Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tỷ giá hối đoái năm 20092014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.05 KB, 15 trang )

CHƯƠNG I: LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
TGHĐ là một trong những vấn đề phức tạp, nhạy cảm và là một yếu tố vô cùng quan
trọng. Không ít nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn do TGHĐ gây ra. TGHĐ đang
thu hút một sự chú ý đặc biệt của các nhà kinh tế, các nhà chính trị và nó đã trở thành một
chủ đề thảo luận sôi nổi và kéo dài không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Trong một
loạt các chính sách tài chính - tiền tệ, thì chính sách điều chỉnh TGHĐ mà điển hình là
chính sách nâng giá tiền tệ hay phá giá tiền tệ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
việc điều tiết nền kinh tế cả về đối nội lẫn đối ngoại.
Với chính sách TGHĐ, CP các quốc gia có thể đưa nền kinh tế thoát ra khỏi những
cuộc khủng hoảng giá dầu, cuộc khủng hoảng tài chính và ngược lại cũng có thể vì một
chính sách TGHĐ không hợp lý mà đưa nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm
trọng. Thêm vào đó, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp, cân
bằng cán cân thương mại, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, nhìn nhận vấn đề xuất
nhập khẩu luôn là những mục tiêu kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, đặc biệt là trong
xu thế toàn cầu hoá hiện nay; để thực hiện được những mục tiêu đó, tùy vào tình hình cụ
thể của từng nước mà áp dụng chính sách điều chỉnh TGHĐ cho phù hợp.
Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề TGHĐ trong xu thế phát triển của nền kinh tế
thế giới cũng như tính cấp thiết của vấn đề này đối với nền kinh tế của Việt Nam. Đặc
biệt là sau khi Việt Nam tiến hàng công cuộc mở cửa cải cách nền kinh tế vào năm 1986,
việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 1/1/2007, ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào năm 2008 tới nền kinh tế Việt Nam, điển hình là
trong năm 2009. Có thể nói năm 2009 là một năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Với sự gia tăng
mạnh mẽ của TGHĐ chủ yếu là tỷ giá VND/USD, giá trị nhập siêu tăng mạnh so với các
năm trước, lạm phát có tình hình diễn biên phức tạp trong năm 2010, giá vàng tăng lên
chóng mặt liên tục phá kỷ lục về mức độ tăng giá cũng như giá cao nhất, giới đầu cơ liên
tục làm giá. Bên cạnh đó, hiện tượng đô la hóa tăng cao, hiện tượng tích trữ ngoại tệ
trong người dân còn phổ biến dẫn đến sự khan hiếm ngoại tệ cục bộ, cán cân thanh toán
bị thâm hụt nặng nề làm lãi suất ngân hàng tăng kịch trần đã tác động tới TGHĐ. Để làm
rõ nhứng tác động đó tới TGHĐ cùng với hiểu rõ thực trang TGHĐ thực tế ở Việt Nam,
do đó, em đã chọn đề tài: “Tình hình biến động tỷ giá hối đoái ở Việt Nam giai đoạn


