1
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng Đại học Vinh
--------------------------
Ngô viết hoàn
áp dụng trực quan vào hỗ trợ giảng dạy
Cơ sở văn hoá Việt Nam
Báo cáo khoa học
Vinh- 2007
Mục lục
Trang
a- mở đầu
1. Đặt vấn đề .................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Phơng pháp nghiên cứu và nguồn t liệu ....................................................... 4
4. Bố cục tiểu luận ............................................................................................ 4
b- nội dung
Ch ơng 1. Thực trạng giảng dạy và sự cần thiết của việc áp dụng trực quan
vào giảng dạy Cơ sở văn hoá Việt Nam ........................................................ 5
1.1. Thực trạng giảng dạy Cơ sở văn hoá Việt Nam và những nhợc điểm hạn
chế của nó ........................................................................................................ 5
1.2. áp dụng trực quan vào giảng dạy Cơ sở văn hoá Việt Nam, u điểm và
tính khả thi ....................................................................................................... 6
Ch ơng 2. áp dụng trực quan và một số bài học cụ thể .............................. 9
2.1. áp dụng trực quan vào giảng dạy bài phong tục - tín ngỡng ................... 9
2.2. áp dụng trực quan vào giảng dạy bài Phật giáo ....................................... 19
2.3. áp dụng trực quan vào giảng dạy các bài học về đặc điểm các vùng văn hoá.... 37
c- kết luận ................................................................................................... 47
d- Tài liệu tham khảo .............................................................................. 48
2
a- mở đầu
1. Đặt vấn đề
Ngày nay xu hớng quốc tế hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới đang
diễn ra với quy mô ngày càng lớn và nhịp độ cao. Chính vì vậy, các quốc gia
muốn phát triển đợc, không còn cách nào khác là phải mở cửa nền kinh tế.
Trong quá trình hội nhập đó, một yêu cầu đặt ra là làm thế nào để vừa tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại làm giàu cho văn hoá dân tộc, lại vừa không
làm mất đi bản sắc văn hoá quý báu của dân tộc. Trớc thực trạng đó, việc
truyền thụ những tri thức về văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết. Bộ môn Cơ sở văn hoá Việt Nam trang bị những hiểu biết tối
thiểu cho sinh viên về một nền văn hoá, một dân tộc, để khi bớc vào đời, họ có
thể tham gia một cách có ý thức vào việc bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc
(1)
.
Hiện nay, cơ sở khoa học và hệ thống lý thuyết của bộ môn Cơ sở văn
hoá Việt Nam có thể nói là đã tơng đối hoàn chỉnh. Vấn đề đặt ra là việc giảng
dạy và học tập bộ môn này trong các trờng đào tạo đã đạt đợc hiệu quả tốt nhất
hay cha.
Giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục Đại học nói riêng vẫn phổ
biến tình trạng dạy chay - học chay, bộ môn Cơ sở văn hoá Việt Nam cũng
không nằm ngoài quy luật này. Trong khi đó, khác với kiểu t duy lôgic của
Toán học, Lý học, Hoá học và Sinh học hay kiểu t duy hình tợng của văn học,
Cơ sở văn hoá Việt Nam cùng với Lịch sử, Địa lí lại là những bộ môn có tính
chất gắn bó sâu sắc với những trực quan sinh động. Chính vì thế nếu chỉ dừng
lại ở việc giảng dạy lý thuyết chay thì không thể nói là đã đạt đợc hiệu quả
giảng dạy và học tập tốt nhất. Bởi vì, suy cho cùng với phơng pháp giảng dạy
kiểu này, sinh viên vẫn chỉ là đối tợng tiếp thu kiến thức một cách thụ động; và
(1)
Trần Ngọc Thêm, 1999. Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb GD.
3
việc học tập bộ môn này cũng chỉ mang tính chất đối phó - trả bài, chứ không
phải là sự hứng thú khi tìm hiểu về những đặc trng văn hoá của chính dân tộc
mình.
