNG




CẢI THIỆN MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ
Ở TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01 01





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU





NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ CAO ĐOÀN

XÁC NHẬN CỦA
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN


XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ
CHẤM LUẬN VĂN




Hà Nội – 2015


2
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào

Tác giả luận văn


Thân Văn Thương



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 16 năm tái lập tỉnh Bắc Giang đã đạt được những thành quả to lớn và
quan trọng: kinh tế liên tục tăng trưởng ở mức cao và ổn định, tốc độ tăng trưởng
bình quân đạt trên 9%/năm; cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Riêng năm 2013 trong cơ cấu GDP,
tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 39,5%, dịch vụ 33,5%, nông - lâm
nghiệp, thuỷ sản 27%; nông - lâm nghiệp, thủy sản phát triển ổn định và đảm bảo
an ninh lương thực; quy mô công nghiệp tăng nhanh và giữ vai trò đầu tầu trong
tăng trưởng kinh tế.
Cùng với đó trong những năm qua, tỉnh đã tập trung huy động tối đa mọi
nguồn lực cho đầu tư phát triển như xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội (KT - XH); các quy hoạch phát triển ngành; xây dựng cơ chế, chính sách hỗ
trợ và khuyến khích đầu tư, xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn
nhân lực, cải cách hành chính…nhờ vậy tỉnh đã tranh thủ được tối đa các nguồn vốn
đầu tư trong và ngoài nước. Với sự nỗ lực đó môi trường đầu tư của tỉnh đã có sự
cải thiện đáng kể được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đánh giá cao và coi tỉnh
là điểm đến đầy tiềm năng.
Tuy nhiên, nếu đánh giá một cách khách quan có thể thấy môi trường đầu tư ở
tỉnh hiện nay còn chưa tốt, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của đầu tư
như kết cấu hạ tầng KT - XH còn yếu kém chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển,
trình độ công nghệ còn lạc hậu, năng lực tiếp nhận công nghệ còn hạn chế; công tác
cải cách hành chính hiệu quả chưa cao, thủ tục tuy đã có tiến bộ những vẫn còn
rườm rà, lề lối làm việc chưa thật sự năng động, tư duy tiếp cận sự đổi mới trong
đầu tư, kinh doanh còn nhiều yếu kém; tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao; phải
chấp nhận những sức ép của sự canh tranh: cạnh tranh giữa các doanh nghiệp (DN),
giữa các địa phương trong nước về chính sách thu hút đầu tư, thu hút cán bộ có trình
độ giỏi, công nhân với chất lượng lao động cao; chất lượng nguồn nhân lực chưa


2
đáp ứng với nhu cầu thị trường lao động; điều kiện chăm sóc sức khoẻ chưa tốt, so
với yêu cầu hội nhập và phát triển còn xa; dịch vụ chưa phát triển mạnh.
Đứng trước những khó khăn trên của môi trường đầu tư cùng với những thay
đổi trong quy hoạch phát triển KT - XH và các quy hoạch ngành, lĩnh vực, các

chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư của nhà nước, Bắc Giang muốn đạt mục tiêu thu hút
được nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước cùng với đó là nâng cao
hiệu quả của đầu tư không thể không tập trung vào việc cải thiện môi trường đầu tư.
Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc Giang” làm
đề tài luận văn của mình.
Câu hỏi nghiên cứu: thực trạng việc cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc
Giang ra sao, ảnh hưởng của môi trường đầu tư đến việc thu hút và hiệu quả đầu tư
như thế nào, làm gì và là làm thế nào để cải thiện tốt hơn nữa môi trường đầu tư ở
tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc Giang hiện nay,
tìm ra các hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế, qua đó đề xuất các giải pháp
nhằm cải thiện tốt hơn nữa môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về đầu tư, môi trường đầu tư và cải thiện
môi trường đầu tư.
Phân tích kinh nghiệm của một số địa phương trong cải thiện môi trường
đầu tư.
Phân tích, đánh giá thực trạng cải thiện môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Giang
giai đoạn 2005 - 2013, đề xuất những giải pháp cải thiện tốt hơn nữa môi trường
đầu tư ở tỉnh thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quá trình cải thiện môi trường đầu
tư ở tỉnh Bắc Giang


3
Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu cải thiện một số yếu tố của

môi trường đầu tư như: môi trường chính trị pháp lý, môi trường kinh tế, kết cấu hạ
tầng KT - XH, chất lượng nguồn nhân lực Đề tài không nghiên cứu các yếu tố về
quan hệ quốc tế, tham nhũng, hải quan Môi trường đầu tư mà luận văn tập trung
nghiên cứu là môi trường cho các DN trong và ngoài nước, vì vậy nguồn vốn thu
hút đầu tư của các DN dân doanh, gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư
của các DN trong nước. Luận văn không nghiên cứu đầu tư gián tiếp nước ngoài, hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA), viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ, cũng như
đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu việc cải thiện môi trường đầu tư ở
tỉnh Bắc Giang giai đoạn từ năm 2005 đến cuối năm 2013, đồng thời đề xuất những
giải pháp cải thiện tốt hơn nữa môi trường đầu tư ở tỉnh trong thời gian tới.
4. Khái quát về phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời kết hợp một số phương pháp cụ thể khác như:
trừu tượng hoá khoa học, phân tích tổng hợp, logic và lịch sử, so sánh, thống kê, .
5. Những đóng góp của luận văn:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về đầu tư, môi trường đầu tư và cải thiện
môi trường đầu tư.
Đánh giá thực trạng cải thiện môi trường đầu tư ở Bắc Giang giai đoạn
2005 - 2013.
Đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tốt hơn nữa môi trường đầu tư ở Bắc
giang thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo nội dung chính của
luận văn được trình bày theo 4 chương.