2009-2014” cho đề án của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Nhằm hiểu rõ hơn, nắm vững hơn về mặt lý thuyết và cơ sở ứng dụng của TGHĐ,
chính sách điều chỉnh TGHĐ. và đặc biệt là ứng dụng thực tiễn vào thực trạng tình hình
biến động TGHĐ ở Việt Nam giai đoạn 2009-2014, trên cơ sở đó rút ra một số bài học
kinh nghiệm, đưa ra một số giải pháp giúp giải quyết biến động TGHĐ cho Việt Nam.
III. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách TGHĐ đối với hoạt động thương mại, phát triển kinh tế nói chung và cụ
thể hơn là tập trung vào nghiên cứu chính sách điều chỉnh TGHĐ, thực tiễn điều hành
chính sách TGHĐ của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là vấn đề của nó đến sự phát triển
kinh tế của Việt Nam.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu
V. Kết cấu đề tài
CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Tổng quan về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá là một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng có tác động tới nhiều mặt hoạt động
của nền kinh tế. Tỷ giá ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay trở lại tác động lên
hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại cán cân thanh toán của mỗi quốc
gia. Xây dựng thành công một chính sách điều hành tỷ giá thích hợp là một vấn đề vô
cùng khó khăn, phức tạp, luôn được Chính phủ các nước và các nhà kinh tế quan tâm,
xem xét.
Sau khi mở cửa nền kinh tế, đặc biệt là sau khi gia nhập WsTO, nền kinh tế Việt
Nam ngày càng thâm nhập sâu rộng hơn và chịu ảnh hưởng nhiều hơn, trực tiếp hơn
vào kinh tế thế giới. Kinh tế thế giới bắt đầu bước vào khủng hoảng năm 2007, và cho
đến nay tuy đã phần nào được cải thiện nhưng vẫn chưa vững chắc, tăng trưởng chậm
và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Điều này tác động không tốt tới tỷ giá của Việt Nam nói riêng
và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Một câu hỏi đặt ra là Chính phủ cần điều hành
chính sách tỷ giá như thế nào cho hợp lí để có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Nghiên cứu vấn đề này đang là một đề tài mang tính cấp thiết trong thời gian gần đây.

Chính vì vậy, đề tài: “Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong 5 năm trở lại
đây” là mục tiêu để nghiên cứu
1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
Khối lượng thương mại quốc tế không ngừng tăng lên qua các năm làm cho các
nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Trong xu hướng toàn cầu hoá dần xoá nhoà
các đường biên giới quốc gia và làm cho các dòng tư bản lưu chuyển linh hoạt hơn.
Trong quá trình đó , mỗi quốc gia đều cố gắng đưa đồng nội tệ có thể chuyển đổi và
tìm kiếm một chính sách tỷ giá thích hợp.
Vậy tỷ giá bắt đầu xuất hiện khi có thương mại quốc tế. Nó là mức giá giữa hai
nước mà tại đó họ trao đổi với nhau Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tỷ giá tùy
các cách tiếp cận.
Dưới đây là định nghĩa phổ biến nhất: tỷ giá là số đơn vị đồng tiền định giá trên
một đơn vị đồng tiền yết giá; đối với một quốc gia cụ thể thì tỷ giá là số đơn vị đồng
nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ, nghĩa là đồng ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá
còn đồng nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá.
2. Phân loại Tỷ giá
a) Tỷ giá danh nghĩa
- Tỷ giá danh nghĩa song phương (Bilateral nominal exchange rate): là giá cả hàng
hóa của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác mà chưa đề cập đến
sức mua hàng hóa dịch vụ giữa chúng. Khi tỷ giá tăng, một đồng tiền yết giá sẽ đổi được
nhiều đồng tiền định giá hơn nên đồng tiền yết giá gọi là tăng giá và ngược lại khi tỷ giá
giảm, một đồng tiền yết giá đổi được ít đồng tiền định giá hơn nên đồng tiền yết giá gọi
là giảm giá.
- Tỷ giá danh nghĩa đa phương (nominal effective exchange rate):
Tại một thời điểm xác định, một đồng tiền có thể là lên giá so với đồng tiền này
nhưng lại là xuống giá so với đồng tiền khác. Vậy làm thế nào để biết được một đồng tiền
là lên giá hay giảm giá đối với tất cả các đồng tiền còn lại từ thời điểm 2 này sang thời
điểm khác. Để giải quyết vấn đề này dùng tỷ giá danh nghĩa đa phương trung bình.
(NEER)
Cách tính NEERi = ∑eij *wj ( j =1 > n)

