ỏn mụn hc K toỏn 43C
LI NểI U
Trong nn kinh t th trng khi sc lao ng c coi l hng húa thỡ
vic xỏc nh, ỏnh giỏ ỳng giỏ tr loi hng húa c bit ny khụng ch cú
ýngha vi ngi lao ng, ngi s dng lao ng m cũn vi c xó hi.
Tin lng l phng tin, l cỏch biu hin thự lao tng xng vi sc
lao ng b ra. Tin lng l mt phm trự ng, l mt yu t ca sn xut
v tiờu dựng. i vi ngi lao ng, tin lng l b phn cc k quan trng
tỏi sn xut sc lao ng; i vi ngi s dng sc lao ng, tin lng
l mt trong cỏc khon mc ca chi phớ sn xut, l khon u t ng trc,
u t cho phỏt trin, l cụng c ca nh nc iu tit nn kinh t xó
hi, cú vai trũ quan trng thỳc y sn xut phỏt trin ton din, nõng cao i
sng vt cht v tinh thn ca ngi lao ng. Do ú, tin lng cn bo m
tỏi sn xut m rng sc lao ng v ngy cng c tng lờn theo s phỏt
trin v tng trng ca nn sn xut xó hi.
Trong thi gian qua, do nhiu nguyờn nhõn, tin lng vit nam cha
tr thnh ũn by kinh t mnh m, cha m bo tỏi sn xut sc lao ng,
mc dự giỏ c tng, sn xut tng trng.Vic phõn phi tin lng tin
thng cũn bỡnh quõn ó hn ch tớnh tớch cc sỏng to v nhng mong mun
ca ngi lao ng.Vỡ vy nh nc cn xõy dng cỏc ch chớnh sỏch tin
lng hp lý. Da trờn ch chớnh sỏch tin lng ca nh nc, mi doanh
nghip tựy thuc vo c im, mc ớchhot ng sn xut kinh doanh ca
mỡnh vn dng phự hp nhm t c cỏc mc tiờu t ú bo tn v phỏt
trin c vn, ngun nhõn lc, sn xut kinh doanh cú hiu qu m bo i
sng cho ngi lao ng v thc hin y ngha v i vi nh nc.
Nhn thy vai trũ to ln ca k toỏn tin lng trong doanh nghip, em
ó chn ti:Cỏc hỡnh thc tin lng v t chc hch toỏn lao ng
tin lng hin nay trong cỏc doanh nghip
Chuyờn ca em gm cỏc ni dung c bn sau:
PHN I: NHNG Lí LUN CHUNG V TIN LNG.
PHN II: K TON TIN LNG.
PHNIII: THC TRNG V C CH QUN Lí TIN LNG
TRONG CC DOANH NGHIP NC TA HIN NAY V PHNG
HNG HON THIN.
Mẫn thị Kim anh đại học Ktqd- hn
1
Đề án môn học Kế toán 43C
Do thời gian và khả năng có hạn, bài viết của em không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để đề
án của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây, em xin cảm ơn cô: TRẦN THỊ PHƯỢNG đã tận tình hướng dẫn
em thực hiện đề án này.
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
2
Đề án môn học Kế toán 43C
PHẦN I. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG
I. Bản chất tiền lương và nhiệm vụ hạch toán.
1. Khái niệm và bản chất của tiền lương
Trong cơ chế hoạch toán tập trung, tiền lương được hiểu là một phần của
thu nhập quốc dân, được nhà nước phân phối có kế hoạch cho cán bộ công
nhân viên dựa trên cơ sở, nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm tái tạo
sản xuất sức lao động.
Quan niệm về tiền lương như vậy đã làm nảy sinh ra nhiều vấn đề sau:
Một là, vì không coi sức lao động là hàng hóa, nên tiền lương không
phải là tiền trả đúng giá trị sức lao động của cán bộ công nhân viên bỏ ra. Do
vậy, trong những năm tồn tại mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã áp
dụng hình thức phân phối theo chế độ bình quân, nhà nước bao cấp tiền lương
trong doanh nghiệp không gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh, không kích
thích con người trong lao động , sáng tạo để đạt năng suất cao, đưa ra những
sản phẩm mới… nên hiệu quả sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế yếu
kém.
