Bài tập lớn học kì Bộ môn luật Dân sự
A. Mở đầu
Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xã hội, về cộng
đồng người còn hạn chế nhưng người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ hoa quả tự
nhiên, chim thú săn bắt được, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho
nhu cầu của mình.Thời kỳ đó, Sở hữu được hiểu là việc chiếm giữ những sản vật
tự nhiên, những thành quả lao động của xã hội loài người.
Sở hữu là phạm trù cơ bản, phức tạp và hàm xúc của kinh tế - chính trị
học, thường được bàn nhiều và cũng đang tồn tại không ít ý kiến khác nhau, thậm
chí đối lập nhau. Nhưng tựu trung đều dựa trên phương pháp luận coi sở hữu
như quá trình chiếm hữu.
Ngày nay "Vấn đề sở hữu" còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn
khoa học xã hội khác với các góc độ tiếp cận khác nhau, như: Lý luận chung về
nhà nước và pháp luật; Luật dân sự; Luật hôn nhân và gia đình; Luật doanh
nghiệp; Luật đất đai; Kinh tế môi trường vv... Đây còn là vấn đề quan tâm có tính
chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức và cá nhân: Sở hữu về tư liệu sản
xuất là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết định địa vị thống trị xã hội của giai cấp cầm
quyền; Sở hữu là cơ sở kinh tế và là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các
quyền năng pháp lý trên đó.
Đối với nước ta hiện nay, thực hiện việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển TBCN là một mô thức không có tiền lệ thì việc
đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén, trong
đó có lý luận về vấn đề sở hữu" là tất yếu khách quan. Nó không chỉ là kim chỉ
nam cho hành động kinh tế của đất nước, mà còn góp phần giải quyết, tháo gỡ
vướng mắc, khắc phục sai lầm lệch lạc của thực tiễn quản lý điều hành phát sinh
vì sự hoàn thiện của chế độ sở hữu XHCN, từ đây tạo ra cái nền vật chất pháp lý
cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phấn đấu cho mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
1
Bài tập lớn học kì Bộ môn luật Dân sự
Trong bài tập học kì lần này, em xin được trình bày vấn được nêu trên –
“Sở hữu tư nhân, vai trò của sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
B. Nội dung
I. Lý luận chung về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Khái niệm chung
a. Sở hữu tư nhân
Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của từng cá nhân về tư liệu sinh hoạt,
tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần
của cá nhân.
b. Chủ thể của sở hữu tư nhân
Chủ thể của sở hữu tư nhân là từng cá nhân. Nếu một tài sản hoặc một
tập hợp tài sản thuộc quyền sở hữu của hai hay nhiều người thì chủ sở hữu là
từng người trong số họ; họ được gọi là đồng chủ sở hữu.
Theo khoản 2 Điều 15 BLDS : Mọi cá nhân dù đã trưởng thành hay chưa
trưởng thành có hay không có năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực hành vi dân
sự chưa đầy đủ đều có quyền sở hữ , quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Cá nhân có quyền sở hữu đối với những thi nhập do lao động trong các
ngành kinh tế quốc dân, trong kinh tế tập thể. Chủ thể của sở hữu tư nhân còn
được sở hữu đối với những tư liệu sản xuất trong các thành phần kinh tế khác.
c. Khách thể của sở hữu tư nhân.
Khách thể của sở hữu tư nhân là những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá
nhân công dân. Tài sản đó có thể là những tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng.
2. Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân:
2
Bài tập lớn học kì Bộ môn luật Dân sự
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở gian đoạn cuối do sự phát triển của lực
lượng sản xuất sau ba cuộc phân công lao động xã hội (lần 1, ngành trăn nuôi
tách khỏi trồng trọt; lần 2, thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; lần 3,với sự
xuất hiện của tầng lớn thương nhân). Do năng xuất lao động đã lao hơn trước,
con người có kinh nghiệm hơn v.v...
Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt của
cải dư thừa đó và trở thành giàu có, (tư hữu riêng) lại có những người do yếu kém
mà nghèo đói... Tất cả đẩy nhanh quá trình phân hoá tầng lớp xã hội và giai cấp
xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc đấu tranh giai cấp
nằm trong vòng trật tự nhất định không phá vỡ xã hội thì có một tổ chức đặc biệt
ra đời, tựa hồ như đứng trên xã hội và quản lý xã hội. Đó là Nhà nứơc.
* Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nứơc chủ nô duy trì và
bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội
ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói không được xem là
người). ở đây, trình độ tư hữu của còn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và bất
bình đẳng là tuyệt đối.
* Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở chế
độ"phong tước, cấp điền" của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và pháp luật
phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa phong kiến đối
với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến của nông dân và giai cấp
phong kiến.
* Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong
kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư (do công
nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không)
ở đây là giai đoạn của trình độ tư hữu gắn với đặc trưng của xã hội tư bản.
Chế độ tư hữu được qui định là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Giai cấp tư sản
3
Bài tập lớn học kì Bộ môn luật Dân sự
với phương pháp, thủ đoạn bóc lột mới với trình độ cao tư hữu trong xã hội tư
bản chủ nghĩa nằm chủ yếu tập trung trong tay giai cấp tư sản, các tập đoàn tư
bản, các nhà tư bản nắm trong tay tư liệu sản xuất.
* Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lê nin thì có 2 phương thức quá độ lên CNXH. Đối với những nước như
nứơc ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai đoạn phát
triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành
phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân để sử dụng sức
mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá, tất cả
nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho CNXH. Mặc
dù vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay nhằm
phát triển lực lượng sản xuất thì sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai
trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói riêng và nền kinh tế nước ta
nói chung đi theo đúng quĩ đạo.
Chính C.Mác và F. Ănghen trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng cộng
sản, ông đã nhấn mạnh "chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai quyền chiếm
hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động
của người khác".
3. Bản chất kinh tế - xã hội của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân.
Sự phân công lao động đã làm xuất hiện chế độ tư hữu và đến lượt nó,
chế độ tư hữu lại đưa sức sống mới cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Chế độ tư
hữu đã tạo nên động lực cho kinh tế hàng hóa và cũng chính chế độ tư hữu về tài
sản là tiền đề kinh tế cho sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Có thể nói ý thức
về sở hữu (tư hữu) trong đời sống kinh tế là thành quả vô cùng lớn lao của con
người, đánh dấu “con người mông muội” chuyển thành “con người văn minh”.
Lịch sử tiến hóa cho thấy, trong rất nhiều nguyện vọng và lợi ích của con người,
4
Bài tập lớn học kì Bộ môn luật Dân sự
sự quan tâm tới việc chiếm hữu của cải vật chất đã chiếm một vị trí thích đáng,
thể hiện ở sự cảm nhận đặc biệt: ý thức về người chủ, về người sở hữu. Nói cụ
thể hơn, điều đó có nghĩa là: sở hữu đẻ ra tự tin của con người trong việc tham
gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế – xã hội và do đó, gắn bó họ với các hoạt
động ấy bằng những sợi dây lợi ích vững chắc, kích thích sự quan tâm thường
xuyên của họ tới việc tạo ra của cải vật chất và bảo vệ thành quả lao động cũng
như các “tặng vật của thiên nhiên” trong thế giới xung quanh. Ngược lại, nếu làm
cho con người tách khỏi mọi sản vật, tước bỏ khả năng cảm thấy mình là người
chủ, sẽ tạo ra sự bàng quan, hờ hững và có khi cả sự chối bỏ, khó chịu đối với
những gì họ coi là xa lạ, không phải của mình.
Một khi con người vô trách nhiệm với những vật trong thế giới xung
quanh chỉ vì chúng không phải là của mình, thì không thể nói tới một sự quan
tâm chăm sóc nào của họ. Có rất nhiều ví dụ chứng minh cho điều này. Ví dụ
điển hình là thái độ của người nông dân đối với mảnh đất 5% và ruộng đất của
HTX, hoặc một chiếc xe đạp của cơ quan và cũng chiếc xe đạp ấy khi đã nhượng
lại cho cá nhân, hoặc ngôi nhà khi còn thuộc sở hữu nhà nước và cũng ngôi nhà
ấy khi đã được hóa giá. Đây là những hiện tượng giản đơn về ý thức người chủ,
người sở hữu mà ai cũng thấy.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, ở nước ta cũng như nhiều nước trên
thế giới, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, không phải sở hữu tư
nhân lúc nào cũng được đối xử công bằng.
Vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80, các nước Tây Âu đã khởi
động quá trình tư hữu hóa. Vào thời điểm này, khu vực kinh tế nhà nước hoạt
động đã giảm hiệu quả. Các xí nghiệp nhà nước có tiếng là “thành trì cổ xưa”, là
“những con voi một ngà nặng cân và khan hiếm” cũng bị đình trệ về mặt sản xuất
do tập trung hóa cao độ và tệ nạn quan liêu. Tất cả điều này dù muốn hay không
cũng đã phá vỡ các quy luật thị trường và kìm hãm tinh thần chủ động kinh
doanh của các tập thể và cá nhân.
5
Bài tập lớn học kì Bộ môn luật Dân sự
Bắt đầu từ chính phủ bảo thủ của M. Thatchez ở Anh và sau đó là các
chính phủ Pháp, Bỉ, Italia, Tây Đức, Hà Lan cũng như các chính phủ do những
người xã hội dân chủ lãnh đạo ở Tây Ban Nha, Áo và Thụy Điển đã tuyên bố bắt
tay vào tư hữu hóa một phần khu vực kinh tế nhà nước. Ở các quốc gia Đông Âu
và SNG, vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX cũng diễn ra quá trình
cùng một ý nghĩa có tên gọi là phi nhà nước hóa và tư nhân hóa với tất cả tính
phức tạp của chúng.
Như vậy, những gì diễn ra ở Tây Âu vào những năm 70, 80 và ở Đông
Âu cùng các nước SNG vào những năm 90 của thế kỷ XX, tất cả cũng trong
khuôn khổ tái lập lại sự cảm nhận “ý thức về người chủ, người sở hữu” hay nói
cách khác đi là nhận thức lại sở hữu tư nhân và vận dụng kinh tế tư nhân một
cách hợp lý nhằm tạo động lực cho nền kinh tế. Một lần nữa lịch sử nhắc nhở
chúng ta rằng loại hình kinh tế mà ở đó lợi nhuận sau khi trừ đi thuế hoàn toàn
thuộc quyền chi phối của người chủ đầu tư là loại hình có động lực kinh doanh
mạnh mẽ nhất.
