Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thực trạng triển khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.14 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA BẢO HIỂM
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
ĐỀ TÀI: Thực trạng triển khai thí điểm Bảo hiểm nông
nghiệp tại Việt Nam (2011-2016)
Sinh viên: Lê Tiến Đạt
Lớp: Kinh tế bảo hiểm 53A
Chuyên ngành: Bảo hiểm
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS.Nguyễn Văn Định
Hà nội, tháng 3 năm 2015
2
MỤC LỤC
Phần 1. Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam và sự cần thiết của bảo hiểm nông nghiệp 5
1.1. Khái quát về sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam 5
1.1.1. Nền nông nghiệp nhiệt đới và được trải rộng trên 4 vùng rộng lớn, phức tạp 5
1.1.2. Nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế 5
1.1.3. Nền nông nghiệp vẫn còn lạc hậu 6
1.1.4. Nông nghiệp bị ảnh hưởng rất lớn bởi biến đổi khí hậu 6
1.1.5. Tình hình sản xuất nông nghiệp năm 2013 7
1.2. Sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam 8
1.2.1. Sự cần thiết khách quan 8
1.2.2. Vai trò 12
Phần 2. Thực trạng triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam 14
2.1. Giai đoạn trước quyết định 315/QĐ-TTg (01-3-2011) 14
2.2. Giai đoạn 2011-2013 17
2.2.1. Về cơ chế, chính sách 17
2.2.2. Về việc phối hợp, chỉ đạo thực hiện của các Bộ, ngành 20
2.2.3. Về việc triển khai thực hiện ở địa phương 21
2.2.4. Về hoạt động của các DNBH, DN TBH 22
2.2.5. Kết quả triển khai 22
Phần 3. Đánh giá chung về việc triển khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam 26


3.1. Kết quả đạt được 26
3.2. Hạn chế và nguyên nhân 27
3.2.1. Về phía người dân 27
3.2.2. Về phía DNBH 28
3.2.3. Về phía Nhà nước 30
3.3. Kiến nghị 32
3.3.1. Đối với BTC 32
3.3.2. Đối với Bộ NN&PTNT 32
3.3.3. Đối với UBND các tỉnh, thành phố 33
3.3.4. Đối với DNBH 33
LỜI NÓI ĐẦU
Với trên 70% dân số làm nông nghiệp, đất trồng trọt và đất rừng chiếm 60% tổng diện
tích lănh thổ, tổng giá trị nông nghiệp chiếm 20% GDP, nông nghiệp - nông thôn - nông dân
chiếm địa vị quan trọng trong nền kinh tế xă hội. Tuy nhiên, thiên tai, dịch bệnh hàng năm đă
gây thiệt hại cho người nông dân với khối tài sản ước tính 1,5% GDP. Vì vậy, nhận thức được
3
tầm quan trọng của bảo hiểm nông nghiệp đối với ngành sản xuất nông nghiệp nói riêng, đối
với nền kinh tế nói chung, tháng 03/2011 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
315/QĐ-TTg về thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015.
Thời gian thực hiện thí điểm đã kết thúc, tuy vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập trong quá trình
triển khai nhưng kết quả đạt được là không thể phủ nhận.
4
Phần 1. Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam và sự cần thiết của bảo hiểm nông
nghiệp
1.1. Khái quát về sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
1.1.1. Nền nông nghiệp nhiệt đới và được trải rộng trên 4 vùng rộng lớn, phức tạp
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á nên nhiệt độ và lượng
mưa chịu sự chi phối của gió mùa. Gió mùa mùa đông mang lại kiểu thời tiết lạnh và khô có
mưa phùn vào cuối mùa, đây là kiểu khí hậu thích hợp các loại cây trồng ưa lạnh như su hào,
cải bắp, xà lách, cà chua, Gió mùa mùa hạ mang lại kiểu khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, đây là

kiểu khí hậu rất thích hợp với các loại cây ưa nóng như bầu, bí, mướp, các loại quả Như vậy,
có thể thấy khí hậu ảnh hưởng tới sự phân bố mùa vụ trong nông nghiệp là rất lớn, mỗi mùa
thích hợp với một loại cây trồng, vật nuôi khác nhau. Ngoài ra do đất nước kéo dài theo hướng
B-N nên sự phân bố cây trồng và vật nuôi cũng có sự phân hóa theo không gian địa lý: trung
du, miền núi, đồng bằng và ven biển. Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện thời tiết –
khí hậu nước ta cũng có nhiều khó khăn lớn, như: mưa nhiều và lượng mưa thường tập trung
vào ba tháng trong năm gây lũ lụt, ngập úng. Nắng nhiều thường gây nên khô hạn, có nhiều
vùng thiếu cả nước cho người, vật nuôi sử dụng. Khí hậu ẩm ướt, sâu bệnh, dịch bệnh dễ phát
sinh và lây lan gây ra những tổn thất lớn đối với mùa màng.
1.1.2. Nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế
Đối với Việt Nam, nông nghiệp được coi là xương sống của hệ thống kinh tế, bởi lẽ,
nông nghiệp là ngành có sức lan tỏa lớn nhất, có tính kết nối rất cao với nhiều ngành kinh tế.
Nông nghiệp cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến thực phẩm, chế biến xuất khẩu, đồng
thời, sử dụng sản phẩm của các ngành công nghiệp và dịch vụ, như: nhiên liệu, phân bón, hóa
chất, máy móc cơ khí, năng lượng, tín dụng, bảo hiểm… Ngoài ra, nông nghiệp còn liên quan
mật thiết đến sức mua của dân cư và sự phát triển thị trường trong nước. Với 50% lực lượng
lao động cả nước đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và 70% dân số sống ở nông thôn,
mức thu nhập trong nông nghiệp sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sức cầu của thị trường nội địa và
tiềm năng đầu tư dài hạn. Nông nghiệp Việt Nam đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm và thu nhập cho trước hết là khoảng 70% dân
cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước và ổn định
chính trị - xã hội của đất nước.
Gần đây, tình hình kinh tế có khó khăn do bị tác động của khủng hoảng và suy thoái
kinh tế thế giới, nông nghiệp Việt Nam ngày càng tỏ rõ vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế. Năm
5
2011 xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt gần 25 tỷ USD, tăng trưởng 29% so với năm 2010.
Thặng dư thương mại toàn Ngành năm 2011 đạt trên 9,2 tỷ USD, góp phần giảm nhập siêu cả
nước; nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm 30% giá trị kim ngạch xuất khẩu
quốc gia. Năm 2012, nông nghiệp vẫn giữ đà tăng trưởng của năm 2011 với giá trị sản xuất
nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,4%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,8%, lâm

nghiệp 6,4%, thủy sản 4,5%. Tốc độ tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,7%. Năm 2013, giá
trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,2%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,3%,
lâm nghiệp 6%, thủy sản 4,5%.
1.1.3. Nền nông nghiệp vẫn còn lạc hậu
Nông nghiệp nước ta với điểm xuất phát còn rất thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, kết
cấu hạ tầng nông thôn còn yếu kém, lao động thuần nông còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao
động xã hội, năng suất ruộng đất và năng suất lao động còn thấp,… Sản xuất nông nghiệp nhỏ
lẻ, manh mún khi có đến 99% trong số 10 triệu nông hộ trực tiếp tham gia vào sản xuất nông
nghiệp là nông hộ nhỏ có sở hữu dưới 2 ha đất canh tác. Có 20 triệu lao động trực tiếp tham
gia vào hoạt động sản xuất này và mỗi năm tăng thêm khoảng 600.000 người tham gia vào lĩnh
vực. Nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp ở Việt Nam đang chiếm lực lượng lao động lớn
nhất (xấp xỉ 50%) nhưng thiếu lao động có trình độ. Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, nhu cầu
nhân lực khu vực nông nghiệp, nông thôn là rất lớn, mỗi năm cả nước cần tới trên 1 triệu lao
động, nhưng đội ngũ cán bộ làm nông nghiệp, nông thôn chỉ có khoảng 9% có trình độ đại
học, cao đẳng; 39,4% trung cấp và 9,8% sơ cấp. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nông nghiệp và quá trình cơ giới hóa nông nghiệp diễn ra rất chậm chạp, thiếu tính
đồng bộ, thành tựu xuất hiện trong thời gian rất ngắn. Nông nghiệp chủ yếu phát triển về chiều
rộng và chạy theo số lượng, chưa thực sự phát triển chiều sâu, nên chất lượng hiệu quả và sức
cạnh tranh chưa cao, do đó sản phẩm tiêu thụ khó, giá bán giảm thấp dần, trong khi vật tự kỹ
thuật đầu vào luôn trong xu hướng tăng cao.
1.1.4. Nông nghiệp bị ảnh hưởng rất lớn bởi biến đổi khí hậu
Thứ nhất tình hình hạn hán trở nên nghiêm trọng hơn và tần suất xuất hiện dày hơn. Ví
dụ năm 2010 khô hạn xảy ra nghiêm trọng tại các tỉnh ở miền núi phía Bắc và các tỉnh Bắc
Trung Bộ. Khi đó tỉnh Sơn La là tỉnh có diện tích ngô lớn nhất, năng suất giảm đến 40%; còn
vụ hè thu ở các tỉnh bắc Trung bộ lẽ ra phải cấy trong tháng 6 nhưng hết tháng 7 vẫn chưa thể
cấy vì đồng khô hạn, ngay ở các hồ chứa cũng không có nước. Năm 2013, nóng hạn xảy ra rất
nghiêm trọng ở duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Lẽ ra 16.000 ha lúa hè thu phải gieo
6
cấy, nhưng không có đủ nước nên có khuyến cáo nông dân không sản xuất. Đợt hạn này cũng
đã làm hàng nghìn héc ta cà phê ở Tây Nguyên bị chết.