4
Chƣơng 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề cơ bản về cải
thiện môi trường đầu tư

Chƣơng 2. Phương pháp và thiết kế nghiên cứu
Chƣơng 3. Thực trạng cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc Giang giai đoạn
2005 - 2013
Chƣơng 4. Phương hướng và giải pháp tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ở
tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới
























5

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẢI THIỆN MÔI TRƢỜNG ĐẦU TƢ

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cải thiện môi trường đầu tư là một chủ đề không mới. Một mặt, do đầu tư nói
chung, việc cải thiện môi trường đầu tư nói riêng là nhân tố quan trọng của mọi quá
trình tăng trưởng, mặt khác nó cũng là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả của
mọi hoạt động, đặc biệt là trong các hoạt động kinh tế; vì vậy đầu tư, cải thiện môi
trường đầu tư trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học, là vấn đề
dành được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lãnh đạo quản lý ở hầu khắp các bộ,
ban, ngành chức năng và địa phương.
Do vậy, ở những phạm vi và mức độ khác nhau, đã có nhiều công trình nghiên
cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến cải thiện môi trường đầu tư dưới nhiều dạng
thức khác nhau, chẳng hạn như:
Về các công trình nghiên cứu nước ngoài:
Năm 2004, Ngân hàng thế giới (WB) có Báo cáo phát triển thế giới 2005 với
đề tài: “Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người” (A better climate for everyone).
Báo cáo tập trung một số vần đề như: đưa ra khái niệm môi trường đầu tư, đó là tập
hợp các yếu tố đặc thù địa phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để
doanh nhiệp (DN) đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng sản xuất; đánh giá
vai trò của môi trường đầu tư và cho rằng môi trường đầu tư tốt sẽ thúc đẩy đầu tư
tư nhân có hiệu quả - động lực cho tăng trưởng và giảm nghèo, tạo ra cơ hội và việc
làm cho người dân. Khi đầu tư của tư nhân phát triển sẽ mở rộng việc cung cấp
chủng loại và giảm giá thành hàng hóa, dịch vụ. Khi DN tư nhân phát triển cũng
đồng nghĩa với việc tăng nguồn thu thuế cho ngân sách để giải quyết tốt các mục
tiêu xã hội khác; đưa ra mô hình nghiên cứu bao gồm các nhóm yếu tố của môi
trường đầu tư gồm hai nhóm yếu tố chính là chính sách và sự ứng xử của chính phủ,
nhóm yếu tố thứ hai là quy mô của thị trường và địa lý; đồng thời lại đưa ra những
cơ hội và rào cản đối với việc ra quyết định đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân



6
Tuy nhiên báo cáo cũng chưa quan tâm thỏa đáng tới các giải pháp để cải thiện môi
trường đầu tư.
Năm 2005, WB có báo cáo phát triển Việt Nam 2006 với tựa đề: “Kinh
doanh” (Business). Báo cáo đã chỉ ra một số hạn chế của môi trường đầu tư tại Việt
Nam, đó là DN gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng, đất đai, chất lượng nguồn
nhân lực thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém và tình trạng tham nhũng phổ biến. Báo cáo
đánh giá môi trường đầu tư ở nông thôn kém hơn nhiều so với môi trường đầu tư ở
thành thị do các chính sách không rõ ràng, tội phạm, khả năng tiếp cận điện thấp,
tình trạng mất điện nhiều buộc các DN phải đầu tư thêm máy phát điện riêng để
chạy trong trường hợp bị mất điện. Tuy nhiên báo cáo chỉ đánh giá hiện trạng môi
trường đầu tư ở Việt Nam mà không đưa ra các giải pháp để cải thiện môi trường
đầu tư ở Việt Nam.
Năm 2007, tác giả Scott Morgan Robertson với công trình nghiên cứu “Việt
Nam mở cửa để thu hút” (Viet Nam: Open for Investment), đăng trên tạp chí The
Economist. Nội dung bài nghiên cứu của ông gồm hai phần là môi trường đầu tư và
cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Tác giả phân tích ba yếu tố tích cực của môi trường đầu
tư tại Việt Nam: lực lượng lao động trẻ, các quy định về pháp luật đã được cải thiện,
đồng thời chỉ ra một số rào cản về môi trường đầu tư như chính sách về thuế, đất
đai, hệ thống pháp luật chồng chéo, hay thay đổi, tạo cơ hội cho tham nhũng, giá đất
cao Mặc dù vậy, nghiên cứu chưa đưa ra đầy đủ những yếu tố ảnh hưởng đến môi
trường đầu tư ở Việt Nam cũng như đề ra các giải pháp để cải thiện môi trường đầu
tư ở Việt Nam trong thời gian tới.
Năm 2007, tác giả Innocent Azih (Nigeria) có bài nghiên cứu: “Các yếu tố
trong cải thiện môi trường đầu tư để phát triển nông thôn bền vững: nghiên cứu
trường hợp ở Ni-giê-ri-a” (Factor in Investment Climate Reforms for Sustainable
Rural Development: A Case Study of Nigeria by Innocent Azih), trình bày tại diễn
đàn Châu Âu lần thứ 2 về phát triển nông thôn bền vững tổ chức tại Beclin - Đức
tháng 6/2007, đã đưa ra 6 yếu tố ảnh hưởng tới môi trường đầu tư đó là: chính sách,

thị trường, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, các quy tắc, luật pháp và an ninh


7
xã hội. Tuy vậy nghiên cứu này chưa đề cập đến vai trò của vị trí địa lý và nguồn
lực con người đối với môi trường đầu tư.
Năm 2010, Tiến sỹ Matthias Duhn, Giám đốc điều hành Phòng thương mại
Châu Âu (EuroCham) tại Việt Nam có Báo cáo nghiên cứu: “Đánh giá môi trường
đầu tư ở Việt Nam theo con mắt của các nhà đầu tư Châu Âu” (Investment
Enviroment Asessment Vietnam From the Eyes of European Investors). Báo cáo đã
đưa ra 5 nhận định về sự yếu kém của môi trường đầu tư tại Việt Nam hiện nay, đó
là: việc thực hiện các cam kết của WTO, vấn đề bảo vệ quyền bảo vệ sở hữu trí tuệ,
đầu tư cho kết cấu hạ tầng còn hạn chế, vấn đề hải quan, quan liêu tham nhũng, vấn
đề nguồn lực và chất lượng giáo dục. Tuy nhiên báo cáo cũng chưa đề cập đầy đủ
các giải pháp để cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam trong thời gian tới.
Năm 2010, phó trưởng đại diện văn phòng Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật
Bản (JETRO) tại Hà Nội, ông Koichi Takano với công trình nghiên cứu: “Môi
trường kinh doanh theo đánh giá của các nhà đầu tư Nhật Bản” (Review of
Business Enviroment in Vietnam by Japanese Investors). Nghiên cứu chỉ ra một số
khó khăn trong quá trình kinh doanh tại Việt Nam của các nhà đầu tư Nhật Bản như
khó khăn trong việc mua nguyên liệu trong nước, tuyển dụng nhân viên quản lý, thủ
tục thông quan hải quan phức tạp, mất thời gian. Tuy nhiên nghiên cứu lại chưa đưa
ra các giải pháp để khắc phục những vấn đề khó khăn này tại Việt Nam.
Về các công trình nghiên cứu trong nước:
Năm 2003 Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản cuốn sách “Kỹ năng xúc tiến đầu
tư”. Cuốn sách giới thiệu các kỹ năng xúc tiến đầu tư, xây dựng các bước tiến hành
trước khi tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, đồng thời đề xuất cần phải có một
cơ quan xúc tiến đầu tư của mỗi quốc gia (IPA) và xây dựng nội dung giám sát môi
trường đầu tư của từng nước. Tuy nhiên cuốn sách chỉ tập trung đi sâu vào nghiên
cứu kỹ năng xúc tiến đầu tư, chứ chưa nghiên cứu một cách tổng quan các vấn đề về