Hai là, tiền lương được coi là một bộ phận của thu nhập quốc dân, nên
cơ chế phân phối tiền lương phụ thuộc vào vấn đề của chế độ phân phối. Theo
chế độ phân phối đó, thu nhập quốc dân còn nhiều thì phân phối nhiều và
ngược lại thu nhập quốc dân thấp thì phân phối ít, do đó nhiều khi không tính
đến một cách đầy đủ sự bù đắp chi phí sức lao động. Kết quả là biên chế lao
động ngày càng lớn, ngân sách thâm hụt nặng nề do phải bao cấp tiền lương,
mà tiền lương lại không đủ tái sản xuất sức lao động, sản xuất kinh doanh mất
động lực nên mức tăng trưởng của nền kinh tế rất thấp, hiệu quả sản xuất kinh
doanh không cao.
Ba là, tiền lương không còn là mối quan tâm của công nhân viên chức
trong các doanh nghiệp Nhà nước, cái mà họ quan tâm là những lợi ích được
phân phối ngoài lương. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp ngày càng
không đáp ứng được các nhu cầu của đời sống nhân dân. Người lao động mặc
dù được coi là chủ nhân nhưng không gắn bó với cơ sở sản xuất, phổ biến tình
trạng “ cha chung không ai khóc” lãng phí ngày công, giờ công, Nhà nước
mất dần đội ngũ lao động có tay nghề cao. Do đó đã đẩy nền kinh tế nước ta
ngày càng lấn sâu vào cuộc khủng hoảng, mức tăng trưởng kinh tế thấp và
kéo dài.
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
3
Đề án môn học Kế toán 43C
Thực hiện đổi mới nền kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ
chế thị trường buộc chúng ta phải có những thay đổi lớn trong nhận thức. Vì
vậy, quan niệm về tiền lương cũng có sự đổi mới dựa trên yêu cầu:
+Coi sức lao động là hàng hóa của thị trường yếu tố sản xuất.
+Tiền lương phải là tiền trả cho sức lao động và tuân thủ theo các quy
luật của thị trường.
+Tiền lương là bộ phận cơ bản (hoặc duy nhất) trong thu nhập của
người lao động, đồng thời phải được hiểu nó là một trong những yếu tố đầu
vào của chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Với ý nghĩa đó, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động
sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối
lượng sản phẩm hay công việc mà người lao động đã hoàn thành. Tiền lương
chính là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Các doanh nghiệp sử
dụng công cụ tiền lương làm đòn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần trong
lao động sản xuất, là nhân tố thúc đẩy để tăng năng suất lao động. Đối với
các doanh nghiệp, tiền lương phải trả cho người lao động là một bộ phận chi
phí cấu thành nên giá trị sản phẩm hàng hóa. Do vậy, các doanh nghiệp phải
sử dụng sức lao động một cách có hiệu quả để tiết kiệm chi phí đầu vào, tiền
đề để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa của mình trên
thị trường.
Cùng với khái niệm trên, tiền công chỉ là một biểu hiện hay là một tên
gọi khác của tiền lương. Tiền công gắn trực tiếp hơn với các quan hệ cung cầu
về sức lao động và thường được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
các hợp đồng thuê lao động có thời hạn. Tiền công còn được hiểu là tiền trả
cho một đơn vị thời gian lao động cung ứng, là tiền trả theo khối lượng sản
phẩm, công việc cho người lao động đã được thỏa thuận trong hợp đồng và có
thể gọi là giá công lao động. Trong nền kinh tế thị trường ở các nước phát
triển, khái niệm tiền lương và tiền công được xem là đồng nhất cả về bản chất
kinh tế, phạm vi và đối tượng áp dụng. Nhưng ở các nước đang chuyển từ nền
kinh tế mệnh lệnh sang nền kinh tế thị trường như nước ta thì khái niệm tiền
lương thường được gắn với chế độ tuyển dụng suốt đời hoặc một thỏa thuận
hợp đồng sử dụng lao động dài hạn, ổn định. Nói chung khái niệm tiền lương
có tính phổ cập hơn và cùng với nó là một loạt khái niệm:
+Tiền lương danh nghĩa: Là khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người sử
dụng sức lao động trả cho người cung ứng sức lao động căn cứ vào hợp đồng
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
4
Đề án môn học Kế toán 43C
thỏa thuận giữa hai bên trong việc thuê mua. Trên thực tế, mọi mức lương trả
cho người lao động là tiền lương danh nghĩa.