Thứ hai rét đậm, rét hại cũng có nhiều biểu hiện thất thường. Rõ nhất là rét dài hơn,
những ngày rét đậm – hại nhiều. Rét xâm nhập sâu hơn vào các tỉnh Bắc và Nam Trung Bộ.
Thứ ba là diễn biến mưa trái mùa, mưa đá, lốc xoáy bất thường. Tình trạng mưa trái
mùa vào lúc điều đang ra hoa làm ảnh hưởng rất lớn đến cây điều ở các tỉnh Đông Nam Bộ.
Thứ tư bão cũng rất bất thường. Ví dụ như siêu bão Sơn Tinh (cuối tháng 10 đầu tháng
11 năm 2012) đổ bộ vào Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình. Lẽ ra thời điểm đó
bão đổ bộ vào duyên hải Nam Trung Bộ, khi đó gặt xong rồi, thu hoạch xong rồi không ảnh
hưởng lớn; nhưng bão lại đổ bộ vào phía bắc đang trong trọng tâm vụ đông khiến đồng bằng
Sông Hồng mất hàng chục nghìn ha cây vụ đông.
Thứ năm, đồng bằng sông Cửu Long chịu tình trạng xâm nhập mặn do nước biển dâng
lên và tình trạng khô hạn. Diện tích lúa bị ngập vĩnh viễn tại đồng bằng sông Cửu Long nếu
mực nước biển dâng 12 cm năm 2020, 30 cm năm 2050, sẽ là 1,4%, 6%, tương ứng 1.317 km
2
và 1.345,44 km
2
. Bên cạnh đó, sự xâm nhập mặn lấn sâu vào diện tích lúa cũng tăng lên.
1.1.5. Tình hình sản xuất nông nghiệp năm 2013
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2013 bị ảnh hưởng lớn bởi thời tiết nắng
hạn kéo dài đầu năm và tình trạng xâm nhập mặn diễn ra ở nhiều địa phương phía Nam dẫn
đến năng suất nhiều loại cây trồng giảm so với năm trước. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ sản
phẩm cả trong và ngoài nước bị thu hẹp; giá bán nhiều sản phẩm, nhất là sản phẩm chăn nuôi,
thủy sản ở mức thấp trong khi giá vật tư, nguyên liệu đầu vào tiếp tục tăng cao gây nhiều khó
khăn cho phát triển chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; dịch bệnh trên gia súc, gia cầm vẫn xảy
ra rải rác ở khắp các địa phương gây tâm lý lo ngại cho người nuôi.
Sản lượng lúa ước tính đạt 44,1 triệu tấn, tăng 338,3 nghìn tấn so với năm 2012 (Năm
2012 tăng 1,3 triệu tấn so với năm 2011), trong đó diện tích gieo trồng ước tính đạt 7,9 triệu
ha, tăng 138,7 nghìn ha, năng suất đạt 55,8 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha. Sản xuất cây vụ đông ở các
tỉnh phía Bắc tăng so với năm trước, trong đó lạc đạt 492,6 nghìn tấn, tăng 5,2%; rau các loại
đạt 14,6 triệu tấn, tăng 5,2%, chỉ có đậu tương đạt 168,4 nghìn tấn, giảm 3%. Cây công nghiệp
lâu năm tiếp tục phát triển, diện tích và sản lượng một số cây chủ yếu tăng so với năm 2012,

trong đó cà phê diện tích đạt 584,6 nghìn ha, tăng 2,1%, sản lượng đạt 1289,5 nghìn tấn, tăng
2,3%; cao su diện tích đạt 545,6 nghìn ha, tăng 7%, sản lượng đạt 949,1 nghìn tấn, tăng 8,2%.
Sản lượng một số cây ăn quả đạt khá, trong đó sản lượng cam năm 2013 ước tính đạt 530,9
7
nghìn tấn, tăng 1,7% so với năm 2012; chuối đạt 1,9 triệu tấn, tăng 5,6%; bưởi đạt 449,3 nghìn
tấn, tăng 2,2%. Tuy nhiên, sản lượng vải, chôm chôm đạt 641,1 nghìn tấn, giảm 1,1% so với
năm 2012; quýt đạt 177,7 nghìn tấn, giảm 2,4%.
Về chăn nuôi gia súc, gia cầm, đàn trâu cả nước có 2,6 triệu con, giảm 2,6% so với năm
2012; đàn bò có 5,2 triệu con, giảm 0,7%, riêng nuôi bò sữa vẫn phát triển, tổng đàn bò sữa
năm 2013 của cả nước đạt 186,3 nghìn con, tăng 11,6%; đàn lợn có 26,3 triệu con, giảm 0,9%;
đàn gia cầm có 314,7 triệu con, tăng 2,04%, trong đó đàn gà 231,8 triệu con, tăng 3,6%. Tính
đến ngày 18/12/2013 cả nước không còn địa phương nào có dịch lợn tai xanh và dịch lở mồm
long móng chưa qua 21 ngày, dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày còn có ở tỉnh Hòa Bình.
Sản lượng thuỷ sản ước tính đạt 5918,6 nghìn tấn, tăng 3,2% so với năm 2012, trong đó
cá đạt 4400 nghìn tấn, tăng 1,3%; tôm đạt 704 nghìn tấn, tăng 11,7%. Diện tích nuôi trồng thủy
sản đạt 1037 nghìn ha, giảm 0,2% so với năm 2012, trong đó diện tích nuôi cá tra 10 nghìn ha,
giảm 7,2%; diện tích nuôi tôm 637 nghìn ha, tăng 1,6%. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng ước
tính đạt 3.210 nghìn tấn, tăng 3,2%, trong đó cá 2.407 nghìn tấn, tăng 0,2%; tôm 544,9 nghìn
tấn, tăng 15%. Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng có xu hướng phát triển mạnh thay cho nuôi
tôm sú vì loại tôm này cho năng suất cao, thời gian nuôi ngắn và ít bị bệnh hơn. Năm 2013,
diện tích thả nuôi tôm thẻ chân trắng là 65,2 nghìn ha, gấp gần 2 lần so năm 2012; sản lượng
đạt 230 nghìn tấn, tăng 56,5%. Sản lượng cá tra cả năm ước tính đạt 1170 nghìn tấn, giảm 6%
so với năm 2012.
1.2. Sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
1.2.1. Sự cần thiết khách quan
Sản xuất nông nghiệp thường trải trên một phạm vi rộng lớn và hầu hết lại tiến hành
ngoài trời, vì thế nó chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên. Đối tượng của sản xuất
nông nghiệp là những cơ thể sống như cây trồng, vật nuôi. Chúng không chỉ chịu ảnh hưởng
của điều kiện tự nhiên, mà còn chịu sự tác động của các quy luật sinh học. Vì vậy, xác suất xảy
ra rủi ro trong nông nghiệp đã lớn lại càng lớn hơn so với nhiều ngành sản xuất khác.

Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, người sản xuất luôn phải đối mặt với rất nhiều
các loại rủi ro khác nhau với cơ chế ảnh hưởng hết sức đa dạng và phức tạp. Với những hộ bán
sản phẩm ngay sau khi thu hoạch để trả nợ thì gặp nhiều rủi ro hơn so với những hộ chủ động
nâng cao chất lượng, sản xuất nhiều sản phẩm và tham gia vào các thị trường phát triển hơn.
Những hộ bán sản phẩm tại các chợ địa phương thì gặp rủi ro về giá cả - được mùa mất giá.
Những hộ tham gia vào cộng đồng sản xuất nông sản có khả năng gặp rủi ro bị phá vỡ hợp
8
đồng mặc dù có thể giảm rủi ro về đầu ra, có cơ hội tăng chất lượng nông sản. Những hộ có thể
tiếp cận thị trường ở mức cao hơn như thị trường nông sản giá trị cao thì có thể bị ảnh hưởng
từ sự vỡ bong bóng trên thị trường. Và tựu chung lại, căn cứ vào cách thức tác động, có thể
chia các rủi ro trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam thành một số dạng chính sau đây:
i. Rủi ro trực tiếp
- Thiên tai: Những thiên tai thường gặp trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta chủ yếu là:
+ Bão và áp thấp nhiệt đới: Với vận tốc gió cao, bão và áp thấp nhiệt đới phá hủy nhà
cửa và tạo thành sóng phá hoại các đê biển bảo vệ các vùng đất bên trong, tàn phá mùa màng,
vật nuôi. Đồng thời, thường kèm theo mưa lớn, kéo dài trên diện rộng nên thường gây ra tình
trạng ngập lụt các diện tích đất nông nghiệp trong thời gian dài. Những vùng chịu ảnh hưởng
nhiều nhất của bão là các tỉnh ven biển miền Bắc và miền Trung.
+ Úng lụt: Theo thống kê, có từ 70% đến 80% lượng mưa trung bình ở Việt Nam
(2.500mm/năm) xuất hiện từ tháng 7 đến tháng 11. Ở Bắc bộ, mưa chủ yếu xuất hiện vào
khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm, sau đó giảm dần. Mưa lớn tập trung vào
tháng 7 và tháng 8 với lượng mưa trung bình từ 300mm đến 500mm. Các nghiên cứu cũng cho
thấy ở miền Bắc, nếu mưa liên tục 48 tiếng thì:
• Với lượng mưa 200 mm sẽ làm úng 110.000 ha
• Với lượng mưa 200-250 mm sẽ làm úng 170.000-180.000 ha
• Với lượng mưa 250-300 mm sẽ làm úng 220.000 ha
• Với lượng mưa lớn hơn 300 mm sẽ làm úng 240.000 ha
+ Lũ và lũ quét: Mưa lớn gây úng lụt, nước ở các sông lên cao gây lũ, nước lớn từ
thượng nguồn đổ về bất ngờ gây lũ quét… gọi chung là thủy tai – thực sự đã và đang là những
nguy cơ thường trực đối với đại đa số người Việt Nam nói chung và cư dân trong khu vực

nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Thống kê cho thấy có tới hơn 70% dân số Việt Nam có nguy
cơ bị ảnh hưởng bởi thủy tai.
+ Hạn hán: Hạn hán không những là nguyên nhân gây ra tổn thất trên phạm vi rộng đối
với cây trồng và vật nuôi mà còn tác động đến vấn đề làm tăng độ nhiễm phèn, ảnh hưởng đến
thủy triều và lưu thông dòng chảy. Ở miền Bắc, hạn hán thường xảy ra vào vụ Đông Xuân, còn
ở miền Nam, hạn hán thường xảy ra vào vụ Hè Thu và ở miền núi, hạn thường xảy ra ở vụ
mùa.
9
+ Rét và ấm: Rét và ấm thường ảnh hưởng đến sản xuất lương thực ở miền Bắc và miền
Trung. Khi thời tiết rét đậm (nhiệt độ hạ xuống dưới 13
o
C) sẽ khiến nhiều cây trồng, vật nuôi
bị chết hoặc kéo dài thời gian sinh trưởng. Ngược lại, trong điều kiện thời tiết ấm trái với quy
luật thông thường sẽ khiến cho nhiều loại cây trồng bị rút ngắn thời gian sinh trưởng, mạ
chóng già, kết quả là sản lượng thu hoạch giảm sút.
+ Động đất: Về cấu tạo địa chất, Việt Nam có hai vùng đứt gãy đó là đứt gãy sông Cả-
sông Mã và đứt gãy sông Đà- sông Hồng (còn gọi là nếp đứt kiến tạo). Hai vùng này là nơi gây
ra những cơn địa chấn và động đất ở nước ta. Động đất xảy ra không chỉ tàn phá nhà cửa, công
trình, làm nhiều người thiệt mạng mà còn gây thiệt hại nghiêm trọng đối với cây trồng, vật
nuôi trong khu vực chịu ảnh hưởng.
+ Mưa đá: Khi rơi xuống đất, mưa đá sẽ làm dập nát cây trồng, hoa màu và làm hư
hỏng nhà cửa, công trình những nơi chúng đi qua.
+ Sương muối: Trong điều kiện thời tiết giá rét mùa đông và đầu xuân, thường vào
những đêm không có mây, gió, khí lạnh đọng lại sát mặt đất, khi tiếp xúc với những vật thể có
nhiệt độ lạnh dưới 0
o
C thì một phần hơi nước sẽ bám vào bề mặt vật đó mà ngưng kết thành
tinh thể băng nhỏ. Đó chính là sương muối. Sương muối có thể làm chết nhiều loại cây trồng
và hoa màu trong vụ Đông Xuân.
- Sâu bệnh, dịch bệnh

+ Sâu bệnh: Sâu bệnh có thể gây ra tác hại ở những mức độ khác nhau. Đối với sâu đục
thân: ở mức độ nhiễm nhẹ sẽ làm mất 5%-7% sản lượng, mức độ nặng làm mất tới 50% sản
lượng. Rầy nâu, đạo ôn: mức độ nhiễm nhẹ làm mất 3%-5% sản lượng, mức độ nặng mất 30%-
100% sản lượng. Đối với bệnh khô vằn: mức độ nhiễm nhẹ làm mất 2%-3% sản lượng, mức độ
nặng sẽ làm mất 30%-40% sản lượng.
+ Dịch bệnh: Trong lĩnh vực chăn nuôi, dịch bệnh là một trong những nguyên nhân
chính khiến vật nuôi ốm và chết hàng loạt. Có rất nhiều loại dịch bệnh khác nhau, như dịch tụ
huyết trùng ở lợn, bệnh lở mồm long móng ở trâu bò, cúm virus H5N1 ở gia cầm…
ii. Rủi ro gián tiếp
- Đất: Đất nông nghiệp ở Việt Nam do Chính phủ quản lý. Việc quản lý này đi đôi với việc
quy định về mục đích sử dụng đất. Điều đó có nghĩa là đất được giao để trồng một loại cây nào
đó (chẳng hạn lúa) thì không được sử dụng để trồng các loại cây trồng khác. Vì thế, có một
dạng rủi ro luôn tiềm ẩn đối với nông dân là ruộng đất của họ có thể bị phân chia lại hoặc được
giao trồng một loại cây khác mà họ không có kinh nghiệm.
10
- Quản lý nguồn nước: Tình trạng thiếu nước và quản lý nguồn nước không tốt thường khiến
cho các kế hoạch về mùa vụ không đảm bảo tính chắc chắn trong quá trình thực hiện (chẳng
hạn quy mô gieo trồng 2 hay 3 vụ thâm canh…). Do thiếu cả về cơ sở hạ tầng và trình độ quản
lý các công trình thủy lợi nên rất dễ dẫn tới tình trạng ngập lụt do hệ thống tiêu nước kém hoặc
tràn nước từ các kênh rạch và các con sông. Mặt khác, việc cung cấp nước từ hệ thống tưới
tiêu không đảm bảo có thể gây thiệt hại cho các loại cây trồng vào mùa khô.
- Sử dụng phân bón: Việc lạm dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu hiện nay ở Việt Nam đã trở
nên phổ biến trong sản xuất nông nghiệp, chúng luôn chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn đối
với không chỉ những nông dân sử dụng mà còn đối với sức khoẻ của cả gia đình họ và cộng
đồng.
- Rủi ro bảo quản: Thực tế hiện nay cho thấy trong quá trình thu hoạch và bảo quản nông sản,
bà con nông dân nước ta còn thiếu các phương tiện thu hoạch và hệ thống kho tàng bảo quản.
Điều này sẽ khiến cho sản lượng thu hoạch bị hao hụt, đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng
của nông sản. Theo tính toán, hàng năm có tới 15% đến 18% giá trị thiệt hại của rủi ro bảo
quản là do mưa, mốc và chuột gây ra.