cải thiện môi trường đầu tư.
Năm 2005 tác giả Nguyễn Văn Hảo thực hiện luận văn thạc sỹ với đề tài “Cải
thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút vốn ĐTNN ở Việt Nam hiện nay”.


8
Luận văn đã chỉ ra những hạn chế của môi trường đầu tư ở Việt Nam như: cơ sở hạ
tầng yếu kém, chi phí đầu tư cao so với các nước trong khu vực, thủ tục hành chính
rườm rà, chính sách thuế bất hợp lý. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số giả pháp
nhằm cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn ĐTNN, đặc biệt đầu tư của Nhật
Bản. Tuy nhiên, đề tài chưa nghiên cứu môi trường đầu tư trong việc thu hút các
nhà đầu tư trong và ngoài nước, chưa nêu được đầy đủ các yếu tố tác động đến môi
trường đầu tư.
Tác giả Nguyễn Trọng Hoài, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM có bài viết
“Môi trường đầu tư nào cho nguồn tài chính nước ngoài tại Việt Nam” đăng trên
tạp chí Phát triển Kinh tế số 172, tháng 2 năm 2005. Qua bài viết này tác giả đánh
giá cao vai trò của môi trường đầu tư và cho rằng các nhà đầu tư trên thế giới cũng
như trong nước đều đứng trước việc đưa ra quyết định là nên đầu tư ở đâu cho đồng
vốn của họ sinh lợi. Tuy nhiên, tác giả chỉ đi sâu vào nghiên cứu môi trường đầu tư
trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Năm 2007, tác giả Nguyễn Ngân Giang, Tư vấn Công ty cổ phần tư vấn Sao
Việt có bài viết: “Môi trường đầu tư và các yếu tố ảnh hưởng” trên trang
. Tác giả đưa ra một số tồn tại về thực trạng môi trường đầu
tư ở Việt Nam như quy mô nền kinh tế nhỏ bé, các cơ sở công nghiệp và trình độ
khoa học kỹ thuật còn thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, nạn tham nhũng phổ
biến và chưa có biện pháp ngăn chặn. Tuy nhiên tác giả chưa đưa ra các giải pháp
để cải thiện các vấn đề trên của môi trường đầu tư.
Năm 2007, tác giả Vương Đức Tuấn với luận án tiến sỹ: “ Hoàn thiện cơ chế,
chính sách để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở thủ đô Hà Nội trong giai đoạn
2001 - 2010”. Đề tài đưa ra các yếu tố của môi trường đầu tư bao gồm: hệ thống

luật pháp, vị trí địa lý, trình độ phát triển của kinh tế, lao động và tài nguyên, thủ tục
hành chính. Tuy nhiên tác giả chưa đề cập tới một số các yếu tố quan trọng khác
như năng lực quản lý của nhà nước, chất lượng nguồn nhân lực.
Năm 2010, Ban chỉ đạo Tây Bắc phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất
bản kỷ yếu: “ Diễn đàn xúc tiến đầu tư vùng Tây Bắc 2010”. Kỷ yếu nêu ra những


9
yếu kém về hạ tầng giao thông đường bộ, hàng không, hệ thống cung cấp điện
Tuy nhiên tài liệu chưa đề cập tới các chính sách ưu đãi đặc thù hoặc những cam kết
về tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Ngoài ra, còn có nhiều luận văn, bài báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học
khác cũng đề cập đến cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam nói chung và các địa
phương trong nước nói riêng để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên
chưa có đề tài nào đề cập một cách đầy đủ nhất những vấn đề lý thuyết liên quan
đến vấn đề cải thiện môi trường đầu tư nói chung; thực trạng cải thiện môi trường
đầu tư giai đoạn từ năm 2005 đến cuối năm 2013 ở Bắc Giang nói riêng, đồng thời
đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc Giang
trong những năm tiếp theo. Vì thế, đề tài “Cải thiện môi trường đầu tư ở tỉnh Bắc
Giang” mong muốn được đóng góp thêm vào lý luận và thực tiễn để tạo thêm động
lực cho sự phát triển KT - XH của địa phương trong thời gian tới.
1.2. Những vấn đề lý luận về cải thiện môi trƣờng đầu tƣ
1.2.1. Một số vấn đề về đầu tư
1.2.1.1. Khái niệm đầu tư
Có rất nhiều định nghĩa về đầu tư, theo nghĩa rộng đầu tư là sự hy sinh các
nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư
các kết quả nhất định trong tương lai mà kết quả này thường phải lớn hơn các chi
phí về các nguồn lực đã bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, là tài nguyên thiên
nhiên, là tài sản vật chất khác hoặc sức lao động. Sự biểu hiện bằng tiền tất cả các
nguồn lực đã bỏ ra trên đây gọi là vốn đầu tư.

Theo khái niệm trên thì những kết quả của đầu tư đem lại là sự tăng thêm tài sản
tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, của cải vật chất khác), tài sản
trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật, của người dân). Các kết quả
đã đạt được của đầu tư đem lại góp phần tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.