+ Tiền lương thực tế nó là một khái niệm chỉ số lượng tư liệu sinh hoạt
và dịch vụ mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa
của mình sau khi đã đóng các khoản thuế (thuế thu nhập,…) theo quy định
của Nhà nước.
Đối với người lao động, lợi ích và mục đích cuối cùng của việc cung ứng
sức lao động là tiền lương thực tế chứ không phải tiền lương danh nghĩa. Vì
tiền lương thực tế quyết định khả năng tái sản xuất sức lao động và các lợi ích
vật chất khác của họ. Do vậy, trong nội dung bản hợp đồng lao động được ký
kết hai bên (người sử dụng sức lao động và người cung ứng sức lao động)
luôn phải có một sự ngầm hiểu, so sánh, cân đối giữa mức lương đưa ra và giá
trị hiện hành để thống nhất một mức lương thực tế thích hợp.
+ Mức tiền lương hiệu quả, căn cứ vào doanh thu biên của lao động vì nó
đặc trưng cho chi phí biên của việc thuê lao động. Mức tiền lương hiệu quả
nói lên”ngưỡng” tối đa mà doanh nghiệp có thể chấp nhận trả cho người lao
động để đảm bảo tối thiểu hóa chi phí đầu vào.
+ Tiền lương tối thiểu cũng có những quan niệm khác nhau. Từ trước
đến nay mức lương tối thiểu được xem là “cái ngưỡng”cuối cùng để tiến tới
đàm phán, xây dựng nên hệ thống tiền lương của các nghành, các lĩnh vực
hay hệ thống tiền lương chung thống nhất cho một quốc gia. Nó là căn cứ để
định ra và hoàn thiện hóa chính sách tiền lương.
2. Vai trò của chính sách tiền lương trong sản xuất kinh doanh.
Trong sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp, tiền lương là một
yếu tố của sản xuất, nó còn chứa đựng một yếu tố quan trọng đó là vấn đề xã
hội. Còn đối với người cung ứng không chỉ đơn thuần là một vấn đề kinh tế,
một vấn đề lợi ích mà còn phải hiểu rộng hơn là nó ảnh hưởng đến các chính
sách vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy, trong cơ chế điều tiết của thị trường lao
động phải được định hướng bằng các chính sách của Chính phủ phải chú ý
đến các quy định kiểm soát lao động, tiền lương là thu nhập chủ yếu của họ
hay nói cách khác đi, mục tiêu cuối cùng của nhà sản xuất là lợi nhuận và của
người cung cấp sức lao động là tiền lương . Với ý nghĩa đó, tiền lương không
chỉ mang bản chất của chi phí mà nó đã trở thành phương tiện tạo ra giá trị
mới, hay nói đúng hơn là nguồn cung ứng sự sáng tạo ra giá trị gia tăng. Mặt
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
5
Đề án môn học Kế toán 43C
khác, khi năng suất lao động tăng thì lợi nhuận của doanh nghiệp tăng, do đó
nguồn phúc lợi của doanh nghiệp mà người lao động được hưởng cũng tăng
lên. Hơn nữa, khi lợi ích của người lao động được đảm bảo bằng những mức
lương thỏa đáng, nó sẽ tạo ra sự gắn kết giữa những người lao động với mục
tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, xóa bỏ sự ngăn cách giữa người chủ doanh
nghiệp và công nhân, làm cho người lao động có trách nhiệm hơn, tự giác hơn
với các hoạt động của mình…Các nhà kinh tế gọi đó là “phản ứng dây chuyền
tích cực” của tiền lương.
Ngược lại, nếu chế độ trả lương trong doanh nghiệp không hợp lý không
chú ý đúng mức đến lợi ích người lao động, chỉ vì mục tiêu lợi nhuận thuần
túy thì nguồn nhân lực có thể bị kiệt quệ về số lượng cũng như chất lượng.
Biểu hiện của nó được thể hiện trong sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh
và đồng thời nó lại sinh ra mâu thuẫn người lao động với chủ doanh nghiệp có
thể dẫn tới bãi công, đình công…Mà điều tồi tệ hơn đó là sự di chuyển lao
động, chất xám sang những khu vực doanh nghiệp mới có mức lương hấp dẫn
hơn. Hậu quả gây ra không những mất đi nguồn nhân lực quý giá mà nó còn
làm cho doanh nghiệp thiếu hụt lao động cục bộ, đình đốn trong sản xuất và
làm giảm sức cạnh tranh của mình trên thị trường, đưa doanh nghiệp dẫn tới
phá sản.