- Sự cô lập: Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Châu Á và các nhà tài trợ khác
đối với Việt Nam thì rủi ro cô lập với thị trường và nguồn thông tin do chất lượng đường giao
thông quá thấp cũng như hệ thống truyền hình không đồng bộ là một trong các nhân tố chính
làm cản trở tiến trình tăng trưởng thu nhập và hạn chế đói nghèo ở các vùng xa xôi, hẻo lánh.
Việc cô lập này sẽ khiến người nông dân hầu như không có cơ hội để tiếp cận với các kiến
thức khoa học, công nghệ tiến bộ cũng như lựa chọn thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình.
- Rủi ro tín dụng: Mặc dù hiện nay hệ thống Ngân hàng NN & Phát triển nông thôn, Ngân
hàng chính sách xã hội đã có mạng lưới khá rộng trên toàn quốc song người nông dân vẫn còn
khó khăn trong việc vay các khoản tiền tương đối lớn với thời gian hoàn trả trên một năm
(chẳng hạn việc vay tiền để mua máy bơm nước hoặc để đầu tư vào các cây trồng lâu năm).
Điều này sẽ trực tiếp kìm hãm sự phát triển và đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp.
iii. Rủi ro thị trường
- Lạm phát: Lạm phát không chỉ đe dọa sản xuất nông nghiệp mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến
toàn bộ nền kinh tế. Đối với nông dân, lạm phát sẽ làm giảm giá trị mùa màng. Lạm phát
không những làm suy giảm sức mua của người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán các khoản tín dụng của nông dân.
11
- Tăng giá vật tư nông nghiệp, thủy lợi phí: Vật tư nông nghiệp, giống, phân bón, thuốc trừ
sâu… là những yếu tố đầu vào hết sức quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Hệ thống các
công trình thủy lợi, kênh mương tưới tiêu là không thể thiếu trong quá trình sản xuất. Vì thế,
khi giá cả của các yếu tố này tăng cao sẽ khiến cho người nông dân rất khó khăn, làm cản trở
việc nâng cao năng suất và chất lượng nông sản.
- Mất thị trường, sụt giá nông sản: Sau khi kết thúc quá trình sản xuất, đầu ra trở thành vấn đề
then chốt đối với tất cả các hộ nông dân sản xuất có tính chất hàng hóa. Do đó, việc mất thị
trường truyền thống hay sụt giá nông sản sẽ làm giảm đáng kể lợi nhuận thu được từ hoạt động
sản xuất. Điều này có thể xuất phát từ nhiều lý do, chẳng hạn như: tính tự phát trong sản xuất
nông nghiệp ở Việt Nam là khá cao; hay do việc thiếu nghiên cứu, tìm hiểu thị trường đầu ra
một cách kỹ lưỡng, thiếu kinh nghiệm trong việc đàm phán, ký kết các đơn hàng; hoặc cũng có
thể là tình trạng tư thương thông đồng với nhau ép giá nông sản mỗi khi được mùa…
iv. Rủi ro khác

- Ngoài những rủi ro chính nêu trên, sản xuất nông nghiệp còn phải đối mặt với nhiều loại rủi
ro khác, như: rủi ro ốm đau, tai nạn và chết của nông dân; rủi ro liên quan đến máy móc, thiết
bị phục vụ sản xuất như trộm cắp, cháy, thiệt hại trong quá trình xây dựng, hỏng hóc máy móc;
các rủi ro hỗn hợp bao gồm rủi ro về chính trị, bạo loạn, chiến tranh, nhiễm phóng xạ…
Trong nông nghiệp có hàng trăm, hàng ngàn loại cây trồng và vật nuôi khác nhau, mỗi
loại lại thường gặp những rủi ro khác nhau. Thậm chí, có những loại rủi ro mà hậu quả của
chúng gây thiệt hại mang tính chất thảm họa. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người
chăn nuôi và trồng trọt. Mặc dù có lao động, có đất đai nhưng muốn mở rộng quy mô sản xuất,
muốn đầu tư thâm canh, muốn sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, họ cũng không dám mạnh
tay vay vốn để đầu tư.
Những đặc điểm trên cho thấy, tính chất ổn định trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta
là rất thấp. Do đó, để chủ động đối phó và có quỹ dự trữ, dự phòng bồi thường kịp thời những
tổn thất do các rủi ro gây ra, biện pháp tốt nhất và hữu hiệu nhất là phải tiến hành bảo hiểm
nông nghiệp. Như vậy, bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) ra đời là cần thiết khách quan.
1.2.2. Vai trò
Để giải quyết những hạn chế của những phương pháp xử lý rủi ro truyền thống (nhóm
biện pháp cơ chế, chính sách định hướng thị trường, nhóm biện pháp kỹ thuật, nhóm biện pháp
12
tài chính)thì xét trên phương diện xử lý rủi ro, bảo hiểm là một trong các giải pháp hết sức hữu
hiệu trong việc trợ giúp và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển:
Một là, bảo hiểm góp phần khắc phục các rủi ro, tổn thất trong nông nghiệp, qua đó
giúp nông dân sớm khôi phục sản xuất và ổn định đời sống. Như đã phân tích, các rủi ro trong
nông nghiệp rất đa dạng, phức tạp và khi xảy ra thường để lại hậu quả khá nặng nề cho sản
xuất và đời sống. Với việc tham gia bảo hiểm, các rủi ro về tài chính đã được nông dân chuyển
giao lại cho DNBH. Khi đó, DNBH sẽ có trách nhiệm quản lý và sử dụng quỹ sao cho có hiệu
quả, đảm bảo thực hiện việc bồi thường khi có rủi ro xảy ra.
Hai là, bảo hiểm góp phần mở rộng tín dụng nông nghiệp. Để có thể được vay vốn sản
xuất, các ngân hàng thường đòi hỏi người vay phải có tài sản thế chấp - điều này sẽ khiến
nhiều hộ không thể vay được tiền. Bằng việc tham gia bảo hiểm, các ngân hàng có thể yên tâm
cho nông dân vay vì khi đó họ có khả năng trả nợ - hợp đồng bảo hiểm chính là thứ tài sản thế

chấp hữu hiệu, đảm bảo cho nông dân trả được tiền vay ngay cả khi họ mất mùa. Chính vì thế,
tín dụng nông nghiệp có cơ hội thuận lợi để phát triển, tạo điều kiệu cho nông dân mở rộng
quy mô sản xuất, mua sắm các máy móc, vật tư cần thiết phục vụ sản xuất.
Ba là, bảo hiểm thúc đẩy quá trình áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản
xuất. Khi đã tham gia bảo hiểm, nông dân hoàn toàn yên tâm vì tiền vốn và phương tiện khoa
học kỹ thuật họ đầu tư vào sản xuất sẽ không bị mất trắng ngay cả trong trường hợp xảy ra
thiên tai, dịch bệnh bất ngờ.
Bốn là, bảo hiểm góp phần giảm bớt gánh nặng chi tiêu của Ngân sách Nhà nước, bởi
lẽ với việc sản xuất nông nghiệp được bảo hiểm, nguồn thu từ thuế nông nghiệp sẽ ổn định
hơn, đồng thời khoản kinh phí dành để cứu trợ đồng bào các vùng bị thiên tai và tai nạn bất
ngờ sẽ có điều kiện thu hẹp lại.
Năm là, bảo hiểm là sự bổ sung rất hiệu quả cho những hạn chế của các biện pháp xử
lý rủi ro truyền thống thường gặp phải. Cụ thể như: bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ có hiệu
quả cho các rủi ro trực tiếp; bảo hiểm là giải pháp hữu hiệu trong trường hợp thiên tai, dịch
bệnh vượt ra khỏi phạm vi của các biện pháp can thiệp về mặt kỹ thuật; người tham gia bảo
hiểm chỉ cần đóng một khoản phí nhỏ thay vì việc phải tự tích lũy một quỹ dự trự tài chính lớn
của biện pháp tự bảo hiểm; bảo hiểm là một phương cách chủ động đối phó với các rủi ro có
thể xảy ra với mức bảo đảm có thể giúp người được bảo hiểm khôi phục lại hoạt động sản xuất
của mình như trước khi xảy ra rủi ro…
13
Mặc dù xử lý rủi ro bằng bảo hiểm có những ưu thế như vậy song chủ yếu là nhằm bảo
vệ cho các rủi ro trực tiếp – những rủi ro thường gây ra thiệt hại nặng nề nhất cho sản xuất
nông nghiệp. Các rủi ro mang tính gián tiếp và thị trường thường khó có thể xác định được
mức độ và hậu quả. Vì thế, về cơ bản, chúng không thuộc phạm vi bảo hiểm.
Phần 2. Thực trạng triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
2.1. Giai đoạn trước quyết định 315/QĐ-TTg (01-3-2011)
Việt Nam là nước nông nghiệp nhưng BHNN lại chiếm tỉ trọng rất nhỏ, nhỏ đến nỗi
nhiều người không biết đến BHNN có tồn tại ở Việt Nam hay không. Mặc dù được khởi động
từ rất sớm, cách đây hơn 30 năm, song cho đến năm 2010 phí BHNN của toàn thị trường mới
chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ (Bảng 1). Rất ít doanh