10
Theo Luật đầu tư năm 2005 của Việt Nam, đầu tư được hiểu là việc nhà đầu tư bỏ
vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của pháp luật.
Còn trong kinh tế học vĩ mô, đầu tư chỉ việc gia tăng tư bản nhằm tăng cường năng
lực sản xuất tương lai. Đầu tư, vì thế, còn được gọi là hình thành tư bản hoặc tích lũy tư
bản. Do đó, nếu xem xét trên giác độ phát triển kinh tế, xã hội thì đầu tư là những hoạt
động sử dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân
lực và trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của
các tài sản và nguồn lực sẵn có.
Ngoài ra, nếu xem xét dưới giác độ chuyển dịch của vốn thì đầu tư được xem là
biện pháp chuyển dịch vốn đến những nơi cần sử dụng trong điều kiện vốn phải được
bảo toàn và mang lại giá trị tăng thêm cũng như lợi ích kinh tế, xã hội.
Tóm lại, đầu tư là việc bỏ vốn, tiến hành các hoạt động kinh tế nhằm mục đích
tạo ra sản phẩm cho xã hội và mang lại lợi nhuận cho chủ thể đi đầu tư.
Quá trình thực hiện đầu tư có thể được mô tả theo hình 1.1.
Hình 1.1. Quá trình thực hiện đầu tư






Từ hình 1.1, ta nhận thấy hoạt động đầu tư được tiến hành trải qua một quá
trình và người thực hiện là nhà đầu tư.
Nhà đầu tư sở hữu vốn, mục đích của nhà đầu tư là làm cho số vốn mà mình có
ngày càng tăng lên do đó để đạt được mục đích đó nhà đầu tư phải đưa vốn tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo Luật Đầu tư năm 2005 thì vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp
khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu
tư gián tiếp.
Nhà
đầu

Nghiên
cứu nhu
cầu sản
phẩm
Nghiên
cứu lập
dự án
đầu tư
Triển
khai dự
án đầu


Vận
hành dự
án đầu



Thu
hồi
vốn
đầu tư


11
Hoạt động đầu tư trực tiếp là hành động nhà đầu tư bỏ vốn và trực tiếp tham
gia hoạt động quản lý, sử dụng vốn. Còn hoạt động đầu tư gián tiếp là hành động
mà nhà đầu tư chỉ bỏ vốn không tham gia quản lý vốn chỉ thu lợi nhuận thông qua
lãi chứng khoán.
Vì mục tiêu lợi nhuận cho nên nhà đầu tư cần xem xét đầu tư vốn của mình
vào lĩnh vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao đồng thời chắc chắn không có rủi ro xảy
ra đối với vốn của mình. Do đó, nhà đầu tư cần biết rõ kết quả đầu tư tạo ra loại sản
phẩm nào được thị trường ưa chuộng sẽ dễ dàng tiêu thụ và thực hiện việc thu lợi
nhuận. Vì thế bước đầu tiên của quá trình đầu tư là nghiên cứu nhu cầu thị trường
để xác định lĩnh vực đầu tư. Sau đó, nhà đầu tư xem xét các điều kiện để đánh giá
mức độ thuận lợi hay khó khăn có thể xảy ra đối với quá trình đầu tư bằng cách lập
dự án đầu tư. Nếu dự án đầu tư được thẩm định và đánh giá mang lại hiệu quả cho
cả nhà đầu tư và địa bàn đầu tư thì dự án đó được triển khai và vận hành đầu tư để
mang lại kết quả mong đợi. Nhà đầu tư sau khi đạt được kết quả mong muốn (mức
lợi nhuận kỳ vọng) có thể chấm dứt hoạt động đầu tư và thu hồi vốn kết thúc quá
trình đầu tư.
1.2.1.2. Phân loại đầu tư
Có nhiều cách phân loại đầu tư:
- Theo bản chất đối tượng đầu tư:
Đầu tư cho đối tượng vật chất: Là đầu tư tài sản vật chất, tài sản thực như nhà
xưởng, máy móc, thiết bị.
Đầu tư cho các đối tượng tài chính: Là đầu tư các tài sản tài chính như cổ
phiếu, trái phiếu, chứng khoán…

Đầu tư cho các đối tượng phi vật chất: Là đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân
lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học.
- Theo cơ cấu tái sản xuất:
Đầu tư theo chiều rộng: Là hình thức mở rộng quy mô, tăng sản lượng, tạo ra
tài sản mới cho nền kinh tế, nhưng năng suất lao động và kĩ thuật không đổi.


12
Đầu tư theo chiều sâu: Là đầu tư nhưng không mở rộng quy mô, tăng sản
lượng mà tập trung vào việc tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm trên cơ
sở áp dụng tiến bộ kĩ thuật công nghệ, hiện đại hóa.
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư:
Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: 3 loại đầu tư này có quan hệ mật thiết với nhau, đầu
tư phát triển khoa học kỹ thuật và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Ngược lại, đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh tạo tích lũy vốn, nộp thuế tạo tiềm lực cho 2 loại đầu tư kia.
- Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư:
Đầu tư cơ bản: Là loại đầu tư dài hạn, đặc điểm kĩ thuật của quá trình thực
hiện tái sản xuất đầu tư mở rộng các tài sản cố định phức tạp, đòi hỏi vốn lớn, thời
gian thu hồi vốn lâu.
Đầu tư vận hành: Đầu tư này chiếm tỷ trọng nhỏ trong vốn đầu tư, đặc điểm kỹ
thuật của quá trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở
sản xuất kinh doanh có thể thu hồi vốn nhanh sau khi đưa các kết quả đầu tư đi vào
hoạt động.
- Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã
hội:
Đầu tư thương mại: Là đầu tư trong thời gian ngắn với số vốn không lớn, kỹ
thuật đầu tư đơn giản và dễ dự đoán.
Đầu tư sản xuất: Là đầu tư trong thời gian dài với số vốn lớn, kỹ thuật đầu tư

phức tạp và khó dự đoán.
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đã bỏ ra của
các kết quả đầu tư:
Đầu tư ngắn hạn: dưới 1 năm, đầu tư trung hạn: từ 1 năm đến dưới 5 năm và
đầu tư dài hạn: 5 năm trở lên.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư:
Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn không trực tiếp tham
gia điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư.