3. Tầm quan trọng của công tác hạch toán tiền lương trong các doanh
nghiệp
Vấn đề quản lý tiền lương là một nội dung quan trọng trong công tác
quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là một nhân tố giúp cho
doanh nghiệp hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh
doanh của mình, thúc đẩy người lao động tăng năng suất và chất lượng lao
động trong hoạt động sản xuất của mình. Chi phí tiền lương không chỉ có ý
nghĩa đối với các nhà sản xuất mà còn là mục đích, động cơ và lợi ích kinh tế
của người cung cấp sức lao động. Một mức lương hợp lý nó sẽ tác động tới cả
cung và cầu sức lao động. Đối với doanh nghiệp để tối thiểu hóa chi phí đầu
vào thì mức lương trả cho người lao động không được lớn hơn doanh thu biên
mà người công nhân được thuê thêm cuối cùng tạo ra nó. Còn đối với người
công nhân, mức lương hợp lý có tác dụng kích thích sức sáng tạo, tinh thần
trách nhiệm trong lao động. Trong trường hợp này, lợi ích kinh tế của người
hưởng lương đã nhất trí với lợi ích của doanh nghiệp, đó chính là động lực,
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
6
Đề án môn học Kế toán 43C
nhân tố lớn nhất của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cũng như trong hoạt động của nền kinh tế nói chung.
Thực hiện tốt quá trình tổ chức công tác hạch toán lao động và tiền
lương còn giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt quỹ lương, đảm bảo việc trả
lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội đúng nguyên tắc, chế độ. Mặt khác còn tạo
ra cơ sở cho việc phân bổ chi phi nhân công vào giá thành sản phẩm một cách
chính xác và hợp lý.
4. Nhiệm vụ của hạch toán tiền lương.
Để làm tốt công tác quản lý kinh doanh của doanh nghiệp thì nhiệm vụ
của công tác kế toán tiền lương phải tổ chức tốt các nhiệm vụ sau:
+Thực hiện tốt quá trình ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu để tính
lương và các khoản phải trích theo lương, phân bổ chi phí nhân công đúng đối
tượng sử dụng lao động.
+Hướng dẫn, kiểm tra các nhân viên hạch toán ở cơ sở, bộ phận sản xuất
kinh doanh, các phòng ban thực hiện đầy đủ các chứng từ hóa đơn ghi chép
ban đầu về lao động, về tiền lương, mở sổ cần thiết và hạch toán nghiệp vụ
lao động, đúng phương pháp và tiền lương đúng chế độ.
+Lập các báo về tiền lương thuộc phần việc do mình phụ trách.
+Phân tích tình hình sử dụng và quản lý chi phí nhân công, đề xuất các
biện pháp nhằm khai thác, sử dụng triệt để và có hiệu quả mọi tiềm năng về
nguồn nhân lực sẵn có của doanh nghiệp.
II. Các hình thức tiền lương và quỹ tiền lương trong doanh nghiệp.
1. Các hình thức tiền lương.
Trong các doanh nghiệp ở Việt Nam ta hiện nay chủ yếu áp dụng các
hình thức trả lương sau:
- Hình thức trả lương theo thời gian.
- Hình thức trả lương theo thời gian.
a. Hình thức trả lương theo thời gian.
Hình thức trả theo thời gian là hình thức thực hiện việc tính lương cho
người lao động theo thời gian làm việc dựa trên cơ sở ngành nghề và trình độ
thành thạo nghiệp vụ, kỹ thuật, chuyên môn của người lao động. Tùy theo
thuộc tính, tính chất của lao động khác nhau và mỗi ngành nghề cụ thể có một
thang lương riêng. Trong mỗi thang lương lại tùy theo trình độ thành thạo
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
7
Đề án môn học Kế toán 43C
nghiệp vụ, kỹ thuật và tay nghề chuyên môn mà chia làm nhiều bậc lương.
Mỗi bậc lương có một mức lương nhất định. Đơn vị để tính tiền lương thời
gian là lương tháng, lương ngày hoặc lương giờ.
Lương tháng được quy định sẵn đối với từng bậc lương trong các thang
lương, lương tháng thường được áp dụng để trả lương cho nhân viên làm công
tác quản lý hành chính, quản lý kinh tế và thuộc các ngành nghề mang tính
chất xã hội không mang tính chất sản xuất.