nghiệp tham gia BHNN. Hầu như các loại cây trồng, vật nuôi, thủy sản đều không được bảo
hiểm.
Bảo Việt đã triển khai thí điểm BHNN từ năm 1982 tại hai huyện Nam Ninh và Vụ Bản
của tỉnh Nam Định với toàn bộ diện tích trồng lúa của 2 huyện trên. Sau 2 năm triển khai thí
điểm do chuyển đổi cơ chế từ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp sang kinh tế hộ gia đình, nên
việc triển khai thí điểm tạm thời dừng lại. Đến năm 1993, Bảo Việt lại tiếp tục triển khai thí
điểm bảo hiểm cây lúa tại 12 tỉnh (An Giang, Bình Định, Bình Thuận, Bắc Giang, Bến Tre, Cà
Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hà Tĩnh, Kiên Giang, Sóc Trăng và Vĩnh Long), mà điển hình là
tỉnh Hà Tĩnh nơi chịu ảnh hưởng của rủi ro do thiên tai nhiều nhất. Kết quả bảo hiểm này chưa
thực ý nghĩa vì tổng diện tích được bảo hiểm chỉ chiếm khoảng 1,16% tổng diện tích gieo
trồng toàn quốc (năm 1995). Năm 1997, Bảo Việt tiếp tục mở rộng tại 16 tỉnh, thành đối với
cây lúa, với diện tích bảo hiểm lúc đó là 208.900 ha, số hộ được bảo hiểm: 315.200 hộ. Tuy
nhiên, đến năm 1999, Bảo Việt phải loại bỏ lĩnh vực kinh doanh này vì không mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp, thu phí được 13,05 tỷ đồng nhưng phải chi bồi thường thiệt hại đến
14,4 tỷ đồng.
14
Ngoài bảo hiểm cây lúa, Bảo Việt còn triển khai các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp
khác, như: bảo hiểm chăn nuôi (bảo hiểm bò sữa, cá tra, cá basa ở 1 số địa phương có khu nuôi
tập trung như Đồng Tháp, An Giang,…), bảo hiểm cây công nghiệp, bảo hiểm cháy rừng…
Rừng và cao su (2 sản phẩm bảo hiểm cây công nghiệp chính của Bảo Việt) cũng được bảo
hiểm, nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với diện tích gieo trồng thực tế. Diện tích cao su được bảo
hiểm chỉ chiếm 10% (doanh thu phí bảo hiểm trong 3 năm 1996, 1997 và 1998 là 3,4 tỷ đồng,
bồi thường 200 triệu đồng), còn rừng chỉ được bảo hiểm một vùng 20.000ha ở Kiên Giang.
Bảo hiểm cây bạch đàn làm nguyên liệu giấy mới được thực hiện cho một dự án liên doanh
trồng rừng với 44.000 ha trong 2 năm 1997, 1998 với phí bảo hiểm thu được 120.000 USD.
Song, sau vài năm hoạt động, Bảo Việt vẫn không thể mở rộng được loại hình bảo hiểm này
hơn nữa và cuối cùng đã phải dừng lại do chi phí quá lớn.
Kết quả thí điểm đã cho thấy: bồi thường lớn hơn phí thu chưa tính chi phí quản lý,
tuyên truyền quảng cáo, chi phí triển khai nghiệp vụ mới; quy mô ngày càng thu hẹp, chưa tìm
được mô hình thích hợp; không quản lý được rủi ro (những năm thí điểm xét về tổng thể là

những năm được mùa, không có rủi ro thiên tai lớn). Đặc biệt việc giải quyết hậu quả sau thí
điểm: cán bộ dôi dư mất nhiều năm mới khắc phục được. Sau thời gian thí điểm không thành
công, Bảo Việt vẫn duy trì BHNN, song quy mô rất nhỏ, tập trung vào: bảo hiểm cây cao su ở
Bình Phước, Tây Ninh và bò sữa ở Kon Tum, Tuyên Quang. Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh
không cao, tỷ lệ bồi thường chiếm trên 80% so với doanh thu phí bảo hiểm, cao hơn rất nhiều
so với tỷ lệ bồi thường của các nghiệp vụ bảo hiểm khác của Bảo Việt.
Cùng với Bảo Việt, Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp Groupama Việt Nam cũng triển
khai bảo hiểm nông nghiệp. 7-2001, được sự chấp thuận của Bộ Tài chính, doanh nghiệp bảo
hiểm Groupama có vốn 100% nước ngoài (Pháp) – là tập đoàn bảo hiểm lớn về nông nghiệp
và có nhiều kinh nghiệm trên thị trường quốc tế, sau nhiều năm nghiên cứu thị trường BHNN
Việt Nam và rút kinh nghiệm từ Bảo Việt, Groupama đã thận trọng cung cấp dịch vụ bảo hiểm
cho vật nuôi và cây trồng, bảo hiểm tài sản, thiệt hại dùng trong sản xuất nông nghiệp, bảo
hiểm việc cung ứng nguyên vật liệu thiết bị và bao tiêu các sản phẩm nông nghiệp; bảo hiểm
tai nạn lao động nông nghiệp và trách nhiệm dân sự trong sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm đối
với hoạt động nuôi tôm từ năm 2002 với thị trường chủ yếu là ĐBSCL. Tuy nhiên, Groupama
đã phải chấm dứt cung cấp dịch vụ bảo hiểm nuôi tôm sau một cơn bão gây ra thiệt hại nặng
nề. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng doanh thu từ loại hình bảo hiểm nông nghiệp của
Groupama cũng không đáng kể, tỷ lệ bồi thường rất lớn (năm 2005 tỷ lệ bồi thường lên tới
4.426%). Còn đối với bảo hiểm con gà, họ nhập 1 loại vòng từ Pháp về để đeo vào chân những
con gà được bảo hiểm, nhưng sau đó loại vòng này cũng được sản xuất ở quận 5 Tp.HCM và
15
người tham gia bảo hiểm đã mua loại vòng trên về đeo cho gà của mình. Chính điều này đã
khiến Groupama chỉ còn triển khai BHNN đối với các trang trại, còn hình thức bảo hiểm đối
với gia đình thì đành bỏ cuộc.
Năm 2003, Groupama bảo hiểm cho cả người chăn nuôi với quy mô chỉ 1 con bò, tuy
nhiên bảo hiểm con nào thì con đó chết. Kết hợp cùng với bộ phận khuyến nông của địa
phương kiểm tra lại mới biết nông dân chăn nuôi không đúng cách, thiếu kỹ thuật làm cho bò
suy kiệt đến chết, buộc công ty bảo hiểm phải bồi thường. Sau đó, Groupama phải nâng quy
mô đàn nuôi từ 3 con trở lên đối với bò và 5 con trở lên đối với lợn. Năm 2005, công ty này
mở rộng địa bàn hoạt động ra ngoài khu vực đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam

Bộ, đồng thời thu hẹp đối tượng bảo hiểm, theo đó, chỉ bảo hiểm cho vật nuôi (bò và lợn).
Năm 2006, Groupama đã tạm thời ngừng hoạt động BHNN để đánh giá lại thị trường, nhìn
nhận những tổn thất và có chiến lược phát triển mới do liên tục lỗ từ khi thành lập.
Năm 2010, tham gia vào BHNN có thêm Bảo Minh bảo hiểm cây cà phê, BIC (Tổng
CTCP Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam) bảo hiểm cây cao su và ABIC
(Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam) bảo hiểm bò sữa tại Nghệ An.
Bên cạnh đó, những tổ chức khác như Quỹ bảo hiểm GlobalAgRick Inc cũng đã tiến hành
nghiên cứu bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ số đối với lũ tại Đồng Tháp và hạn hán ở Đắc Lắc;
Ngân hàng Thế giới tài trợ để xây dựng đề án về phát triển bảo hiểm nông nghiệp;… nhưng tất
cả những hoạt động đó mới chỉ dừng lại ở giai đoạn nghiên cứu hoặc chỉ triển khai thí điểm.
Vì vậy, đến hết năm 2010, trên toàn quốc mới chỉ có khoảng 1% số cây trồng; 0,24% đàn trâu,
bò; 0,1% đàn lợn và 0,04% số gia cầm được bảo hiểm. Khi gặp thiên tai, dịch bệnh, mùa màng
thất bát, thì Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) được coi là
chủ chốt cho nông dân vay, sẽ phải khoanh nợ, xóa nợ. Như vậy, thực chất ở Việt Nam,
Agribank đang hoạt động như người bảo hiểm nông nghiệp với chi phí chịu rủi ro lấy từ nguồn
tiền của Chính phủ, thay vì do nông dân đóng.
Về phía người nông dân, họ đã phải “tự cứu mình” bằng việc tự lập ra các quỹ như:
"Quỹ bảo hiểm xóm" ở xã Tân Lập (huyện Lạc Sơn, Hòa Bình), hay Quỹ bảo hiểm vật nuôi tại
Công ty cổ phần giống bò sữa Mộc Châu… Theo đó, mỗi hộ sẽ đóng góp một phần sản lượng
thu hoạch sau mỗi mùa vụ để chia sẻ cho các hộ khi mất mùa, gặp rủi ro, hoặc đóng bảo hiểm
cho vật nuôi để khi gặp rủi ro sẽ được quỹ hỗ trợ. Hiện tổng số vốn của các quỹ đã lên tới 10 tỉ
đồng. Sự ra đời của các quỹ kiểu này tuy chỉ mang tính tự phát song cũng đem lại hiệu quả tích
cực, làm cho người nông dân cảm thấy rủi ro phần nào được san sẻ, nên yên tâm hơn và gắn bó
16
hơn với các tổ chức sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng phản ánh mong muốn của họ muốn
có bảo hiểm trong lĩnh vực này.
Về phía Nhà nước, cũng đã ban hành 1 số quy định về BHNN. Cụ thể là Điều 4, Luật
KDBH (2000) quy định: “Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các nghiệp vụ bảo hiểm phục
vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là chương trình phát triển nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp”. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008, về nông nghiệp, nông dân,