Thế nhưng, sẽ là sai lầm nếu coi sở hữu tư nhân chiếm vị trí chủ đạo
trong nền kinh tế thị trường. Tình hình ấy nếu có thì cũng đã lâu rồi. Kinh tế thị
trường hiện đại về cơ bản bao gồm các hình thức sở hữu liên doanh, hỗn hợp, tập
thể và sở hữu nhà nước. Hiện nay, trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa theo kiểu
kinh tế thị trường điển hình cũng chỉ khoảng 10 đến 15% tư liệu sản xuất thuộc
về sở hữu tư nhân, 60-70% thuộc sở hữu tập thể cùng sở hữu cổ phần, 15-25% là
sở hữu nhà nước. Nếu tính theo sự đóng góp vào GDP thì khu vực kinh tế tư
nhân cũng chỉ đóng góp khoảng 15 đến 20% GDP.
II. Vị trí, vai trò của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Vị trí, vai trò của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa. Lợi thế về động lực phát triển của kinh tế tư nhân trong
6
Bài tập lớn học kì Bộ môn luật Dân sự
quan hệ với khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Nhận
thức lại vị trí của các khu vực kinh tế và các loại hình kinh tế trong nền kinh tế
đổi mới ở chủ nghĩa xã hội.
Từ vị trí mới, kinh tế tư nhân đang tạo thành một đối chứng hiện thực
năng động để các khu vực kinh tế khác đối chiếu và luôn tự đổi mới, tự hoàn
thiện. Khu vực kinh tế tư nhân góp phần khơi dậy một bộ phận quan trọng tiềm
năng của đất nước, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển nền kinh tế quốc dân;
Đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Góp phần thu hút
một bộ phận lớn lực lượng lao động vào đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị
trường lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, mở rộng thị trường thế giới.
Mối quan hệ giữa kinh tế tư nhân với các khu vực kinh tế, với các loại
hình kinh tế khác và vị trí của kinh tế tư nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ở nước ta kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành phát triển. Đây là thành
phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tự nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Trong
điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân, bao gồm
cả doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn. Vốn do
một hoặc một số tư nhân góp lại, thuê lao động sản xuất- kinh doanh dưới hình
thức xí nghiệp tư doanh hay công ty cổ phần tư nhân. Nó cũng bao gồm cả hình
thức kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn
khống chế. Trong thời kỳ quá độ phát triển sản xuất TBCN không còn nguyên
vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta chỉ hoạt động với tư cách là
một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần, được Bác hô quyền
sở hữu và lợi ích hợp pháp.
7
Bài tập lớn học kì Bộ môn luật Dân sự
III. Thực trạng và những biến động của sở hữu tư nhân, kinh tế tư
nhân trong thời kỳ trong thị kỳ đổi mới cơ chế kinh tế ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân
là đối tượng cải tạo, phải xoá bỏ, do đó không có cơ sở pháp lý để tồn tại. Sự phát
triển của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân, một số đặc điểm về động thái phát triển
kinh tế tư nhân ở nước ta trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế từ 1986 đến
nay. Những tác động tích cực của kinh tế tư nhân. Những bài học kinh nghiệm rút
ra từ thực tiễn và những vấn đề đặt ra cần giải quyết để tiếp tục phát triển, hoàn
thiện sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân của nước ta trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội từ nay đến năm 2020.
1. Những thành tựu đạt được
Trong tiến trình đổi mới, Đảng và Chính phủ ta đã có đường lối và nhiều
chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân. Các đường lối chủ trương
chính sách đã được từng bước luật pháp hóa và cụ thể hóa, đã tạo ra môi trường
pháp lý và môi trường kinh tế thuận lợi cho các khu vực kinh tế phát triển, trong
đó có khu vực kinh tế tư nhân. Nhìn lại thời gian qua, kinh tế tư nhân đã phát
triển rất rực rỡ và có những đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển chung của
đất nước.
Trước hết nói về hộ kinh doanh cá thể, loại hình này đã được phát triển
rộng khắp qua nhiều năm, tính đến năm 2000, cả nước có 9.793.878(1) hộ kinh
doanh cá thể, trong đó có 7.656.165 hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xã, 2.137.713
hộ kinh doanh phi nông nghiệp. Trong số hộ kinh doanh cá thể thì số hộ kinh
doanh thương mại, dịch vụ chiếm 51,89%, số hộ sản xuất nông nghiệp chiếm
30,21%, giao thông vận tải chiếm 11,63%, xây dựng 0,81%, các hoạt động khác
chiếm 5,46%.
Luật doanh nghiệp đã mang lại xung lực mới cho nền kinh tế. Khi luật
này được thực hiện, số lượng các doanh nghiệp tư nhân đã tăng rất nhanh.
8