Đề tài của chúng tôi lấy việc áp dụng các trực quan vào hỗ trợ giảng
dạy bộ môn Cơ sở văn hoá Việt Nam làm đối tợng nghiên cứu, so sánh. Đề tài
này nếu đợc thực hiện tốt sẽ có những đóng góp sau đây:
1. Giúp cho sinh viên có đợc những hiểu biết sâu sắc hơn về bản sắc văn
hoá dân tộc, nhất là những đặc trng văn hoá của từng vùng, từng miền trên đất
nớc ta qua những hình ảnh sinh động, cụ thể. Từ đó giúp sinh viên ghi nhớ kiến
thức một cách khoa học, không máy móc đối phó.
2. Đa vào môn Cơ sở văn hoá Việt Nam một phơng pháp giảng dạy hiện
đại mà ở đó giảng viên chỉ là ngời hớng dẫn, gợi mở, sinh viên mới là đối tợng
trung tâm của giờ học. Trên cơ sở đó tạo ra không khí học tập năng động, thoát
ly hẳn với tình trạng dạy chay - học chay đang phổ biến của môn học hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc áp dụng trực quan vào hỗ trợ giảng dạy không phải là vấn đề mới.
Đặc biệt trong những năm gần đây, vấn đề này đợc đề cập khá nhiều trong các
hội thảo về đổi mới phơng pháp giảng dạy và trong các bài viết về giáo dục.
Báo điện tử Vnexpress.net, tháng 11/2001, đăng bài có nhan đề Đã đến
lúc cải tiến phơng pháp giảng dạy, trong đó nhấn mạnh: "Thay cho cách giảng
dạy truyền thống chủ yếu là thầy đọc, trò ghi, hãy hớng cho học sinh tự sáng tạo,
thầy giáo không thể thiếu nhng sẽ tốt hơn nhiều nếu thầy là ngời định hớng dẫn
đờng Thực hiện đ ợc điều này không thể chỉ dạy chay".
Cũng báo này, tháng 8/2004, lại tiếp tục cho đăng một bài với hàng tuýp
Nên đổi mới cả t duy lẫn phơng pháp giảng dạy. Trong đó một lần nữa nhấn
mạnh rằng: "Giáo dục của chúng ta cần thay đổi lại cả về t duy lẫn phơng pháp
giảng dạy ở tất cả các cấp. Chúng ta không thể tiếp tục lên bậc Đại học mà ph-
ơng pháp giảng dạy vẫn theo kiểu một chiều "
4
Gần đây nhất, ngày 31/7/2006, TS. Phan Quốc Việt, Tổng Giám đốc Tâm
Việt Group đã bày tỏ tâm huyết của mình với báo chí khi bàn về phơng pháp
giảng dạy:
"Chắc chắn là rất cần một phơng pháp giáo dục mới, lấy ngời học làm
trung tâm hay còn gọi là học qua trải nghiệm. Với phơng pháp này, học viên sẽ
đợc học qua những ví dụ minh hoạ, tình huống và bài tập sinh động dựa trên sự
hoạt động của bộ não".
Nh vậy, có thể thấy rằng, việc đa các trực quan vào hỗ trợ giảng dạy nói
chung đang ngày càng đợc quan tâm. Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là những
nhận thức và phơng pháp luận chung nhất cho tất cả hệ thống giáo dục. Trên
thực tế, ngoài các môn nh Tin học, Ngoại ngữ, các trực quan đã đợc áp dụng
khá phổ biến một cách có hiệu quả; thì các môn học khác, hầu nh cha có một
chuyên luận hay đề tài nghiên cứu nào viết về việc áp dụng trực quan vào giảng
dạy.
Đối với môn Cơ sở văn hoá Việt Nam, mặc dù trong các giáo trình, các
tác giả cũng đã sử dụng những t liệu hình ảnh, tuy vậy, những t liệu hình ảnh
này cũng chỉ mang tính chất là những minh hoạ cho hệ thống lý thuyết chứ cha
phải là đối tợng chính của giáo trình. Hơn nữa, số lợng các t liệu hình ảnh đợc
sử dụng cũng còn tơng đối hạn chế. Cho dù vậy, đây cũng là những gợi mở
quan trọng cho chúng tôi trong việc xây dựng và hoàn thiện đề tài nghiên cứu
của mình.