nông thôn nêu: "… thí điểm bảo hiểm nông nghiệp, bảo đảm mức sống tối thiểu cho cư dân
nông thôn". Chiến lược quốc gia phòng chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020: "Nghiên
cứu xây dựng quỹ tự lực tài chính, quỹ bảo hiểm về thiên tai". Nghị quyết số 22-NQ/CP, ngày
23-9-2008, của Chính phủ về "Ban hành chính sách bảo hiểm nông nghiệp trong nền kinh tế
thị trường". Nghị quyết số 24-NQ/CP, ngày 28-10- 2008, của Chính phủ về "Đề án thí điểm
bảo hiểm nông nghiệp". Tuy nhiên, mới chỉ dừng lại ở mức là chỉ đạo.
2.2. Giai đoạn 2011-2013
2.2.1. Về cơ chế, chính sách
Trước thực trạng “dậm chân tại chỗ” nếu không muốn nói có lúc BHNN Việt Nam
đứng trước nguy cơ chết yểu, nhận thức được tầm quan trọng của BHNN trong việc góp phần
ổn định và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp nước nhà phát triển, ngày 01-03-2011, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 315/2011/QĐ-TTg về việc thực hiện thí điểm BHNN
giai đoạn 2011-2013 tại 20 tỉnh, thành phố trong phạm vi cả nước. Sau Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, việc triển khai thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai
một cách đồng bộ với sự phối hợp thống nhất giữa Bộ Tài chính (BTC), Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố triển khai thí điểm
bảo hiểm nông nghiệp, Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt, Tổng công ty cổ phần Bảo Minh,
Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam và các
cơ quan thông tấn báo chí Trung ương và địa phương.
Theo đó, Thực hiện bảo hiểm cây lúa tại 7 tỉnh: Nam Định, Thái Bình, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Bình Thuận, An Giang, Đồng Tháp. Thực hiện bảo hiểm chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm
tại 9 tỉnh: Bắc Ninh, Nghệ An, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Thanh Hóa, Bình Định, Bình
Dương và Hà Nội. Thực hiện bảo hiểm nuôi trồng thủy sản cá tra, cá ba sa, tôm sú, tôm chân
trắng tại 5 tỉnh: Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau. Theo Quyết định 315, nội
dung quan trọng được đề cập là Nhà nước sẽ hỗ trợ phí bảo hiểm cho người nông dân khi tham
gia BHNN, hỗ trợ chi phí quản lý và tái bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Đây là điều mà
Việt Nam chưa từng thực hiện trước đó, sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với BHNN được
17
thực hiện cả ở cấp Trung ương và cấp địa phương với mong muốn sẽ đẩy mạnh phát triển
BHNN, thu hút người nông dân tham gia bảo hiểm, góp phần ổn định và phát triển sản xuất

nông nghiệp nước nhà nói riêng, an sinh xã hội cho nông thôn Việt Nam nói chung. Cụ thể:
Nhà nước hỗ trợ 100% phí bảo hiểm đối với hộ nghèo, 80% đối với hộ cận nghèo, 60% đối với
hộ không thuộc diện nghèo hay cận nghèo, và 20% đối với các tổ chức sản xuất nông nghiệp.
Ngân sách trung ương sẽ hỗ trợ 100% đối với các tỉnh nhận bổ sung cân đối từ ngân sách trung
ương; hỗ trợ 50% cho các tỉnh, thành phố có tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung ương dưới 50%,
ngân sách địa phương tự đảm bảo 50% còn lại; đối với các tỉnh, thành phố còn lại, ngân sách
địa phương tự đảm bảo toàn bộ. Việc hỗ trợ phí bảo hiểm được thực hiện thông qua doanh
nghiệp bảo hiểm (DNBH), khi DNBH cấp đơn và thu phí theo hợp đồng bảo hiểm.
Tuy nhiên phải đến ngày 01-7-2011 thì chương trình thí điểm mới thực sự bắt đầu sau
khi Thông tư 47/TT-BNNPTNT do Bộ NN&PTNT ban hành ngày 29-6-2011 có hướng dẫn cụ
thể. Ví dụ đối tượng được bảo hiểm quy định chi tiết hơn: lợn (thịt, nái, đực giống); gia cầm
thì có gà (thịt, đẻ) và vịt (thịt, đẻ); bò thì có bò (thịt, cày kéo, sinh sản) và bò sữa; trâu (thịt, cày
kéo, sinh sản). Các dịch bệnh và thiên tai được bảo hiểm cũng được cụ thể hóa: thiên tai (bão
lũ, lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, sương giá, xâm nhập mặn, sóng thần); các loại dịch bệnh cây
lúa (bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, lùn sọc đen; dịch rầy nâu), lợn (dịch tai xanh, bệnh lở mồm
long móng), Mức độ thiệt hại được bảo hiểm: do ảnh hưởng của các loại thiên tai, dịch bệnh
được bảo hiểm làm cho năng suất lúa thu hoạch của vùng thấp hơn 75% (<75%) năng suất
bình quân vụ sản xuất trong 03 năm gần nhất; chăn nuôi thiệt hại ở mức 20%; thủy sản nuôi ở
mức 30% trở lên (theo giá trị kinh tế) thì được bảo hiểm. DNBH cũng sẽ chi trả tối đa 20% giá
trị bảo hiểm cho việc điều trị bệnh của đối tượng được bảo hiểm. Bên cạnh đó là quy định các
tiêu chí về quy mô, quy trình sản xuất đối với cây lúa nước (Phụ lục I ban hành kèm theo
Thông tư 47) tại các vùng miền trong vụ đông – xuân và vụ mùa; quy định về quy trình chăn
nuôi trâu, bò và bò sữa tham gia thí điểm tại Phụ lục II;…
Ngày 17-8-2011, BTC ban hành Thông tư 121/TT-BTC hướng dẫn thực hiện các nội
dung: phê chuẩn quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm; kênh phân phối; điều kiện giao kết
hợp đồng; thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm; điều kiện DNBH được thanh toán hỗ trợ;
trách nhiệm của các Bộ, UBND, DNBH; chế độ tài chính đối với DNBH, DN TBH. Trong đó,
đáng chú ý là việc DNBH tham gia triển khai theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận và
phải hạch toán tách biệt doanh thu, chi phí với các hoạt động BHNN (nếu có) mà DNBH đang
triển khai.