Trong đó: e: chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương
w: tỷ trọng của tỷ giá song phương
j : số thứ tự của các tỷ giá song phương
i: là kì tính toán
Thực chất: NEER không phải là tỷ giá mà là chỉ số.
b) Tỷ giá thực tế
- Tỷ giá thực tế song phương: Là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm
phát giữa trong nước với nước ngoài. Do đó, nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua
giữa nội tệ và ngoại tệ.
Công thức: er =E *P /P
Trong đó: er : là tỷ giá thực
E: là tỷ giá danh nghĩa
P*: mức giá cả ở nước ngoài bằng ngoại tệ
P: mức giá cả trong nước bằng nội tệ
Thực chất: tỷ giá thực thể hiện sự so sánh mức hàng hóa trong nước và ngướic ngoài
khi cả 2 đều tính bằng nội tệ.
- Tỷ giá thực đa phương (real effective exchange rate- REER) Là tỷ giá danh nghĩa đa
phương đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước với tất cả các nước còn lại.
Do đó, nó phản ánh tương quan giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền còn lại.
3. Theo cơ chế điều hành
a) Tỷ giá chính thức:
Là tỷ giá do NHTW công bố, nó phản ánh chính thức về giá trị đối ngoại của đồng nội
tệ. Tỷ giá chính thức được dùng để tính thuế XNK và một số hoạt động khác nữa liên
quan. Ngoài ra, ở Việt Nam tỷ giá chính thức (tỷ giá bình quân liên 3 ngân hàng) còn là
cơ sở để các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh trong biên độ cho phép.
b) Tỷ giá chợ đen:
Là tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ thống ngân hàng do quan hệ cung- cầu trên thị
trường chợ đen quyết định.
4. Theo tính chất dao động
a) Tỷ giá cố định:

Là tỷ giá do NHTW công bố cố định trong một dao động hẹp. Dưới áp lực cung cầu
của thị trường, để duy trì tỷ giá cố định buộc NHTW phải thường xuyên can thiệp, do đó
làm cho dự trữ ngoại hối quốc gia liên tục thay đổi.
b) Tỷ giá thả nổi tự do:
Là tỷ giá được hình thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, NHTW
không hề can thiệp.
c) Tỷ giá thả nổi có điều tiết:
Là tỷ giá được thả nổi nhưng NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo
hướng có lợi cho nền kinh tế.
II. Các nhân tố tác động lên tỷ giá
1. Những nhân tố tác động lên tỷ giá trong dài hạn
a) Tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền:
Tỷ giá thực phản ánh tương quan sức mua của hai đồng tiền thông qua tỷ giá danh
nghĩa đã được điều chỉnh lạm phát giữa hai đồng tiền đó. Tỷ lệ lạm phát thường ít thay
đổi trong ngắn hạn và thường chỉ thay đổi từ từ trong dài hạn vì vậy tương quan lạm phát
giữa hai đồng tiền phản ánh xu hướng vận động của tỷ giá trong dài hạn.
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi,
hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá dịch
vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong
nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại
tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng
nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, 4 cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ
giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng
tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị
trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài
sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường
hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát
tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia
đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
b) Giá thế giới của hàng hóa xuất nhập khẩu:

Giá thế giới của hàng hóa xuất khẩu tăng hoặc giá thế giới của hàng hóa nhập khẩu
giảm đều có tác động thúc đẩy xuất khẩu hạn chế nhập khẩu, tác động tích cực đến cán
cân thương mại, khiến cho tỷ giá giảm và làm đồng nội tệ lên giá. Và ngược lại.
c) Thu nhập thực của người cư trú và người không cư trú:
Nếu thu nhập thực của người cư trú tăng tương đối so với người không cư trú thì kích
thích tăng nhập khẩu ròng, làm tăng cầu ngoại tệ khiến tỷ giá tăng, tức nội tệ giảm gia.
Và ngược lại.
d) Thuế quan và hạn ngạch trong nước hay nước ngoài:
Nếu một quốc gia làm tăng mức thuế quan hoặc áp dụng hạn ngạch đối với hàng nhập
khẩu có tác dụng làm giảm cầu ngoại tệ, khiến tỷ giá giảm, tức nội tệ tăng giá. Và ngược
lại. Các chính sách liên quan đến thuế quan và hạn ngạch của nhà nước là những yếu tố
phải hoạch định trong dài hạn, không thể dễ dàng thay đổi do đó nó có tác động dài hạn
đến nền kinh tế.
e) Năng suất lao động:
Nếu năng suất lao động của một nước tăng nhanh hơn nước khác sẽ làm cho mức giá
cả hàng hóa của nước này có xu hướng giảm có tác dụng làm cho đồng tiền nước này lên
giá.
f) Tâm lí:
Tâm lí sẽ ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng của người dân và đó là yếu tố khó thay
đổi trong thời gian ngắn. Nếu người dân của một nước mà ưa thích dùng 5 hàng ngoại
hơn hàng nội thì sẽ kích thích nhập khẩu, làm tăng cầu ngoại tệ, khiến tăng tỷ giá và nội
tệ giảm giá
Ngoài ra, nhười dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại
tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịnh trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ
tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yêu tố tâm
lý, các tín đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều nàu giải thích tại sao, giá ngoại
tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng vào tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ
giá tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhạy cảm với thông tin cũng như
các chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi hoạt động đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ

giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng.
g) Cán cân thương mại
Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cán cân thương mại của một
nước là chênh lệch giữa kim nghạch xuất khẩu và kim nghạch nhập khẩu. Một nền kinh
tế khi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Dể tiếp tục công việc kinh
doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ để lấy nội tệ, mua hàng hóa dịc vụ trong nước
xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng làm tỷ giá hối đoái giảm.
Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hóa dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh
toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng,
tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình
thành tỷ giá hối đoại. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ
tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có
thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng
nội tệ sẽ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ giảm.
III. Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế
1. Tác động tới cán cân thương mại quốc tế
Khi tỷ giá tăng hạ giá đọng nội tệ, kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, làm
thặng dư cán cân thương mại, tăng ngoại tệ chảy vào trong nước làm giảm áp lực tỷ giá.
Khi tỷ giá giảm thì ngược lại sẽ làm tăng giá đồng nội tệ, hạn chết xuất khẩu, giảm lượng
ngoại tệ chảy vào trong nước, thâm hụt cacns cân thương mại. Mà cacns cân thương mại
là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành cán cân vãng lai và cán cân thanh toán
quốc tế. Việc thâm hay thặng dư cacns cân thanh toán quốc tế sẽ có ảnh hưởng lớn đến
các yếu tố kinh tế vĩ mô, tác dụng thúc đẩy hoặc hạn chế tăng trưởng kinh tế.
2. Tác động tới lạm phát
Tỷ giá tác động tới lạm phát thông qua hai con đường:
Thứ nhất là hàng hóa xuất khẩu và hàng tiêu dùng trong nước. Sự phá giá đồng nội tệ
có thể làm tăng giá của hàng xuất khẩu hay hàng tiêu dùng trong nước, cung của hàng
hóa này sẽ giảm trong khi cầu của chúng tăng sẽ tạo ra áp lực lên lạm phát.
Thứ hai là cung tiền: Sự mất giá đồng nộ tệ sẽ gia tăng cung tiền do giá trị bằng nội tệ
của các tài sản theo ngoại tệ tăng cùng với sự phá giá của đồng tiền

3. Tác động tới đầu tư quốc tế
Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào nước sở tại
thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn có
tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay
đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc
quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng như
việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.
Lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ= Lãi suất ngoại tệ + Giảm giá đồng nội tệ
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng lợi tức
từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn
chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầy tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các quốc
gia xây dựng và điều chình một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro
trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
4. Những công cụ của chính sách tỷ giá
• Những công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá
• Thị trường ngoại hối
• Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
• Các biện pháp kết nối
• Một số quy định khác
• Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá
• Lãi suất tái chiết khấu
• Thuế quan
• Hạn ngạch
• Giá cả
• Tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ với các NHTW
• Quy định trạng thái ngoại tệ đói với các NHTM
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH

I. Chính sách tỷ giá hối đoái
Sau khi tỷ giá USD/VNĐ được điều chỉnh tăng tới 9,3% đầu năm 2011, đến nay
NHNN đã duy trì tỷ giá hối đoái khá ổn định và thậm chí là không thay đổi tỷ giá trong
suốt cả năm 2012. Và cho đến giữa năm 2013 mới có sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái chính
thức ở mức 1% đồng thời duy trì biên độ dao động của tỷ giá giao dịch tại các NHTM là
+/-1%. Điều này đã góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được sức mua đối
ngoại của đồng Việt Nam, trong bối cảnh sức mua đối nội cũng đã được khôi phục.
Ở Việt Nam, chính sách tỷ giá hối đoái gắn rất chặt với chính sách tiền tệ, thậm chí
gần như trở thành một bộ phận không thể tách rời của chính sách tiền tệ. Vì có một số
đặc trưng như tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam rất lớn (tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu năm 2013 lên đến hơn 260 tỷ USD, tương đương 150% GDP), dòng vốn nước
ngoài vào Việt Nam rất nhiều kể cả dòng vốn đầu tư trực tiếp lẫn đầu tư gián tiếp, Việt
Nam có tình trạng đô la hóa khá mạnh do Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới
chấp nhận huy động bằng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác cũng như được phép cho vay
bằng ngoại tệ. Chính vì vậy, tỷ giá hối đoái ổn định không chỉ hỗ trợ tích cực kiềm chế
lạm phát thông qua hạn chế tăng giá hàng hóa nhập khẩu, từ các loại máy móc thiết bị,
nguyên, nhiên, vật liệu đến hàng hóa tiêu dùng mà còn góp phần cải thiện cán cân thương
mại, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng dự trữ ngoại hối.
Năm 2012 và 2013, mặc dù CPI lần lượt tăng 6,81% và 6,04% so với cuối kỳ và tăng
bình quân tới 9,21% và 6,6% song giá USD chỉ tăng tương ứng có 0,18% và 1,09%
chứng tỏ tỷ giá hối đoái không chỉ ổn định trong chính sách và thể hiện ở tỷ giá hối đoái
chính thức giao dịch liên ngân hàng mà còn ở thực tế trên thị trường tiền tệ.
Cán cân thương mại và tài khoản vốn đều thặng dư lại thêm trên dưới 10 tỷ USD kiều
hối hàng năm nên cán cân thanh toán của Việt Nam năm 2012 - 2013 đã được cải thiện
mạnh từ mức thâm hụt lớn giai đoạn 2007 - 2009 sang trạng thái thặng dư, thậm chí là
thặng dư lớn nên đã tạo ra cơ hội tăng mạnh dự trữ ngoại hối (quy mô dự trữ ngoại hối
năm 2013 đã lên tới trên 30 tỷ USD sau khi xuống dưới 10 tỷ USD năm 2009), qua đó
tạo cơ sở vững chắc để duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, tạo nguồn lực tài chính để sẵn sàng
đối phó với khả năng rủi ro từ việc rút vốn, đầu cơ tiền tệ hay những áp lực về phá giá
đồng Việt Nam. Rõ ràng, chính sách tỷ giá hối đoái đã và đang bám sát theo nguyên tắc