Với những thực trạng đã trình bày trên đây vấn đề áp dụng trực quan
vào hỗ trợ giảng dạy bộ môn Cơ sở văn hoá Việt Nam xứng đáng đợc khảo sát
và phân tích trong một công trình riêng. Đề tài của chúng tôi đợc tiến hành với
mục đích và quy mô nh vậy.
3. Phơng pháp nghiên cứu và nguồn t liệu
5
Phơng pháp làm việc chính sẽ là phơng pháp quy nạp: Trên cơ sở, hệ
thống lý thuyết đã đợc biên soạn trong các giáo trình, ngời nghiên cứu sẽ khảo
sát và chỉ ra các trực quan phù hợp cho từng bài học, mục học cụ thể.
T liệu nghiên cứu chủ yếu lấy từ các giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam
do Trần Ngọc Thêm và Trần Quốc Vợng (chủ biên) biên soạn, kết hợp với
Website: http: //www.vietshare.com
4. Bố cục của tiểu luận
Nội dung của tiểu luận gồm hai chơng:
Trong Chơng 1 chúng tôi sẽ trình bày về thực trạng việc giảng dạy bộ
môn Cơ sở văn hoá Việt Nam hiện nay, những hạn chế và nhợc điểm của nó.
Đồng thời chỉ ra tính tích cực và khả thi của việc áp dụng trực quan vào hỗ trợ
giảng dạy bộ môn này.
Trong Chơng 2 chúng tôi đa ra các trực quan phù hợp áp dụng cho các
bài giảng về tín ngỡng - phong tục, về phật giáo và về văn hoá đặc trng của các
vùng. Đồng thời chúng tôi cũng chỉ ra ý nghĩa cụ thể của việc áp dụng trực
quan qua từng bài giảng và cách thức thực hiện các bài giảng đó.
b- nội dung
6
Ch ơng 1
Thực trạng giảng dạy và sự cần thiết của việc áp dụng
trực quan vào giảng dạy Cơ sở văn hoá Việt Nam.
1.1. Thực trạng giảng dạy Cơ sở văn hoá Việt Nam và những nhợc điểm hạn
chế của nó.
Nền giáo dục Việt Nam hiện nay quá chú trọng về IQ, tức là logic, trí
thông minh. Giống nh chiếc máy tính, IQ chính là phần cứng, là bộ khung rất
khó thay đổi. Thực chất ta cũng chỉ nói về IQ chứ cha thực sự có phơng pháp
đào tạo và rèn luyện để tăng IQ cho ngời Việt Nam. Điều đó có thể nhận thấy
ngay trong hình thức đào tạo thầy đọc, trò chép, thi cử thiếu trung thực.
Thực tế, việc giảng dạy và học tập bộ môn Cơ sở văn hoá Việt Nam hiện
nay chịu ảnh hởng quá nhiều bởi văn hoá xin - cho, chờ đợi. Học sinh đi học chỉ
đợi thầy "rót" bao nhiêu kiến thức thì "hứng" chứ cha thực sự chủ động tham gia
tích cực vào bài học.
Với phơng pháp dạy chay - học chay truyền thống, giảng viên phải làm
việc hết sức vất vả ngay từ khâu chuẩn bị bài giảng đến khâu giảng bài. Cơ sở
văn hoá Việt Nam là bộ môn tìm hiểu những kiến thức đại cơng về văn hoá và
đặc trng văn hoá của các vùng, miền trên đất nớc ta. Vì thế, nếu chỉ dạy chay thì
trong khuôn khổ 45 phút của một tiết học, giảng viên sẽ phải nói rất nhiều. Cho
dù nh vậy thì vẫn có những phần kiến thức chỉ mang tính chất tợng trng, mơ hồ.