13
Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản
lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Bao gồm đầu tư dịch
chuyển và đầu tư phát triển.
- Theo nguồn vốn đầu tư trên phạm vi quốc gia:
Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước: Bao gồm hoạt động đầu tư được tài trợ từ
nguồn vốn tích lũy của ngân sách (vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước, do nhà nước bảo lãnh), vốn tích lũy và huy động của DN,
tiền tiết kiệm của dân cư.
Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài: Bao gồm đầu tư được thực hiện bằng các
nguồn vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài.
- Theo chủ thể đầu tư:
Đầu tư công: Hoạt động đầu tư chủ yếu do nhà nước thực hiện.
Đầu tư tư nhân : Hoạt động đầu tư do tư nhân thực hiện.
- Theo vùng lãnh thổ:
Hoạt động đầu tư được chia thành: Đầu tư phát triển của các vùng lãnh thổ, các
vùng kinh tế trọng điểm, đầu tư phát triển khu vực thành thị và nông thôn.
1.2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư được thực hiện cần trải qua một quá trình, để đạt được kết
quả đầu tư trong tương lai với những nguồn lực (vốn đầu tư) bỏ ra ở hiện tại, bản

thân chủ đầu tư cần phải nắm chắc có những yếu tố nào ảnh hưởng đến quá trình
đầu tư với mức độ cụ thể ra sao để tiến hành điều khiển và kiểm soát hoạt động
đầu tư.
Để tiến hành đầu tư trước hết chủ đầu tư cần tiếp cận thị trường, do đó cần
xem xét các yếu tố như: tình hình an ninh, chính trị, xã hội; thủ tục thành lập DN,
vấn đề xuất nhập cảnh; sự công khai, minh bạch chính sách đầu tư Đây là những
yếu tố cần thiết đối với nhà đầu tư để cảm nhận về sự an toàn đối với vốn đầu tư và
kỳ vọng vào các điều kiện thuận lợi có thể có được đối với các bước tiếp theo của
quá trình đầu tư.


14
Trong giai đoạn tiếp theo khi tiến hành triển khai hoạt động sản xuất kinh
doanh tức là vận hành quá trình đầu tư. Nhà đầu tư cần phải kiểm soát chặt chẽ hoạt
động này và mong muốn xác định rõ các yếu tố có liên quan đến hoạt động kinh
doanh đó là: thuế; xuất nhập khẩu, tuyển dụng lao động, tiếp cận đất đai, chi phí sản
xuất, quản lý ngoại hối, khiếu kiện, bảo hộ tài sản, lĩnh vực được phép kinh doanh,
giải quyết tranh chấp, minh bạch, công khai, cơ sở hạ tầng… Những yếu tố này ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể tạo ra những
điều kiện thuận lợi hoặc gây ra những khó khăn cho DN từ đó có thể phát sinh chi
phí và ảnh hưởng đến lợi ích cũng như kết quả cuối cùng.
Sau khi tiến hành đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định, nếu nhà đầu tư
không muốn tiếp tục kinh doanh hoặc dự án đầu tư bị phá sản thì nhà đầu tư cần
xem xét đến các yếu tố có liên quan đến việc chấm dứt hoạt động đầu tư như: phá
sản, giải thể, khiếu kiện và giải quyết tranh chấp liên quan đến phân chia tài sản…
Có thể mô tả các yếu tổ ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư theo hình 1.2.
Hình 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư















Nhà
đầu

Tiếp cận
thị
trường
Hoạt động
kinh
doanh
Kết thúc
hoạt động
kinh doanh
- An ninh, chính trị, xã
hội
- Thủ tục thành lập DN
- Xuất nhập cảnh
- Minh bạch, công khai
chính sách đầu tư
….


- Thuế
- Xuất, nhập cảnh
- Tuyển dụng lao
động
- Tiếp cận đất đai
- Yếu tố chi phí
- Khiếu kiện và giải
quyết tranh chấp
….

- Giải thể
- Phá sản
- Giải quyết
tranh chấp
liên quan



15
Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư được thể hiện trên hình 1.2 hầu
hết là các yếu tố thuộc về cơ chế, chính sách, thủ tục liên quan đến đầu tư và tác
động trực tiếp đến hoạt động đầu tư. Việc tạo ra các yếu tố này gắn với vai trò hoạt
động của chính quyền điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội của từng địa phương
hay của từng quốc gia.
1.2.1.4. Vai trò của đầu tư
Đã có nhiều học thuyết nghiên cứu về vai trò của đầu tư đối với phát triển KT -
XH. Trong hệ thống lý thuyết tăng trưởng kinh tế vào cuối những năm 30 của thế
kỷ XX đã xuất hiện một học thuyết kinh tế mới, đó là học thuyết kinh tế của
J.Maynard Keynes. Khác với tư tưởng kinh tế của các nhà kinh tế học cổ điển và tân

cổ điển, Keynes cho rằng, nền kinh tế có thể đạt tới và duy trì sự cân bằng dưới mức
sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy xu hướng phát triển của nền
kinh tế là đưa mức sản lượng thực tế càng về gần mức sản lượng tiềm năng càng tốt.
Để có sự chuyển dịch này thì đầu tư giữ vai trò quyết định.
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu, do đó những thay đổi
trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu. Về vấn đề này, theo chu trình
kinh tế của Keynes: tổng việc làm => tổng thu nhập => (C: tiêu dùng + G: chi tiêu
chính phủ + I: đầu tư) => tổng cầu => tổng việc làm. Từ chu trình này có thể thấy
đầu tư I giữ vai trò quyết định trong quá trình tái sản xuất. Tái sản xuất xã hội của
nền kinh tế là giản đơn hay mở rộng, tăng trưởng, phát triển là phụ thuộc vào đầu
tư. Mỗi khi nền kinh tế khủng hoảng do tổng cầu suy giảm, vấn đề quyết định là
khôi phục và tăng tổng cầu. Đến lượt mình các giải pháp tăng tổng cầu là nhằm khôi
phục và tăng đầu tư. Do đó khôi phục và tiếp tục đặt nền sản xuất vào quá trình tái
sản xuất mở rộng: tăng trưởng và phát triển.
Như vậy, đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy,
thiết bị… mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất, tăng sản lượng,
quy mô của nền kinh tế. Đầu tư được coi là yếu tố quan trọng của quá trình tăng
trưởng, nó không chỉ tăng vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các DN và của
nền kinh tế mà còn là điều kiện tất yếu để thay đổi về chất của lực lượng sản xuất