ổn định và linh hoạt, quan trọng hơn là sự ổn định và linh hoạt đó dựa trên những tiền đề
và cơ sở tài chính vững chắc. Diễn biến tỷ giá hối đoái những năm 2012 - 2013 đã tạo
được niềm tin khá chắc chắn vào sự ổn định của tỷ giá hối đoái nói chung cũng như khả
năng điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của NHNN nói riêng. Thành công của việc
điều hành chính sách tỷ giá hối đoái vừa qua còn thể hiện ở sự gắn bó chặt chẽ với chính
sách quản lý ngoại hối, quản lý thị trường vàng, với lộ trình chống đô la hóa, chống vàng
hóa trong nền kinh tế.
Năm 2014 nên tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá hối đoái đã định hình trong các năm
2012 - 2013 nhằm tăng tính hấp dẫn của VNĐ và tăng dự trữ ngoại hối, tuân thủ cam kết
không điều chỉnh tỷ giá quá 2%. Bên cạnh đó, chính sách tỷ giá hối đoái phối hợp chặt
chẽ với chính sách quản lý thị trường vàng theo Nghị định 24, bảo đảm ổn định thị
trường, lập lại và củng cố trật tự trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối.
Rõ ràng, niềm tin vào chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái của NHNN đã
được phục hồi, củng cố vững chắc hơn, qua đó, uy tín và mức độ tin cậy vào những cam
kết mạnh mẽ của NHNN ngày càng được nâng cao. Hy vọng niềm tin đó sẽ tiếp tục đồng
hành vớái Việt Nam trong những năm sắp tới.
CHƯƠNG IV: CÁC GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ
GIÁ TRONG KHỦNG HOẢNG
Diễn biến, tác động dây chuyền và hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa
Kì hầu như đã vượt qua tất cả mọi dự báo ban đầu. Cuộc khủng hoảng tài chính và
suy giảm kinh tế toàn cầu có những ảnh hưởng lớn đến kinh tế Việt Nam. Trong hoàn
cảnh đó, Việt Nam đã có những điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và
đồng đô la Mỹ cũng như các ngoại tệ khác.Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá giữa
tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường đã được thực hiện. Đặc biệt là lần đầu tiên điều
chỉnh tỷ giá theo hướng giảm nhẹ giá trị của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ vào năm
2010 trong điều kiện thị trường có chiều hướng ổn định với 1 USD= 19.100 VNĐ để
tỉ giá chính thức sát hơn với tỉ giá thị trường 1USD= 19.420 VND .Việc điều chỉnh
này đã triệt tiêu dần khoảng cách giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá được hình thành tự do
trên thị trường để hạn chế những biến động của tỉ giá hoặc nạn đầu cơ dựa vào tỉ giá
Năm 2008, sáu tháng đầu năm vẫn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trước hậu quả

to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với nền kinh tế thế giới,
cùng những tác động bất lợi đến kinh tế trong nước, Chính phủ đã chuyển hướng mục
tiêu từ kiểm soát lạm phát sang ngăn ngừa suy giảm kinh tế vào 6 tháng cuối năm.
Năm 2009 và 2010, vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bền vững. Tóm lược chính sách tỷ giá
của Việt Nam giai đoạn 2008 – 2010 Thời gian Mục tiêu của chính sách Phân loại chế
độ tỉ giá của IMF Năm 2008 6 tháng đầu năm 6 tháng cuối năm Kiểm soát lạm phát
Ngăn chặn suy giảm kinh tế Chế dộ tỉ giá cố định thông thường,biên độ giao dịch ±
1% Chế độ tỉ giá cố định thông thường, biên độ giao dịch ± 2% sau đó nâng lên ± 3%
Năm 2009 và 2010 , vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô duy trì tốc độ tăng trưỡng kinh tế ở mức độ hợp lý, bền vững
Để thực hiện mục tiêu của mình ngoài việc can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng
dự trữ chính thức, Chính phủ còn sử dụng một loạt các công cụ pháp lý khác như:
+ Dự trữ bắt buộc Từ nửa đầu năm 2008, ngân hàng nhà nước đã 2 lần điều chỉnh
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ từ 8% lên 10% tháng 7 năm 2007 và 10%
lên 11% tháng 2 năm 2008. Đây đều là những thời điểm mà chỉ số giá tiêu dùng trong
nước tăng mạnh, nhập siêu lớn và dòng vốn FDI cũng như kiều hối đổ về nước nhiều.
Quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ của
NHNN đã làm giảm nguồn cung ngoại tệ của các NHTM ra thị trường. Mặt khác,
tăng dự trữ bắt buộc cũng góp phần làm tăng chi phí đầu vào của các NHTM kéo theo
sự gia tăng lãi suất cho vay ngoại tệ qua đó tác động làm giảm cầu vốn ngoại tệ trên
thị trường. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ cao hơn
so với nội tệ cũng khuyến khách hàng vay vốn bằng VND. Đồng thời, việc duy trì
hoặc hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ có tác dụng tích cực
hơn trong việc chống lạm phát.
Tháng 3 năm 2009, NHNN quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ
xuống còn 7%. Trong bối cảnh thị trường ngoại tệ đang căng thẳng, quyết định giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã tạo điều kiện cho các Ngân hàng giảm lãi suất cho vay USD
qua đó khuyến khích khách hàng vay bằng USD.
Tuy nhiên, việc NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ lớn hơn nội