Ví nh khi tìm hiểu về "nhà cửa - kiến trúc" chẳng hạn. Rõ ràng là mỗi
vùng miền khác nhau sẽ có những kiểu kiến trúc nhà ở khác nhau. Giảng viên
có thể giúp sinh viên biết đến các kiểu kiến trúc đó dới dạng liệt kê kiến thức,
nhng không thể giúp sinh viên hình dùng rõ thế nào là nhà hai chái, thế nào là
kiểu nhà mái cong truyền thống? Hay nh khi tìm hiểu về "phong tục - tín ng-
ỡng" giảng viên có thể giúp sinh viên hiểu đợc trong một đám ma truyền thống
7
của ngời Việt có những trình tự nào, nhng xét đến cùng, đó cũng chỉ là những
hiểu biết mang tính chất lý thuyết suông, nhớ đấy rồi lại quên ngay sau đó.
Dạy và học về văn hoá là tìm về những truyền thống văn hoá của dân tộc,
để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Thế hệ trẻ làm sao có thể tiếp
tục công việc bảo tồn những nét đẹp văn hoá của chính dân tộc mình khi những
hiểu biết của họ về văn hoá dân tộc còn quá chung chung và mơ hồ. Chỉ đơn cử
hai ví dụ trên đây cũng đã thấy rõ những hạn chế của lối giảng dạy truyền thống
đối với bộ môn này.
Hơn nữa với cách giảng dạy kiểu này, sinh viên chỉ là đối tợng tiếp thu
kiến thức một cách thụ động. Và nếu phơng pháp học tập cứ theo t duy này thì
rút cuộc chỉ là mãi mãu theo đuổi, thầy truyền cho 8 thì chỉ biết 6, đến khi dạy
lại ngời khác có khi chỉ còn đợc 4.
(1)
Bởi vậy đã đến lúc đa vào giảng dạy bộ
môn này một phơng pháp hiện đại, khơi dậy tính làm chủ và khả năng sáng tạo
của sinh viên trong từng giờ học.
1.2. áp dụng trực quan vào giảng dạy Cơ sở văn hoá Việt Nam, u điểm và
tính khả thi.
Gần đây, vấn đề đổi mới phơng pháp giảng dạy nhằm đảm bảo và nâng
cao chất lợng giáo dục đang đợc d luận đặc biệt quan tâm. Nh đã trình bày ở
trên, Cơ sở văn hoá Việt Nam cùng với Lịch sử, Địa lý là những bộ môn có tính
chất gắn bó sâu sắc với thực tế sinh động. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh
tế nớc ta hiện nay, việc tổ chức cho sinh viên đi thăm quan thực tế thờng xuyên
để nghiên cứu và học tập còn gặp rất nhiều khó khăn. Thế nhng nếu cứ tiếp tục
duy trì phơng pháp dạy chay - học chay truyền thống thì không thể đạt đợc hiệu
quả tốt nhất mà môn học yêu cầu. Tình hình đó đòi hỏi cần có một phơng pháp
giảng dạy mới, với mức chi phí không quá cao mà vẫn có thể nâng cao đợc chất
lợng giảng dạy và học tập bộ môn này. Trớc thực trạng trên, việc áp dụng các
(
1)
Phan Quốc Việt - http: // www. Bacninh.gov.vn/Story/GiaoDucDaoTao/ ChuongTrinhGiaoDuc/2006/7/5469.html.
8
trực quan vào hỗ trợ giảng dạy xem ra là biện pháp hữu hiệu nhất và phù hợp
hơn cả.
Các trực quan mà chúng tôi nói đến ở đây đó là: những t liệu về văn hoá
đợc thể hiện dới dạng hình ảnh, có thể là những thớc phim hoặc tranh, ảnh ghi
lại những cứ liệu văn hoá. Tuỳ theo nội dung từng bài học mà các giảng viên
chọn lựa và sử dụng các t liệu này sao cho hợp lý và đạt hiệu quả tốt nhất.
Các t liệu hình ảnh này có thể lấy từ mạng Internet, các thớc phim về văn
hoá do đài truyền hình Trung ơng hay các đài truyền hình địa phơng thực hiện.
Hoặc phim, ảnh do các giảng viên trực tiếp ghi lại qua các chuyến đi thực tế tại
các bảo tàng văn hoá, bảo tàng dân tộc hay các điểm văn hoá ở các địa phơng.