18
Ngày 16-12-2011, BTC ban hành quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm nông
nghiệp kèm theo Quyết định 3035/QĐ-BTC. Theo đó, cây lúa (cây lúa nước) được bảo hiểm
theo chỉ số năng suất và không áp dụng mức miễn thường; đơn vị được bảo hiểm là các xã
thuộc các tỉnh thực hiện thí điểm BHNN; năng suất được bảo hiểm (mức miễn thường): tính
bằng 80% năng suất bình quân xã chứ không phải là 75% như trong Thông tư 47/2011/TT-
BNNPTNN; người dân cũng có thể tham gia bảo hiểm bổ sung: bảo hiểm cho chi phí gieo
trồng lại trong trường hợp trên 20% diện tích lúa thực tế trong xã bị thiệt hại trong thời gian
cấy/sạ gây ra bởi các rủi ro được bảo hiểm với số tiền bồi thường bằng 5% số tiền bảo hiểm
của diện tích lúa phải gieo cấy/sạ lại. Khác với bảo hiểm cây lúa, trong bảo hiểm vật nuôi có
áp dụng miễn thường khấu trừ cho tất cả các rủi ro: 40% tổn thất được bảo hiểm, trong trường
hợp vật nuôi phải tiêu hủy theo quy định của cơ quan chức năng có thẩm quyền thì là 50% tổn
thất được bảo hiểm; mức miễn thường chỉ áp dụng đối với rủi ro bệnh, dịch bệnh chứ không áp
dụng với rủi ro thiên tai: 10% số lượng vật nuôi được bảo hiểm cho mỗi hợp đồng bảo hiểm
(chăn nuôi trang trại), 10% tổng đàn tính trên quy mô toàn xã (chăn nuôi cá lẻ). Trong bảo
hiểm tôm/cá, cũng chỉ áp dụng mức miễn thường đối với dịch bệnh còn thiên tai thì không
nhưng đặc biệt ở chỗ là tính theo ngày nuôi: trong 10 ngày nuôi đầu tiên mà xảy ra tổn thất do
dịch bệnh thì DNBH sẽ không bồi thường; mức khấu trừ là 30% của số tiền bồi thường trên
từng cơ sở nuôi trồng bị thiệt hại.
Ngày 23-8-2012, Bộ NN&PTNT đã ban hành Thông tư 43/TT-BNNPTNT sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư 47/2011/TT-BNNPTNT và ngày 24-8-2012, BTC ban hành
quyết định 2114/QĐ-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy tắc, biểu phí và mức trách
nhiệm bảo hiểm nông nghiệp ban hành kèm theo Quyết định 3035/2011/QĐ-BTC theo hướng
mở rộng phạm vi được bảo hiểm, giảm phí đóng. Trong thiên tai được bảo hiểm thì có thêm
giông, lốc xoáy; tiêu chí và quy mô địa bàn được tăng thành từ 3 xã trở lên, quy mô bảo hiểm
toàn xã, bỏ quy định xã lựa chọn vùng nuôi. Đối với bảo hiểm cây lúa, mở rộng đơn vị được
bảo hiểm là xã, thôn hoặc hợp tác xã; năng suất được bảo hiểm tăng từ 80% lên 90% năng suất
bình quân xã; dịch bệnh có thêm bệnh bạc lá, sâu đục thân; tỷ lệ phí bảo hiểm ở cả 7 tỉnh đều
giảm; bảo hiểm bổ sung: chỉ cần trên 5ha lúa thực tế trong xã bị thiệt hại trong thời gian cấy/sạ
gây ra bởi rủi ro được bảo hiểm. Đối với bảo hiểm vật nuôi, bỏ quy định về điều kiện số lượng

vật nuôi tham gia bảo hiểm; bỏ quy định về mức miễn thường đối với rủi ro dịch bệnh; thêm
dịch bệnh tụ huyết trùng, nhiệt thán ở trâu, bò; bệnh đóng dấu, phó thương hàn, tụ huyết trùng,
dịch tả ở lợn; bệnh Niu-cát-xơn (Newcastle), gumboro, dịch tả (vịt) ở gà, vịt được bảo hiểm;
thêm các quy định cho vịt thịt, vịt đẻ, lợn đực giống; số tiền bảo hiểm bò sữa tăng từ
35.000.000 VNĐ/con lên 60.000.000 VNĐ/con; tỷ lệ phí thuần có mức giảm lớn. Riêng bảo
19
hiểm tôm/cá thì có trường hợp cá basa bị loại khỏi đối tượng được bảo hiểm; thêm bệnh hoại
tử cơ quan tạo máu và cơ quan biểu mô (IHHNV) ở tôm sú, tôm thẻ chân trắng, thêm bệnh
hoại tử cơ hay bệnh dục cơ do vi rút (IMNV) ở tôm thẻ chân trắng được bảo hiểm; tỷ lệ phí
bảo hiểm giữ nguyên.
Ngày 27-02-2013, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 358/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ
sung 1 số điều của Quyết định 315/2011/QĐ-TTg. Theo đó, sẽ nâng mức hỗ trợ cho hộ nông
dân, cá nhân cận nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm BHNN từ 80% lên 90% phí
bảo hiểm. Các hộ nông dân, cá nhân, tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm
đối với vật nuôi thì vẫn được hưởng cơ chế, chính sách hỗ trợ phòng, chống dịch bệnh gia súc,
gia cầm và cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất
vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Nhưng tổng mức bồi thường bảo hiểm và mức hỗ trợ
trực tiếp đối với trường hợp vật nuôi bị thiệt hại không được vượt quá giá trị kinh tế của vật
nuôi tại thời điểm vật nuôi bị thiệt hại. Sau đó, ngày 06-5-2013, BTC đã ban hành Thông tư
57/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư 121/2011/TT-BTC để phù hợp với Quyết định 358 của
Thủ tướng với nội dung tương tự.
Ngày 08-5-2013, BTC ban hành Quyết định 1042/QĐ-BTC sửa đổi, bổ sung 1 số điều
của Quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm tôm, cá theo hướng tăng mức phí đóng và
các điều khoản chặt chẽ hơn, phạm vi được bảo hiểm thu hẹp lại: đơn giá thức ăn, con giống
tính theo công bố của cơ quan chuyên môn do UBND tỉnh chỉ định còn hiệu lực tại thời điểm
cấp đơn bảo hiểm. DNBH có quyền từ chối bồi thường 1 phần số tiền bồi thường đối với
trường hợp tổn thất xảy ra mà DNBH chứng minh được: người được bảo hiểm khai báo tổn
thất chậm so với quy định, không thực hiện nuôi thủy sản theo đúng mật độ, tôm chết không
đồng nhất về kích cỡ được xác định nhiều loại độ tuổi cùng nuôi trong 1 cơ sở nuôi trồng. Tỷ
lệ thiệt hại được bảo hiểm giảm, các nhóm ngày nuôi được chia nhỏ hơn và tỷ lệ phí bảo hiểm

tăng (trước là khác nhau giữa 3 hình thức nuôi thâm canh, bán thâm canh, quảng canh cải tiến,
còn bây giờ là áp dụng chung cho cả 3 hình thức với mức cao nhất).
Ngày 23-7-2013, BTC tiếp tục nâng tỷ lệ phí đối với bảo hiểm tôm/cá trong Quyết định
1725/QĐ-BTC. Theo đó, tỷ lệ phí bảo hiểm tôm tăng từ 9,72% lên 13,73% và tỷ lệ phí bảo
hiểm cá tra tăng từ 4,82% lên 6,83%.
2.2.2. Về việc phối hợp, chỉ đạo thực hiện của các Bộ, ngành
Để triển khai chính sách chế độ và nâng cao hiệu quản lý, giám sát rủi ro, sau Hội nghị
sơ kết tại Nghệ An ngày 06-7-2012, BTC tiếp tục phối hợp với Bộ NN&PTNT thành lập thêm
nhiều đoàn công tác thường xuyên trao đổi, làm việc với Ban chỉ đạo các địa phương để giải
20
thích chính sách chế độ, nắm tình hình triển khai ở cơ sở, các khó khăn, vướng mắc, trên cơ sở
đó đã phối hợp với Ban chỉ đạo địa phương có biện pháp tháo gỡ kịp thời, đảm bảo quyền lợi
của người tham gia bảo hiểm và việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp đúng chế độ quy định.
BTC đã chỉ đạo các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc phổ biến, hướng dẫn chính sách
chế độ cho người dân, tổ chức khai thác, theo dõi thực hiện hợp đồng bảo hiểm; tăng cường
công tác quản lý rủi ro; xác nhận dịch bệnh, xác định dịch bệnh và mức độ thiệt hại thực tế
đảm bảo giải quyết bồi thường bảo hiểm chặt chẽ, đúng chế độ quy định, phòng ngừa trục lợi
bảo hiểm.
BTC đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tấn báo chí để tổ chức tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng như VTV1, Truyền hình Chính phủ Vietnam online,
Báo Nhân dân, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin Bộ Tài chính Những thông
tin của các cơ quan thông tấn báo chí đã góp phần làm cho người dân, cơ quan hữu quan hiểu
rõ hơn về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, chế độ BHNN.
2.2.3. Về việc triển khai thực hiện ở địa phương
Ban chỉ đạo địa phương tiếp tục được kiện toàn, thay đổi về chất:
i. 100% tỉnh, huyện, xã thuộc địa bàn triển khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đều đã
thành lập Ban chỉ đạo và phân công nhiệm vụ cụ thể từng thành viên. Một số địa
phương (Sóc Trăng, Vĩnh Phúc, Bến Tre) đã bổ sung Sở Công an vào thành viên Ban
chỉ đạo tỉnh nhằm thực hiện công tác phòng, chống trục lợi bảo hiểm.
ii. Ngoài ra, để tăng cường các biện pháp quản lý, giám sát rủi ro (từ khâu khai thác đến