16
như: nâng cao trình độ khoa học - công nghệ (KH - CN), góp phần quyết định
vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa quá trình sản xuất. Cố nhiên tăng
đầu tư là tăng tổng cầu dẫn tới tăng việc làm và từ đó cũng góp phần vào việc
xóa đói giảm nghèo.
1.2.2. Vấn đề cơ bản về môi trường đầu tư
1.2.2.1. Khái niệm về môi trường đầu tư
Môi trường được hiểu một cách đơn giản là tổng hòa những cơ sở, điều kiện cần
thiết cho sự tồn tại và phát triển của một sự vật, một đối tượng nào đó chẳng hạn như môi

trường sống của các sinh thể là môi trường khí, môi trường sinh thái Nói một cách
khác chính xác hơn, môi trường là tập hợp các yếu tố, những điều kiện tạo nên khung
cảnh tồn tại và phát triển của một chủ thể. Môi trường đầu tư là một thuật ngữ đã được đề
cập nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới.
Tại Việt Nam khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực thi chính sách đổi mới mở
cửa nền kinh tế hội nhập với thế giới, thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì vấn đề môi
trường đầu tư mới được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn và vấn đề cải thiện môi trường
đầu tư được áp đặt ra như là một giải pháp cho phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế thế
giới và thực thi các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Tuy nhiên môi trường đầu tư được nghiên cứu và xem xét theo nhiều cách
khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu và cách tiếp cận
vấn đề. Với phạm vi nhất định, có thể nghiên cứu môi trường đầu tư của một DN,
một ngành, môi trường đầu tư trong nước, môi trường đầu tư khu vực và môi trường
đầu tư quốc tế. Nhưng nếu tiếp cận môi trường đầu tư theo một khía cạnh, một yếu
tố cấu thành nào đó thì ta lại có môi trường pháp lý, môi trường công nghệ, môi
trường kinh tế, môi trường chính trị… Luận văn này tập trung nghiên cứu một số
quan niệm tiêu biểu về môi trường đầu tư như sau:
Quan niệm thứ nhất, môi trường đầu tư được Wim P.M. Vijverberg - nhà kinh tế
học Mỹ đưa ra là bao gồm tất cả các yếu tố, các điều kiện liên quan đến kinh tế, chính
trị, hành chính, cơ sở hạ tầng tác động đến hoạt động đầu tư và kết quả hoạt động của
DN (Chu Tiến Quang, 2003).


17
Quan niệm này đã nêu rõ được mức độ và tính chất tác động của các yếu tố đầu tư
và điều kiện có tính chất khách quan và chủ quan của môi trường đầu tư đối với các
nhà đầu tư, có nhiều yếu tố thực sự là khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của
DN hay các nhà đầu tư và nhiều khi ngay cả chính phủ cũng không kiểm soát nổi như
các yếu tố pháp lý, kinh tế và chính trị xã hội trong phạm vi quốc gia tác động đến môi
trường đầu tư, nhưng còn có những vấn đề vượt khỏi tầm quốc gia mà chính phủ không

thể lúc nào cũng kiểm soát được. Do vậy những hoạt động của các nhà đầu tư bị chi
phối bởi những yếu tố hữu hình và vô hình của môi trường đầu tư.
Quan niêm thứ hai, môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc thù địa
phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để DN đầu tư có hiệu quả, tạo việc
làm và mở rộng sản xuất (WB, 2004).
Với quan niệm này, môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố của một địa phương
tạo nên cơ hội và điều kiện để các DN đầu tư có hiệu quả, đồng thời tác động đến việc
mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất và tạo công ăn việc làm cho địa phương.
Như vậy, các quan niệm về môi trường đầu tư trên dù là tiếp cận ở góc độ
nào cũng đề cập đến môi trường tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh của
các nhà đầu tư, những yếu tố, điều kiện có ảnh hưởng, tác động đến sự tồn tại và
phát triển của các DN.
Từ hai quan niệm trên và trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu có liên
quan, tác giả đưa ra khái niệm môi trường đầu tư như sau: Môi trường đầu tư là tổng
hợp các yếu tố khách quan và chủ quan của một quốc gia hay một khu vực; nó đem lại
lợi ích, lợi nhuận cho nhà đầu tư; đồng thời quyết định số lượng và chất lượng các
dòng vốn đầu tư vào quốc gia, khu vực đó.
Khái niệm trên cho thấy khi nói tới môi trường đầu tư cần đề cập tới một số nội
dung sau đây:
Thứ nhất, môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố khách quan và chủ quan. Những
yếu tố trên bao gồm điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, tiềm năng về đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, ổn định chính trị, các chính sách về ngoại thương và đầu tư. Một hệ thống
luật pháp hiệu quả và minh bạch, đây là vấn đề các nhà đầu tư quan tâm nhất, đó là thủ


18
tục khi tiến hành kinh doanh, nguồn nhân lực, quyền sở hữu tài sản, hệ thống thuế, tài
chính và một số quy định liên quan tới môi trường như : y tế, an ninh và các vấn đề liên
quan tới cộng đồng. Một số yếu tố khác không kém phần quan trọng là số lượng và
chất lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc,

dịch vụ tài chính - ngân hàng, v.v Các yếu tố trên bao gồm cả yếu tố chủ quan và
khách quan thuộc về một quốc gia hay khu vực.
Thứ hai, các yếu tố khách quan và chủ quan đó phải đem lại lợi ích và lợi nhuận
của nhà đầu tư. Đối với các nhà đầu tư, trước khi xem xét quyết định đầu tư vào một
quốc gia hay một địa bàn nào đó họ đặt vấn đề lợi nhuận lên hàng đầu, vì đây là vấn đề
sống còn để duy trì và phát triển một DN. Tuy nhiên một số dự án, có thể không đem
lại lợi nhuận đầu tư nhưng lại đem lại một số lợi ích như tạo mối quan hệ, quảng bá
hình ảnh hoặc thực hiện tố dự án này sẽ được giao thực hiện một dự án khác để thu hồi
vốn và lợi nhuận.
Thứ ba, các yếu tố khách quan và chủ quan của môi trường đầu tư nó sẽ quyết
định số lượng và chất lượng vốn đầu tư: trong chiến lược thu hút đầu tư của mình các
quốc gia hay các địa phương đều mong muốn thu được một số lượng vốn đầu tư lớn để
bù đắp thiếu hụt vốn đầu tư cho ngân sách nhà nước cấp, đáp ứng yêu cầu phát triển
KT - XH của địa phương hay quốc gia đó. Tỉ lệ vốn đầu tư huy động trên tổng mức đầu
tư xã hội càng cao, điều đó chứng tỏ số lượng vốn đầu tư huy động được là càng lớn.
Ngoài việc quan tâm đến số lượng vốn đầu tư, mỗi địa phương hay quốc gia đều coi
trọng chất lượng dòng vốn đầu tư. Chất lượng vốn đầu tư thể hiện ở lượng vốn thực sự
mà các nhà đầu tư mang từ quốc gia khác tới, chứ không phải nguồn huy động tại
chính quốc gia đến đầu tư. Chất lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào tiến độ giải ngân, hay
tỉ lệ vốn đầu tư thực hiện so với tổng vốn đăng ký. Chất lượng vốn đầu tư còn phụ
thuộc vào trình độ công nghệ, trình độ quản lý mà các nhà đầu tư sử dụng trong quá
trình thực hiện dự án đầu tư. Ngoài ra chất lượng vốn đầu tư còn biểu hiện ở việc chấp
hành luật pháp, chấp hành các quy định về môi trường, cũng như hiệu quả về KT - XH
mà các dự án đầu tư đem lại.