Cần phải khẳng định rằng, con ngời tri giác về các sự vật, hiện tợng qua
sự tác động của nó vào các giác quan của con ngời. Các sự vật hiện tợng tác
động vào thị giác lại giúp con ngời tri giác về nó trực tiếp, rõ ràng và sâu sắc
hơn cả so với các giác quan khác. Do vậy, sử dụng các trực quan vào hỗ trợ
giảng dạy sẽ làm cho các giờ học đạt đợc hiệu quả tốt nhất.
Ví nh, khi giảng về "Nhà cửa - kiến trúc", thay vì phải giới thuyết rất
nhiều về đặc điểm của các kiểu kiến trúc nhà ở, giảng viên chỉ cần giới thiệu
khái quát những đặc điểm chung nhất của các kiểu kiến trúc đó. Sau đó, chạy
các t liệu hình ảnh đã chuẩn bị lên máy chiếu, phần còn lại là để cho sinh viên
quan sát và tự mình chỉ ra các đặc điểm cụ thể của từng kiểu kiến trúc. Hay nh
khi giảng về phong tục tang ma, công việc của giảng viên cũng chỉ là giới thiệu
một cách sơ lợc về phong tục này. Còn các phần giải thích theo cách giảng dạy
trớc đây bây giờ dành cho sinh viên sau khi đã quan sát các t liệu hình ảnh cụ
thể về đám ma truyền thống của ngời Việt.
Rõ ràng với việc áp dụng trực quan vào giảng dạy nh đã trình bày trên
đây chắc chắn sinh viên sẽ cảm thấy hứng thú và tích cực chủ động tham gia
vào các giờ học một cách có ý thức, trở thành đối tợng trung tâm của bài học.
Vai trò to lớn của các giảng viên thể hiện ở việc chuẩn bị các trực quan phục vụ
9
cho bài giảng của mình, còn trong các giờ lên lớp các thầy cô sẽ chỉ là những
ngời định hớng dẫn đờng.
Nh vậy, trong Chơng 1 này chúng tôi đã trình bày những nhợc điểm, hạn
chế của phơng pháp dạy chay truyền thống đối với môn Cơ sở văn hoá Việt
Nam. Đồng thời chỉ ra tính khả thi của việc áp dụng trực quan vào việc giảng
dạy Cơ sở văn hoá Việt Nam và những tác động tích cực của nó đối với môn
học này. Qua đó chúng tôi chỉ ra tính u việt của việc áp dụng các trực quan vào
giảng dạy đó là: biến trờng học thành sân chơi đích thực, thành môi trờng sống
thực sự
(1)
mà ở đó, sinh viên là đối tợng trung tâm.
Ch ơng 2
áp dụng trực quan vào một số bài học cụ thể.
2.1. áp dụng các trực quan vào giảng dạy bài phong tục - tín ngỡng
(1)
Phan Quốc Việt - http: // www. Bacninh.gov.vn/Story/GiaoDucDaoTao/ ChuongTrinhGiaoDuc/2006/7/5469.html.
10
Phong tục - tín ngỡng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần
làm nên những đặc trng riêng của một nền văn hoá. Bởi vậy, khi nghiên cứu về
văn hoá dân tộc không thể nào không tìm hiểu về tín ngỡng - phong tục. ở
phần này chúng tôi đi vào giải quyết vấn đề áp dụng trực quan vào giảng dạy
các phần cụ thể của một bài học về phong tục - tín ngỡng.
2.1.1. Trớc hết là về tín ngỡng
2.1.1.1. Tín ngỡng phồn thực là một đặc trng của nền văn hoá nông nghiệp. ở
Việt Nam, tín ngỡng phồn thực thể hiện khá đa dạng và rõ nét. Theo cách giảng
dạy truyền thống, giảng viên sẽ lên lớp liệt kê các hình thức biểu hiện của tín
ngỡng này, tức là phải chuẩn bị rất nhiều về phần lý thuyết.