khâu bồi thường), đảm bảo bồi thường bảo hiểm đúng chế độ quy định, ngăn chặn trục
lợi bảo hiểm, một số Ban chỉ đạo tỉnh đã thành lập Tổ thẩm định điều kiện tham gia bảo
hiểm, Tổ giám định bồi thường (Trà Vinh), Tổ kiểm tra, giám sát (Bình Thuận, Sóc
Trăng) hoặc Tổ giúp việc.
Sau Hội nghị sơ kết tại Nghệ An, hầu hết các địa phương đã rà soát, ban hành quy trình
trồng lúa, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản phù hợp với tình hình thực tế của địa phương mình
làm cơ sở cho việc xác định điều kiện được bảo hiểm; tiếp tục thực hiện thống kê, rà soát các
đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm; thống kê, rà soát các chỉ số như năng suất lúa, giá lúa,
giá trị kinh tế về chăn nuôi, thuỷ sản làm căn cứ triển khai
Các Ban chỉ đạo địa phương đã quan tâm kiểm tra cơ sở, chỉ đạo kịp thời các sở, ban
ngành giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện. Đồng thời, tích cực chỉ
đạo các đơn vị chức năng phối hợp với doanh nghiệp bảo hiểm trong công tác tập huấn, hướng
21
dẫn quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm đến tận huyện, xã, hộ dân; vận động nông dân tích
cực tham gia bảo hiểm, ký kết, theo dõi thực hiện hợp đồng bảo hiểm cũng như xác định tổn
thất, nguyên nhân tổn thất để giải quyết bồi thường kịp thời, đúng chế độ quy định.
Các địa phương đã chủ động tuyên truyền, phổ biến chính sách đưa tin trên đài, báo địa
phương, phát hành tờ rơi đến hộ dân. Đặc biệt là tổ chức các buổi tập huấn, hướng dẫn trực
tiếp đến các hộ gia đình.
2.2.4. Về hoạt động của các DNBH, DN TBH
Mặc dù có nhiều khó khăn phức tạp, do nghiệp vụ triển khai mới, cán bộ khai thác
mỏng, chưa có nhiều kinh nghiệm, song các DNBH cũng đã rất nỗ lực, thể hiện tinh thần trách
nhiệm cao trong việc hỗ trợ thực hiện chương trình thí điểm của Chính phủ: tiếp tục thiết lập
mạng lưới đại lý, cộng tác viên, tiếp tục tổ chức nhiều lớp tập huấn cho các đối tượng này,
đồng thời tuyên truyền trực tiếp đến các hộ dân để hiểu rõ quy tắc bảo hiểm, quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên tham gia bảo hiểm.
Trong quá trình triển khai, số lượng hợp đồng bảo hiểm nhiều, tổn thất cũng phát sinh
ngày càng lớn, phức tạp dẫn đến mức chi trả bồi thường lớn, tạo gánh nặng về tài chính cho
DNBH, DN TBH. Tính đến hết 4-2013, BV đã phải bồi thường 400,8 tỷ đồng gấp hơn 2 lần
tổng phí thu được và còn phải bồi thường gần 36 tỷ đồng nữa. Các DN TBH bị lỗ 330 tỷ đồng,

trong đó Vinare bị lỗ hơn 30 tỷ đồng, còn các nhà nhận TBH nước ngoài bị lỗ gần 300 tỷ đồng.
2.2.5. Kết quả triển khai
Mặc dù thời gian triển khai thí điểm BHNN (2011-2013) đã kết thúc, tuy nhiên vẫn
chưa có kết quả chính thức của toàn giai đoạn và dự kiến phải đến 30-6-2014 mới có báo cáo
trình Chính phủ. Trên 1 số báo điện tử cũng có đưa ra những kết quả sơ bộ của toàn giai đoạn
2011-2013 nhưng nó không đầy đủ và có sự khác nhau giữa các báo, nên bài viết xin đưa ra
báo cáo được trình bày trong “Hội nghị đánh giá thí điểm Bảo hiểm nông nghiệp” tại Hà Nội
ngày 9-5-2013.
Theo báo cáo của các địa phương và các DNBH, tính đến ngày 30/4/2013, việc thí điểm
BHNN đã triển khai ở tất cả các tỉnh, thành phố với 234.235 hộ dân đã tham gia ký hợp đồng
bảo hiểm (trong đó 80,8% là hộ nghèo), với giá trị bảo hiểm cây trồng, vật nuôi, thủy sản là
5.437.574 triệu đồng, tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc là 303.295 triệu đồng.
Về cây lúa (các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, An Giang,
Đồng Tháp) với tổng diện tích trồng lúa đã tham gia bảo hiểm là 45.412 ha; tổng số hộ tham
gia bảo hiểm là 189.797 hộ; tổng giá trị được bảo hiểm 1.477.657 triệu đồng; tổng số phí bảo
22
hiểm là 65.126 triệu đồng; đã giải quyết bồi thường là 6.314 triệu đồng, còn phải bồi thường
2.800 triệu đồng.
Về vật nuôi (các tỉnh, thành phố Bắc Ninh, Nghệ An, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Hải Phòng,
Thanh Hóa, Bình Định, Bình Dương, Hà Nội) với tổng số vật nuôi tham gia bảo hiểm là:
623.131 con (trâu, bò, lợn, gia cầm); tổng số hộ tham gia bảo hiểm là 29.163 hộ; tổng giá trị
được bảo hiểm 1.104.904 triệu đồng; tổng số phí bảo hiểm là 38.748 triệu đồng; đã giải quyết
bồi thường 2.362 triệu đồng và còn phải bồi thường 258 triệu đồng.
Về thuỷ sản (các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau) với tổng diện
tích tham gia bảo hiểm là 5.523 ha; tổng số hộ tham gia bảo hiểm là 15.275 hộ; tổng giá trị
được bảo hiểm là 2.855.013 triệu đồng; tổng số phí bảo hiểm là 199.421 triệu đồng; đã giải
quyết bồi thường 458.145 triệu đồng và còn phải bồi thường 41.197 triệu đồng.
23
BẢNG 2: TỔNG HỢP KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THÍ ĐIỂM BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP ĐẾN NGÀY 30-4-2013
Nguồn: Bộ Tài Chính

STT
DNBH
Lượt hộ tham gia
Doanh th
u
phí gốc
D.tích lúa
Số lượng vật
nuôi tham
D.tích nuôi
trồng thủy sản
Giá
trị được
BH (trđ)
Bồi thường (trđ)
TỔNG Hộ nghèo
Hộ cận
nghèo
Hộ khác
Phát
sinh
Bồi
thường
CÂY LÚA 189.797 161.239 22.036 6.522 65.126 45.412 0 0 1.477.657 9.114 6.314
1
Nam
Đị
nh
32.238 24.569 7.626 43 17.100 10.994 337.817
2 Thái Bình 32.101 30.499 1.282 320 5.643 4.404 0 107.915 2.712 0

3
Nghệ An
73.601 65.523 5.529 2.549 22.548 13.762 481.499 6.081 5.993
4
Hà Tĩnh
33.605 26.229 6.906 470 9.266 6.430 192.260 305 305
5
Bình Thuận
6.129 5.989 140 0 3.540 2.049 71.168 0
6 An Giang 1.313 322 13 978 1.001 1.654 45.031
7
Đồ
ng Tháp
10.810 8.108 540 2.162 6.029 6.118 241.967 16 16
VẬT NUÔI
29.163 26.164 1.367 1.632 38.748 0 623.131 0 1.104.904 2.620 2.362
8
Bắc Ninh
367 272 39 56 324 11.307 10.419 8 8
9
Đồn
g Nai
442 441 1 599 2.317 15.062 0 0
10
Nghệ

An
14.726 14.018 562 146 18.802 50.318 524.895 251 74
11
Vĩnh Phúc

3.092 2.850 39 203 8.264 0 390.691 0 220.997 417 336
12
Hải Phòng
1.142 1.114 21 7 751 113.695 35.039 114 114
13 Thanh Hoá 3.042 2.708 238 96 2.750 13.935 74.763 96 96
14
Bình
Địn
h
4.929 4.456 369 104 4.943 31.022 141.215 65 65
15
Bình Dương
17 9 4 4 24 118 747
16
Hà Nội
1.406 296 95 1.015 2.290 9.728 81.766 1.670 1.670
THỦY SẢN
15.275 1.913 132 13.230 199.421 0 0 5.523 2.855.013 499.341 458.145
17
Bến Tre
2.388 177 29 2.182 34.690 776 476.394 72.072 52.409
18
Sóc Trăng
9.573 1.583 59 7.931 70.203 2.686 918.865 204.000 220.634
19 Trà Vinh 152 1 151 19.221 25 485.544 31.243 33.435
20
Bạc Liêu
1.435 123 38 1.274 47.415 1.374 598.329 185.626 133.019
21 Cà Mau 1.727 29 6 1.692 27.891 662 375.881 6.400 18.647
2

3
TỔNG CỘNG
234.235 189.316 23.535 21.384 303.295 45.412 623.131 5.523 5.437.574 511.076 466.821
25

×