19
1.2.2.2. Phân loại và các tính chất của môi trường đầu tư
- Phân loại môi trường đầu tư
Có nhiều cách để phân loại môi trường đầu tư, tùy theo mục đích, tính chất

nghiên cứu. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu kinh tế trong và ngoài nước, có một
số cách phân loại môi trường đầu tư như phân loại theo các yếu tố cấu thành, theo
đặc điểm của môi trường đầu tư.
Trong phạm vi quốc gia, một khu vực, nếu xét theo yếu tố cấu thành thì môi
trường đầu tư được phân chia thành môi trường tự nhiên, môi trường chính trị, môi
trường kinh tế, môi trường pháp luật, môi trường văn hóa xã hội. Cách phân loại
theo yếu tố cấu thành như trên đã làm rõ cấu trúc của môi trường đầu tư.
Xét theo đặc điểm, môi trường đầu tư được phân chia thành môi trường cứng
và môi trường mềm. Môi trường cứng liên quan đến các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng
kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế gồm hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông
như đường xá, cầu cảng, hàng không, hệ thống thông tin liên lạc… Môi trường
mềm bao gồm hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt
động đầu tư, hệ thống dịch vụ tài chính - ngân hàng, kế toán, kiểm toán
- Các tính chất của môi trường đầu tư
Thứ nhất, môi trường đầu tư có tính khách quan:
Không có một nhà đầu tư nào hay một DN nào có thể tồn tại một cách biệt lập
mà không đặt mình trong một môi trường đầu tư kinh doanh nhất định, ngược lại,
cũng không thể có môi trường đầu tư nào mà lại không có một nhà đầu tư hay một
đơn vị sản xuất kinh doanh, ở đâu có hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh thì ở đó
sẽ hình thành môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư tồn tại một cách khách quan, nó
có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Môi trường
đầu tư một mặt tạo ra các ràng buộc cho các hoạt động đầu tư, mặt khác lại tạo ra
những cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Thứ hai, môi trường đầu tư có tính đa dạng:
Sự đan xen của các môi trường thành phần, các yếu tố của các môi trường
thành phần có tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, do đó khi nghiên cứu và


20
phân tích môi trường đầu tư phải xem xét tổng thể trong mối tương quan giữa các

môi trường thành phần và giữa các yếu tố với nhau, hơn nữa giữa các môi trường lại
có đặc trưng riêng của từng loại.
Thứ ba, môi trường đầu tư có tính động:
Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, bản thân các yếu tố đó
luôn có mối quan hệ qua lại và tương tác lẫn nhau theo từng cấp độ và phạm vi khác
nhau. Mỗi sự thay đổi của một yếu tố cấu thành đều tác động lên các yếu tố còn lại
và tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Sự vận động và biến đổi này chịu tác động của các quy luật vận động nội tại
của từng yếu tố cấu thành môi trường đầu tư và của nền kinh tế, chúng vận động và
biến đổi bởi ngay nội tại của hoạt động đầu tư cũng là một quá trình vận động trong
một môi trường thay đổi không ngừng. Các yếu tố và điều kiện của môi trường đầu
tư tác động đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư hay DN một cách thường
xuyên vận động. Do đó, sự ổn định của môi trường đầu tư chỉ mang tính tương đối
hay ổn định trong sự vận động. Các nhà đầu tư muốn nâng cao hiệu quả đầu tư cần
có được một dự báo về sự thay đổi của môi trường đầu tư, để từ đó có các quyết
định đầu tư chuẩn xác phù hợp với môi trường đầu tư.
Thứ tư, môi trường đầu tư có tính hệ thống:
Mối liên hệ và chịu tác động của các yếu tố thuộc môi trường rộng lớn hơn,
theo từng cấp độ như: môi trường đầu tư ngành, môi trường đầu tư quốc gia, môi
trường đầu tư quốc tế… Trong một môi trường ổn định, mức độ biến đổi của các
yếu tố thấp và có thể dự báo trước được, còn trong môi trường càng phức tạp thì các
nhà đầu tư càng khó đưa ra những quyết định hiệu quả.
Sự ổn định của môi trường đầu tư còn phụ thuộc vào tính phức tạp và tính biến
động của các môi trường tương tác, tính phức tạp của môi trường đầu tư còn có đặc
trưng của một loạt các yếu tố có ảnh hưởng đến các quyết định của nhà đầu tư. Do
đó tính phức tạp của môi trường đầu tư cần phải được coi trọng khi xem xét các yếu
tố, điều kiện của môi trường đầu tư kinh doanh tổng quát vì nó có nhiều yếu tố
ngoại cảnh và yếu tố khách quan tác động tới các nhà đầu tư.