Với việc áp dụng các trực quan, công việc của các giảng viên sẽ là chuẩn
bị các t liệu hình ảnh liên quan đến kiểu tín ngỡng này nh: tợng đá hình nam nữ
với bộ phận sinh dục phóng to ở Văn Điển - Hà Nội, ở thung lũng SaPa - Lào Cai.
Các hình ảnh về tợng ngời với bộ phận sinh dục phóng to ở các nhà mồ Tây
Nguyên; tục thờ cúng mõ - nờng ở Phú Thọ, Hà Tĩnh; hình ảnh về cột đá ở Chùa
Dạm - Bắc Ninh, hình ảnh trên các thạp đồng, trống đồng,
(1)
Phần lên lớp bây
giờ thay vì liệt kê và miêu tả các hình thức biểu hiện của tín ngỡng phồn thực,
các thầy cô chỉ cần giới thiệu khái quát về kiểu tín ngỡng này và thông qua các
hình ảnh đang chiếu, nhấn mạnh ý nghĩa vai trò của tín ngỡng; phần còn lại là để
cho sinh viên quan sát và tự cảm về bài học.
Rõ ràng với hai cách học: một là ghi chép những lời cô giảng một cách
máy móc, khô khan; hai là đợc quan sát trực tiếp các hình ảnh có liên quan đến
nội dung bài học, sinh viên sẽ thích thú hơn với cách học thứ hai. Hơn nữa,
trong một giờ học với các trực quan sinh động, sinh viên sẽ thể hiện đợc cá tính
sáng tạo và t duy của mình về phần kiến thức đợc học. Các giảng viên sẽ là ngời
tập hợp và đa ra những kiến thức chuẩn xác nhất từ những lời phát biểu của sinh
(1)
Trần Ngọc Thêm, 1999. Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb GD.
11
viên. Nhờ đó kích thích sự chủ động trong đón nhận kiến thức của sinh viên,
làm cho giờ học trở nên sôi nổi và năng động hơn.
Dới đây là một số trực quan về Tín ngỡng phồn thực mà chúng tôi đã su
tầm đợc :
12
13
Tín ngỡng phồn thực tìm thấy ở khu nhà mồ Tây Nguyên
Cột đá chùa Dạm- Bắc Ninh
Linga Tháp
Mẫm Bình
Định
14
TÝn ngìng phån thùc trong v¨n ho¸ Ch¨m t×m thÊy ë
Th¸p Chµm
15
16
17
C¸c h×nh kh¾c trªn bÒ mÆt trèng ®ång Ngäc Lò
18
2.1.1.2. Trong phần tín ngỡng này cũng cần phải đề cập đến những tục lệ về thờ
cúng tổ tiên, thờ thổ công.
Không gian văn hoá nớc ta trải dài theo chiều dài lãnh thổ. Bởi vậy ở mỗi
vùng, miền khác nhau tín ngỡng về thờ cúng tổ tiên và tục thờ thổ công cũng có
những điểm khác biệt.
Với bài giảng này, giảng viên chọn lọc những hình ảnh về không gian thờ
cúng, bàn thờ và cách bày trí bàn thờ, vị trí bàn thờ thổ công ở một số vùng
khác nhau cho sinh viên quan sát. Sau khi quan sát, sinh viên sẽ tự mình chỉ ra
những đặc điểm giống và khác nhau trong tín ngỡng này ở các vùng, miền khác
nhau của đất nớc.
2.1.2. Về phong tục
Trong phần này chúng tôi chủ yếu bàn về việc áp dụng trực quan vào
giảng dạy phong tục tang ma.
Qua các t liệu hình ảnh về lễ mộc dục, lễ phạn hàm, khâm liệm, các hình
thức cúng tế, giảng viên giúp sinh viên hiểu rõ các trình tự và quá trình tiến
hành của tang ma ngời Việt.
Ngoài ra cũng cần đa vào các hình ảnh về màu sắc áo tang, khăn tang, cách
thức mặc áo, hình thức chống gậy, loại số lần lạy để sinh viên quan sát, rồi từ
đó chỉ ra tinh thần triết lý âm dơng - ngũ hành trong tang ma của ngời Việt.
19