Đề tài: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Mở đầu
1 Tính cấp thiết của đề tài:
Vốn và công nghệ là chìa khóa, là điều kiện hàng đầu để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở mọi quốc gia, nhất là đối
với các nước đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi trong đó có Việt
Nam.
Đối với nước ta, trong điều kiện nền kinh tế còn ở điểm xuất phát thấp,
tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao và chưa thật sự vững chắc. Vì vậy nhiệm
vụ phát triển kinh tế của nước ta trong những năm tới là đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn và tránh nguy cơ tụt hậu, cải thiện đời sống nhân
dâ, củng cố quốc phong và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển
nhanh hơn đi vào thế kỷ XXI, từng bước hội nhập vào quỹ đạo kinh tế thế
giới.
Với mục tiêu xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp và tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu lâu dài là cải biến
nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế phù hợp… cộng với việc thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển
kinh tế trong đó có việc nâng cao GDP bình quân đầu người lên 2 lần như
Đại hội VII của Đảng đã nêu ra. Muốn thực hiện tốt điều đó chúng ta không
chỉ trông chờ vào nguồn vốn và công nghệ trong nước mà còn phải biết thu
hút vốn và công nghệ nước ngoài, trong đó đặc biệt là nguồn vốn FDI.
Đối với Việt Nam, việc thu hút nguồn vốn FDI có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong
bối cảnh hiện nay khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
WTO, chúng ta cần phải huy động một lượng vốn rất lớn. Muốn có ượng
vốn lớn cần tăng cường sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhưng với tình hình
của nước ta thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng là một cách tích lượng
vốn nhanh có thể làm được và nguồn vốn FDI là một trong những nhân tố
quan trọng hàng đầu. Đó là kênh chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tay nghề cho người lao động, năng lực
quản lý, tạo nguồn thu cho ngân sách…
Tuy nhiên ở nước ta, sau một số thành công ban đầu, với tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ (2008) và xuất hiện nhiều cản trở của môi
trường đầu tư trong nước, việc thu hút FDI cho sự nghiêp công nghiệp hóa
1
và hiện đại hóa trong thời gian gần đây đã có những biểu hiện chững lại.
Mặt khác, trong lĩnh vực này đang có nhiều vấn đề nảy sinh về nhận thức,
quan điểm, cơ chế quản lý nhà nước, mối quan hệ giữa vốn trong nước với
vốn nước ngoài, cũng như cách đánh giá cái được và cái chưa được trong thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là những vấn đề nổi cộm hiện nay đang
làm giảm dòng vốn FDI vào nước ta, làm ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng phát triển kinh tế-xã hội. Trước tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải có
sự tiếp nhận và đánh giá đúng đắn về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời
gian qua để thấy được những yếu tố tác động, những lợi thế và bất lợi của
đất nước trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trên
cơ sở đó đề ra hệ thống những giải pháp cụ thể, kịp thời nhằm tranh thủ
nguồn vốn này một cách chủ động, chọn lọc có trọng tâm, chất lượng và sử
dụng sao cho có hiệu quả kinh tế cao góp phần thực hiện mục tiêu chiến
lược mà Đảng và Nhà nước đã đề ra: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất
nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp phát triển.
Xuất phát từ phân tích trên cùng với quá trình học tập và tìm hiểu, tiếp nối
các công trình khoa học nghiên cứu về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, em mạnh dạn chọn đề tài:
“Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam”
Làm khóa luận cho mình
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay đã hơn 20 năm (1988-2010) Việt Nam thực hiện luật đầu tư nước
ngoài, trong khoảng thời gian đó, hoạt động đầu tư nước ngoài đã thu hút sự
quan tâm của các cấp, các ngành, của nhiều nhà quản lý, nhiều nhà kinh
doanh và các nhà khoa học. Nhiều hội nghị chuyên để, hội thảo khoa học đã
được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Đã có rất nhiều bài viết đăng tải trên
báo hàng ngày, báo tuần, tạp chí…Đã có nhiều đề tài nghiên cứu cấp nhà
nước, cấp ngành, một số luận văn, luận án tiến sỹ kinh tế, và một số cuốn
sách tuowg đối có giá trị đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam tiêu biểu như: “”. Tuy nhiên, trong số
những công trình nghiên cứu trên, chưa có công trình nghiên cứu nào trực
tiếp nghiên cứu về: “Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam” một cách cơ bản, có hệ thống
và toàn diện về cả mặt lý luận cũng như phân tích thực tiễn.
2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về FDI và vai trò của FDI đối với
quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp
nước ngoài với phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa nói riêng.
- Phân tích khái quát các điều kiện và mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đai
hóa của Việt Nam.
- Phân tích đánh giá thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam trog thời gian qua và xu hướng phát triển trong thời gian tới để làm rõ
vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ỏ Việt Nam.
- Trên cơ sở đó, bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án được thực hiện dưới góc độ kinh tế chính trị. Đối tượng nghiên
cứu của Luận văn (khóa luận) là những vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp
nước ngoài và vai trò của nó đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam. Khóa luận tập trung trả lời các câu hỏi như: vì sa Việt Nam
thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thu hút FDI? Cần nhận thức như
thế nào cho đúng vai trò của FDI? Và phải làm gì để nâng cao vai trò của
nguồn vốn quan trọng này đối với việc thực hiện các mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Việt Nam trong bối cảnh hôi nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới? Đồng thời khóa luận này cũng đề cập đến một số vấn đề về
quá trình hình thành và hoàn thiện chính sách đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam nhằm làm rõ thêm đối tượng của khoas luận.