21
1.2.2.3. Các yếu tố cấu thành và vai trò của môi trường đầu tư
- Các yếu tố cấu thành của môi trường đầu tư
Nghiên cứu môi trường đầu tư là rất cần thiết cho công tác quản lý vĩ mô của nhà
nước. Hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư đều chịu sự tác động của các yếu tố
cấu thành môi trường đầu tư, các yếu tố của môi trường đầu tư lại luôn biến động, luôn
thay đổi theo từng thời điểm, từng ngành, từng khu vực và từng quốc gia. Các yếu tố
của môi trường đầu tư có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen lẫn nhau, có
những yếu tố vừa thuộc phạm vi kinh tế, vừa thuộc phạm vi chính trị. Do vậy, việc
phân chia thành các nhóm yếu tố môi trường chỉ có tính chất tương đối và khi phân tích
sẽ khó tránh khỏi trùng lặp.
Thứ nhất, yếu tố về thể chế pháp luật, chính trị. Sự ổn định về chính trị thể
hiện sự nhất quán trong chủ trương, đường lối chính sách cơ bản của nhà nước
luôn nhằm hướng tới một mục tiêu chiến lược của quốc gia. Thực tế cho thấy sự
thành công hay thất bại trong việc thu hút các nhà đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào
sự ổn định về chính trị nhưng cũng tuỳ vào điều kiện KT - XH cụ thể của từng
nước mà hệ thống luật pháp của mỗi nước có sự hấp dẫn đầu tư khác nhau. Trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự ổn định này còn phụ thuộc vào các mối quan
hệ quốc tế thể hiện sự nhất trí, hợp tác hay đối đầu giữa quốc gia với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới từ đó ảnh hưởng đến sự phân biệt đối xử của quốc
gia với “quốc tịch” của các nguồn vốn. Vì thế, nơi tiếp nhận đầu tư càng ổn định
về chính trị và thể chế thì càng có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư, đặc
biệt là nguồn vốn FDI.
Điều chỉnh hành vi kinh doanh của các nhà đầu tư, các quốc gia đều có một hệ
thống luật quy định rõ các nhà đầu tư hay các DN được đầu tư kinh doanh sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ gì, cấm mặt hàng gì, nghĩa vụ và quyền lợi của các nhà
đầu tư. Hệ thống các công cụ chính sách và những quy định của nhà nước có liên
quan đến những hoạt động đầu tư kinh doanh như: chính sách tài chính, tiền tệ,
chính sách thu nhập, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần Hơn nữa là các yếu tố về cơ chế chính sách đầu tư, tạo hành



22
lang pháp lý để thực hiện dự án đầu tư bao gồm các bộ luật và các văn bản pháp
quy dưới luật do nhà nước ban hành, văn bản pháp quy của các Bộ ngành Trung
ương và UBND tỉnh ban hành.
Thứ hai, yếu tố về thể chế hành chính. Đây là yếu tố rất quan trọng của môi
trường đầu tư. Ở đây không thể không đề cập tới hai vấn đề đó là sự điều hành của
các cấp chính quyền địa phương và thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính góp phần tạo nên sự thành công của môi trường đầu tư.
Thủ tục hành chính càng đơn giản, gọn nhẹ, rõ ràng thì sức hút của môi trường đầu
tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài càng lớn. Thủ tục hành chính cũng như cách
hành xử của mỗi địa phương là khác nhau, vì vậy mới có những nơi mà nhà đầu tư
gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc xin cấp giấy phép đầu tư, đăng ký kinh
doanh. Sự đơn giản hóa các thủ tục hành chính sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà
đầu tư trong quá trình đăng ký triển khai thực hiện dự án đầu tư cũng như giảm các
chi phí cả về vật chất và thời gian của nhà đầu tư, tạo dựng được độ tin cậy của các
nhà đầu tư; ngược lại, sẽ làm gia tăng sự quan ngại của các DN, các nhà đầu tư.
Sự điều hành của các cấp chính quyền địa phương, sự điều hành của lãnh đạo,
sự phối hợp giữa các cơ quan công quyền trong việc giải quyết các vấn đề liên quan
đến quá trình sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư là việc làm cần thiết. Nhà
nước cần công khai minh bạch các trương trình, dự án để người dân và DN nắm
được. Hơn nữa để có được năng lực quản lý tốt trong điều hành, một chế độ công
khai minh bạch đòi hỏi trình độ của cán bộ công chức phải không ngừng rèn luyện
nâng cao cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, tinh thông
luật pháp, ngoại ngữ, tin học và các kỹ năng giao tiếp, ứng xử và thông minh trong
việc giải quyết các vấn đề. Sự đồng thuận của các cấp chính quyền địa phương và
nhân dân về thu hút đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư cũng là yếu tố quan trọng
trong môi trường đầu tư.
Thứ ba, yếu tố thị trường - sự đồng bộ của hệ thống thị trường. Trong nền kinh

tế, trình độ phát triển của thị trường có tác động lớn đến môi trường đầu tư. Để thị
trường vận hành thông suốt, các nguồn lực dịch chuyển thuận lợi, được phân bổ hợp


23
lý, hiệu quả thì các loại thị trường phải phát triển đồng bộ, các yếu tố của kinh tế thị
trường hình thành đầy đủ, vận động cùng nhịp, hỗ trợ lẫn nhau, cùng tương tác
trong một chỉnh thể thống nhất. Sự phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền
kinh tế thị trường trước hết như thị trường hàng hóa & dịch vụ, vốn, bất động sản,
lao động, KH - CN là rất quan trọng. Một loại thị trường không phát triển đầy đủ
sẽ kìm hãm sự vận động của các thị trường khác và làm cản trở sự vận động chung
của toàn bộ nền kinh tế. Cho nên ở đâu và bất cứ khi nào mà kinh tế thị trường phát
triển mạnh thể hiện ở sự phát triển đồng bộ của các loại thị trường thì ở đó sẽ thu
hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư phát triển cũng như có được hiệu quả to lớn trong
đầu tư kinh doanh.
Do vậy để nâng cao trình độ phát triển của thị trường, nhà nước cần có những
chính sách vĩ mô để phát triển thị trường. Xây dựng đồng bộ các chính sách về thị
trường, mặt hàng, các chính sách về tài chính tiền tệ, đất đai, lao động, KH - CN,
đầu tư, Sự đồng bộ, nhất quán của các chính sách sẽ tạo hợp lực thúc đẩy sự phát
triển của cả hệ thống thị trường.
Thứ tư, yếu tố về hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH. Hệ thống kết cấu hạ tầng
luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định việc nhà đầu tư có đầu tư hay
không. Kết cấu hạ tầng bao gồm: mạng lưới giao thông vận tải, đường xá, sân bay,
cảng biển, cầu cống, hệ thống thoát nước, cung cấp điện, dịch vụ tài chính - ngân
hàng, lao động, mạng lưới thông tin, bưu chính, viễn thông Những yếu tố này ảnh
hưởng quan trong tới môi trường đầu tư của mỗi quốc gia, cũng như của mỗi địa
phương. Ngoài ra yếu tố công nghệ cũng được phản ánh trong yếu tố kết cấu hạ
tầng kỹ thuật thông quan các chỉ số như trình độ phát triển công nghệ, các yếu tố hạ
tầng công nghệ như nền tảng kiến thức khoa học, kỹ thuật, tốc độ đổi mới công
nghệ, hệ thống phát triển chính sách KH - CN và hiện nay công nghệ là yếu tố có sự

thay đổi mạnh nhất trong môi trường kinh doanh, đem lại thách thức lớn và hấp dẫn
mạnh đối với các nhà đầu tư.

×