Hình thức trả lương theo ngày là tiền lương trả cho người lao động theo
mức lương ngày và số ngày làm việc thực tế trong tháng. Mức lương ngày
thường được tính bằng cách lấy mức lương tháng chia cho số ngày làm việc
trong tháng theo chế độ (thường tính 26 ngày). Lương ngày thường áp dụng
để trả lương cho người lao động trực tiếp hưởng lương thời gian, tính lương
cho người lao động trong những ngày hội họp, học tập hoặc làm nghĩa vụ
khác và làm căn cứ để tính trợ cấp bảo hiểm xã hội. Nó có thể khái quát theo
công thức sau:
Tiền lương phải
trả trong tháng
=
Mức lương
một ngày.
x
Số ngày làm việc
thực tế trong tháng.
Mức
lương
ngày
=
Mức lương tháng theo
cấp bậc(hay chức vụ)
x
Hệ số các loại phụ
cấp (nếu có)
Số ngày làm việc trong tháng theo chế độ (26 ngày)
Mức lương giờ =
Mức lương ngày
Số giờ làm việc theo chế độ (8 giờ)
Lương được tính theo giờ thường được áp dụng để trả lương cho lao
động trực tiếp trong thời gian làm việc không hưởng theo sản phẩm( nó
thường áp dụng đối với các ngành nặng nhọc, nguy hiểm).
Tiền lương tính theo thời gian được chia thành: tiền lương tính theo thời
gian giản đơn và tiền lương tính theo thời gian có thưởng.
- Tiền lương tính theo thời gian giản đơn căn cứ vào số giờ làm việc
thực tế nhân với mức tiền lương của một đơn vị thời gian. Tiền lương tính
theo thời gian giản đơn không phát huy được đầy đủ nguyên tắc phân phối
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
8
Đề án môn học Kế toán 43C
theo lao động, vì nó chưa chú ý đến kết quả và chất lượng lao động thực tế
của người lao động.
- Tiền lương tính theo thời gian có thưởng là tiền lương tính theo thời
gian giản đơn kết hợp với chế độ tiền lương trong sản xuất. Tiền lương tính
theo thời gian có thưởng có tác dụng túc đẩy người lao động tăng năng suất
lao động, tiết kiệm vật tư, tính năng động sáng tạo,… trong sản xuất và bảo
đảm chất lương sản phẩm, hàng hoá.
Nhìn chung hình thức trả lương theo thời gian có những mặt hạn chế
của nó như tiền lương mang tính chất bình quân nhiều khi không phù hợp với
kết quả lao dộng thực tế của người lao động. Do vậy, chỉ những trường hợp
chưa đủ điều kiện trả lương theo sản phẩm mới áp dụng chế độ trả lương theo
thời gian.
b. Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương theo số lượng
và chất lượng công việc đã hoàn thành. Đây là hình thức trả lương phù hợp
với nguyên tắc phân phối theo lao động gắn chặt với số lượng lao động và
chất lượng lao động, năng tực sáng tạo,…từ đó góp phần tăng thêm của cải,
sản phẩm hàng hoá cho xã hội một cách hợp lý. Là hình thức trả lương theo
sản phẩm, do đó còn phải tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể ở từng doanh nghiệp,
từng lĩnh vực mà vận dụng theo các hình thức cụ thể sau đây:
- Trả lương theo sản phẩm trực tiếp không hạn chế. Với hình thức này
tiền lương phải trả cho người lao động tính trực tiếp theo số lượng sản phẩm
hoàn thành dựa trên kết quả đánh giá, nghiệm thu về quy cách, phẩm chất, số
lượng,…của sản phẩm làm ra của người lao động và đơn giá tiền lương sản
phẩm đã quy định không chịu một sự hạn chế nào. Đây là hình thức được các
doanh nghiệp sử dụng phổ biến để tính lương phải trả cho lao động trực tiếp.
- Trả lương theo sản phẩm gián tiếp: Là hình thức được áp dụng để trả
lương cho lao động gián tiếp ở các bộ phận sản xuất như lao động làm nhiệm
vụ vận chuyển vật liệu, thành phẩm, bảo dưỡng máy móc thiết bị,… Có thể
căn cứ vào kết quả của lao động trực tiếp mà lao động giáp tiếp phục vụ để
tính lương cho lao động gián tiếp.