tệ (7% và 5%) làm cho lãi suất vay VND vẫn hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp.
Từ đó có thể thấy quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc không có tác dụng nhiều trong
việc điều hòa cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
+ Quy định biên độ xác định tỷ giá kinh doanh Việc liên tiếp tăng biên độ giao
dịch tỷ giá trong bối cảnh VND tăng giá so với USD và USD rớt giá so với các ngoại
tệ khác trên thế giới đã làm cho tỷ giá VND/USD chịu thêm áp lực tăng giá. Trên thực
tế từ tháng 12 năm 2007 đến đầu tháng 4 năm 2008 VND trên thị trường tự do và thị
trường liên ngân hàng đều tăng giá qua đó góp phần giảm bớt giá trị nhập siêu. Tuy
nhiên đi kèm với việc nới rộng biên độ tỷ giá, như đã đề cập ở phần dự trữ bắt buộc,
NHNN cũng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ trong thời gian
này.
Tháng 2 tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tháng 3 tăng biên độ tỷ giá cho thấy sự thiếu
nhất quán của các công cụ tiền tệ. Cụ thể, tháng 2 năm 2008 NHNN tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ thêm 1% làm giảm sức ép lên giá của VND và việc
tiếp tục điều chỉnh biên độ tỷ giá lên +/-1% nhằm gia tăng áp lực cho VND giảm giá.
Nhưng trong bối cảnh USD có xu hướng giảm từ cuối năm 2007 đến thời điểm này thì
việc tăng biên độ giao dịch chỉ có tác dụng làm tăng giá VND nhanh hơn. Ngược lại
nếu NHNN tăng biên độ tỷ giá để tạo cơ hội cho VND tăng giá nhằm giảm bớt áp lực
nhập siêu thì giữa công cụ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá đã có mâu thuẫn.
Đầu năm 2008, biến động tỷ giá lại tương tự như những tháng đầu năm 2007.
NHNN đã 3 lần điều chỉnh biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.75% lên +/-
1%, +/-2% rồi +/-3%. Tuy nhiên tỷ giá vẫn luôn bị cứng nhắc. Quý 1 năm 2008, trước
tình hình VND tăng giá so với USD, NHNN đã phải điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân
liên ngân hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16091
VND/USD vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức
±1%. Lúc này, hấu hết NHTM phải mua bán tại mức giá sàn, thậm chí tỷ giá tại thị
trường tự do thấp hơn giá giao dịch tại thị trường chính thức. Tỷ giá giảm một lần nữa
tác động xấu đến cán cân thương mại. Sang quý 2 năm 2008, tỷ giá bình quân liên
ngân hàng tăng lên 16541 VND/USD vào cuối tháng 6/2008, tỷ giá giao dịch tại các
NHTM lại đụng trần, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 19,400 VND/USD

(giữa tháng 6/2008), khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen
lên tới trên 2000 đồng.
Để khắc phục tình trạng căng thẳng ngoại tệ như đã nói trên, ngày 24 tháng 3 năm
2009 Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán
USD từ +/-3% lên mức +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Sau khi biên độ
giao dịch tỷ giá được điều chỉnh lên mức +/-5%, các NHTM đã điều chỉnh tỷ giá lên
mức kịch trần, thu hẹp được khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và thị
trường qua đó thu hút được một lượng khách hàng bán lại USD cho mình và hạn chế
tình trạng chảy máu ngoại tệ ra khỏi ngân hàng, khắc phục một phần nào tình trạng
thiếu cung ngoại tệ.Với một loạt các điều chỉnh về biên độ cũng như lãi suất ngoại tệ
phối hợp cùng các biện pháp khác, thị trường ngoại tệ đã bắt đầu có dấu hiệu bình ổn.
Tuy nhiên vào những tháng cuối năm tình trạng căng thẳng ngoại tệ lại bùng lên.
Những diễn biến kinh tế tiêu cực này đã làm cho thị trường ngoại tệ căng thẳng trở lại
bất chấp những nổ lực từ đầu năm của Chính phủ.
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN
Như vậy muốn tạo môi trường đầy tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các quốc
gia xây dựng và điều chình một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro
trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Contents

×