- Trả lương theo sản phẩm có thưởng, phạt: Theo hình thức này, ngoài
lương tính theo sản phẩm trực tiếp, người lao động còn được hưởng trong sản
xuất như thưởng về chất lượng sản phẩm tốt, thưởng về tăng năng suất lao
động, tiết kiệm vật tư,…Nhưng trong các trường hợp người lao động làm ra
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
9
Đề án môn học Kế toán 43C
các sản phẩm hỏng, sản phẩm không đủ chất lượng, lãng phí vật tư,… thì có
thể phải chịu tiền phạt và khấu trừ vào tiền lương của họ.
-Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến: Theo hình thức này, ngoài tiền lương
theo sản phẩm trực tiếp còn căn cứ vào mức độ hoàn thành vượt định mức lao
động để tính thêm một số tiền lương theo tỷ lệ luỹ tiến. Tỷ lệ hoàn thành vượt
định mức ngày càng cao thì suất luỹ tiến càng nhiều. Lương trả theo sản phẩm
luỹ tiến có tác dụng kích thích mạnh mẽ việc tăng nhanh năng suất lao động,
do đó nó được áp dụng ở những khâu quan trọng, cần thiết để đẩy nhanh tốc
độ sản xuất, đảm bảo cho sản xuất cân đối, đồng bộ. Sử dụng hình thức trả
lương này sẽ làm tăng khoản mục chi phí nhân công trong quá trình sản xuất,
làm tăng giá thành sản phẩm. Vì vậy, trong các trường hợp không cần thiết thì
không nên sử dụng hình thức trả lương này.
- Trả lương khoán theo khối lượng hoặc khoán từng việc: Là hình thức
được áp dụng cho những công việc lao động giản đơn, có tính chất đột xuất
như bốc dỡ nguyên vật liệu, sửa chữa nhà cửa,….
- Hình thức khoán quỹ lương: Theo hình thức này, căn cứ vào khối
lượng công việc của từng phòng ban trong doanh nghiệp để tiến hành khoán
quỹ lương. Quỹ lương thực tế phụ thuộc vào mức độ hoàn thành công việc
được giao cho từng phòng ban. Tiền lương thực tế của từng nhân viên phụ
thuộc vào quỹ lương thực tế của phòng, vào số lượng nhân viên biên chế
trong các phòng ban của doanh ngiệp .
- Trả lương theo sản phẩm tập thể: Theo hình thức này trước hết tính tiền
lương chung cho cả tập thể (tổ) sau đó tiến hành chia lương cho từng người
trong tập thể (tổ) theo các phương pháp sau:
+ Phương pháp chia lương sản phẩm tập thể theo thời gian làm việc và
cấp bậc kỹ thuật:
+ Phương pháp chia lương sản phẩm tập thể theo thời gian làm việc, cấp
bậc kỹ thuật kết hợp bình công chấm điểm.
+ Phương pháp chia lương theo hình thức bình công chấm điểm.
Tóm lại, hình thức trả lương theo sản phẩm nhìn chung có nhiều ưu
điểm, nó quán triệt được nguyên tắc phân phối theo lao động. Tuy nhiên để
hình thức trả lương này phát huy được tác dụng trong công tác quản lý và
hoạt động sản xuất, kinh doanh thì doanh nghiệp phải có định mức lao động
cụ thể cho từng công viêc, từng cấp (bậc) thợ, có căn cứ kỹ thuật và phải phù
hợp với điều kiện lao động cụ thể của từng doanh nghiệp. Có như vậy hình
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
10
Đề án môn học Kế toán 43C
thức trả lương theo sản phẩm mới bảo đảm được tính chính xác, công bằng và
hợp lý.
2. Quỹ tiền lương và thành phần của quỹ tiền lương trong doanh nghiệp.
a. Quỹ tiền lương.
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền lương trả cho số
công nhân viên của doanh nghiệp do doanh nghiệp quản lý, sử dụng và chi trả
lương.
b. Thành phần của quỹ tiền lương trong doanh nghiệp.
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp gồm:
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian làm việc thực tế
(lương thời gian, lương sản phẩm).
- Các khoản phụ cấp thường xuyên: phụ cấp học nghề, phụ cấp thâm
niên, phụ cấp làm đêm, thêm giờ, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực, phụ
cấp dạy nghề, phụ cấp công tác lưu động, phụ cấp cho những người làm công
tác khoa học-kỹ thuật có tài năng.
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng sản xuất do
những nguyên nhân khách quan, thời gian đi học, nghỉ phép.
-Tiền lương trả cho công nhân làm ra sản phẩm hỏng trong phạm vi chế
độ quy định.
Về phương diện hạch toán kế toán, quỹ lương của doanh nghiệp được
chia thành 2 loại: tiền lương chính, tiền lương phụ.
+Tiền lương chính: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian
họ thực hiện nhiệm vụ chính: tiền lương cấp bậc,các khoản phụ cấp (phụ cấp
làm đêm, thêm giờ…).
+Tiền lương phụ: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian họ
thực hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ của họ và được hưởng lương theo
chế độ.
Trong công tác hạch toán kế toán, tiền lương chính của công nhân sản
xuất được hạch toán trực tiếp vào chi phí sản xuất sản phẩm, tiền lương phụ
của công nhân sản xuất được hạch toán và phân bổ gián tiếp vào chi phí sản
xuất các loại sản phẩm có liên quan theo tiêu thức phân bổ thích hợp.
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
11
Đề án môn học Kế toán 43C
PHẦN II : KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG
I. Hạch toán chi tiết tiền lương.
1. Hạch toán số lượng lao động.
Chỉ tiêu số lượng lao động của doanh nghiệp được phản ánh trên sổ danh
sách lao động của doanh nghiệp do phòng lao động- tiền lương lập căn cứ vào
số lao động hiện có của doanh nghiệp. Nó bao gồm cả số lao động dài hạn và
lao động tạm thời, cả lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp.
Cơ sở để ghi sổ danh sách lao động là chứng từ ban đầu về tuyển dụng
thuyên chuyển công tác, nâng bậc,cũng như thôi việc,…Các chứng từ trên đại
bộ phận do phòng tổ chức lao động tiền lương lập mỗi khi tuyển dụng, nâng
bậc, thuyên chuyển công tác,…Mọi biến động phải được ghi chép kịp thời,
đầy đủ vào sổ danh sách lao động để trên cơ sở đó làm căn cứ cho việc tính
lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động được hưởng một cách
tốt nhất.
2. Hạch toán sử dụng thời gian lao động
Hạch toán sử dụng thời gian lao động phải bảo đảm ghi chép phản ánh
kịp thời, chính xác số ngày công, giờ công lao động thực tế hoặc ngừng sản
xuất, nghỉ việc của từng người lao động, từng đơn vị phòng ban trong doanh
nghiệp. Hạch toán sử dụng thời gian lao động có ý nghĩa rất lớn trong việc
quản lý lao động, kiểm tra việc chấp hành kỷ luật lao động làm cơ sở để tính
lương (thưởng) cho người lao động trong đơn vị mình.
Để làm tốt quá trình hạnh toán sử dụng thời gian lao động thì chứng từ
kế toán cần sử dụng là:
+ Bảng chẩm công: Đây là chứng từ ban đầu rất quan trọng để hạch toán
thời gian lao động trong từng đơn vị, phòng ban. Mặt khác sử dụng để hạch
toán thời gian làm việc, nghỉ việc vì các lý do chính đáng.
+ Phiếu làm thêm giờ (hoặc làm đêm): Chứng từ này được hạch toán
theo từng người hoặc số giờ làm việc. Theo luật lao động đã quy định, làm
thêm giờ trong các ngày chủ nhật có phụ cấp cao hơn làm thêm giờ trong các
ngày thường.
+ Phiếu ghi hưởng bảo hiểm xã hội: Được dùng trong các trường hợp
nghỉ việc do ốm đau, con ốm, nghỉ tai nạn lao động,…Các trường hợp này
đều phải có chứng từ xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền (như bệnh
viện) và được ghi vào bảng chấm công theo những ký hiệu đã quy định.
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
12
Đề án môn học Kế toán 43C
3. Hạch toán kết quả lao động
Song song với việc hạch toán số lượng và thời gian lao động, việc hạch
toán kết quả lao động là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác quản
lý và hạch toán lao động ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Hạch toán
kết quả lao động phải đảm bảo phản ánh chính xác về chất lượng và số lượng
sản phẩm hoặc khối lượng công việc hoàn thành của từng người lao động,
từng đơn vị phòng ban làm căn cứ tính lương, tính thưởng và kiểm tra sự phù
hợp của tiền lương phải trả với kết quả lao động, kiểm tra tình hình thực hiện
định mức lao động của từng người, từng đơn vị, phòng ban và tổng hợp kết
quả cả doanh nghiệp.
Để hạch toán kết quả lao động trong các doanh nghiệp người ta sử dụng
các chứng từ sau:
+Bảng theo dõi công tác của tổ, phòng ban.
+Giấy giao ca: Có một số hoạt động của doanh nghiệp không theo dõi
được từng người, từng tổ mà phải tính theo ca.
+Phiếu nhập kho sản phẩm.
+ Hợp đồng khoán.
4. Tính lương, tính thưởng và lập bảng thanh toán lương.
Thời gian để tính lương, tính thưởng và các khoản khác phải trả cho
người lao động là hàng tháng. Căn cứ để tính là các chứng từ hạch toán thời
gian lao động, kết quả lao động và các chứng từ khác có liên quan như giấy
nghỉ ốm, biên bản nghỉ việc không lương,…Tất cả các chứng từ trên phải
được kế toán kiểm tra trước khi tính lương,tính thưởng và phải bảo đảm được
các yêu cầu về chứng từ kế toán. Sau khi đã kiểm tra các chứng từ tính lương,
tính thưởng, tính trợ cấp, phụ cấp thì kế toán tiến hành tính lương, tính thưởng
và tính trợ cấp phải trả cho người lao động theo hình thức trả lương, tiền
thưởng đang được áp dụng tại doanh nghiệp và phải lập bảng thanh toán tiền
lương, tiền thưởng trên cơ sở đó.
Bảng thanh toán tiền lương (mẫu số 02-LĐTL) của chế độ chứng từ kế
toán là chứng từ làm căn cứ thanh toán tiền lương, phụ cấp cho người lao
động cũng như làm cơ sở để kiểm tra việc thanh toán lương đó. Bảng thanh
toán tiền lương được lập cho từng đơn vị phòng ban tương ứng với bảng chấm
công trong doanh nghiệp.
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
13
Đề án môn học Kế toán 43C
II. Hạch toán tổng hợp Tiền lương
1. Tài khoản sử dụng.
Kế toán tổng hợp tiền lương sử dụng TK 334: “Phải trả công nhân viên”.
TK 334 phản ánh các khoản phải trả công nhân viên và tình hình thanh
toán các khoản đó (gồm: tiền lương, BHXH và các khoản thuộc thu nhập của
công nhân viên).
Kết cấu của TK 334: “Phải trả công nhân viên”.
* Bên nợ:
- Các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản khác đã trả đã ứng cho
công nhân viên.
- Các khoản khấu trừ vào tiền lương, tiền công của công nhân viên.
* Bên có:
- Các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản khác phải trả công
nhân viên.
* Dư có: Các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản khác còn phải
trả công nhân viên.
* Dự nợ (cá biệt): Số tiền đã trả công nhân viên lớn hơn số tiền phải trả.
2. Phương pháp hạch toán.
- Hàng tháng căn cứ vào Bảng thanh toán tiền lương và các chứng từ liên
quan khác kế toán tổng hợp số tiền lương phải trả công nhân viên và phân bổ
vào chi phí sản xuất kinh doanh theo từng đối tượng sử dụng lao động, việc
phân bổ thực hiện trên “Bảng phân bổ tiền lương và BHXH”. Kế toán ghi:
Nợ TK 622 : Phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất.
Nợ TK 627 (6271) : Phải trả cho nhân viên phân xưởng.
Nợ TK 641 (6411) : Phải trả cho nhân viên bộ phận bán hàng.
Nợ TK 642 (6421) : Phải trả cho nhân viên quản lý doanh nghiệp.
Nợ TK 241 (2412) : Phải trả công nhân bộ phận xây dựng cơ bản
Có TK 334: Tổng tiền lương và phụ cấp phải trả.
- Tiền ăn ca phải trả cho người lao động tham gia vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, ghi:
Nợ TK 622 : Tiền ăn ca của công nhân sản xuất.
Nợ TK 627,641,642…: Tiền ăn ca của nhân viên sản xuất, nhân viên
bán hàng, nhân viên bộ phận quản lý doanh nghiệp
Có TK 334 : Tổng tiền ăn ca phải trả.
MÉn thÞ Kim anh ®¹i häc Ktqd- hn
14