Về phạm vi thời gian, khóa luận chủ yếu đề cập đến thời ký từ 1988 đến
nay. Thời điểm này đánh dấu việc Đảng và nhà nước Việt Nam thực thi chủ
trương đổi mới để thu hút mọi nguồn lực phát triển phục vụ cho công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, phấn đấu xây dựng một
nước công nghiệp Xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3
Cơ sở lý luận của khóa luận là các học thuyết kinh tế của các nhà kinh
điển như Mác-Lenin, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về phát triển kinh tế-xã hội. Một số phương pháp chính được sử
dụng trong quá trìh thực hiện khóa luận:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
- Phương pháp logic-lịch sử
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp thống kê so sánh kết hợp với mô phỏng, dự báo
6. Những đóng góp mới của khóa luận
- Góp phần làm sáng tỏ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài và những
tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam nói chung và
đặc biệt đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
- Nêu một số kiến nghị mới về quan điểm, chính sách và giải pháp chủ
yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài phục
vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian tới.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mục lục, mở đầu và kết luận, bảng danh mục các tài liệu tham
khảo, kết cấu của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và…
Chương 2: Thực trạng vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đối với
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai
trò của đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam.
NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
và công cuộc công nghiệp hóa , hiện đại hóa của Việt Nam
1.1Đầu từ trực tiếp nước ngoài FDI
1.1.1 Khái niệm và các hình thức chủ yếu của FDI
1.1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
4
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hình thức hợp tác quốc tế
hữu hiệu nhất hiện nay, là một hình thức quan trọng phổ biến trong mối quan
hệ kinh tế. Nó ra đời, tồn tại và phát triển là kết quả tất yếu của xu hướng
quốc tế hóa đời sống kinh tế xã hội và quá trình phân công lao động mở rộng
trên phạm vi toàn thế giới
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được xem như chiếc chìa khóa của
sự tăng trưởng kinh tế mỗi nước. Ngày nay việc thu hút vốn đầu tư FDI
không chỉ diễn ra ở các nước đang phát triển mà còn cả ở các nước tư bản
phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu… Do vậy đã diễn ra một cuộc cạnh
tranh gay gắt để tìm kiếm nguồn vốn FDI. Quốc gia nào có sức hấp dẫn hơn,
có môi trường đầu tư thông thoáng hơn và thuận lợi hơn sẽ có nhiều thuận
lợi trong cuộc cạnh tranh này. Rõ ràng thu hút FDI mang tính quy luật chung
đối với tất các các nước, trong đó có Việt Nam.
Về mặt kinh tế, FDI là một hình thức đầu tư quốc tế được đặc trưng bởi
quá trình di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác, trong đó chủ sở hữu
đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu
tư. Thực chất FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng cơ sở, chi
nhánh của nước ngoài và làm chủ từng phần hay toàn bộ cơ sở đó. Đây là
hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào
lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành
đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI là số vốn đầu tư được thực hiện để
thu lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế khác
với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng
nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó.
Định nghĩa này nhấn mạnh động cơ đầu tư và phân biệt FDI với đầu tư
gián tiếp (Portfolio Investment). Đầu tư gián tiếp có đặc trưng cơ bản là
nhằm thu hút được lợi nhuận từ việc mua bán các tài sản tài chính ở nước
ngoài, nhà đầu tư không quan tâm đến quá trình quản lý doanh nghiệp.
Trong khi đó, với đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư giành quyền kiểm soát các
quá trình quản lý.
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì:
FDI là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền hoặc máy móc, thiết bị vật tư, khoa học công nghệ…được
chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng,
thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
hoặc thự hiện các dự án nước chủ nhà và đảm bảo lợi tức cổ phần nếu có.
FDI là hình thức chuyển giao lớn nhất về vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý thị trường
Từ những nhận xét trên có thể đưa ra định nghĩa về FDI như sau:
5
FDI là một hình thức di chuyển vốn trên thị trường tài chính quốc tế.
Trong đó, một công ty (thường là công ty xuyên quốc gia) tạo ra hoặc mở
rộng chi nhánh ở nước khác, đầu tư để mở rộng thị trường, thiết lập quyền
sở hữu từng phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý quyết định
kinh doanh, cùng các đối tác nước sở tại chia sẻ rủi ro và hưởng lợi.
1.1.1.2 Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong thực tiễn, hoạt động FDI có nhiều hình thức tổ chức cụ thể khác
nhau tùy theo tính chất pháp lý và vai trò của mỗi bên trong quá trình hợp
tác đầu tư. Theo Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những hình
thức FDI được áp dụng là:
1.1.1.2.1. Hơp đồng hợp tác kinh doanh
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa hai bên hoặc
nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên ma không thành
lập pháp nhân mới. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hợp
tác với tổ chức, cá nhân ngươi ngoài đê thực hiện hợp đồng hợp tác kih
doanh.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký
- Trong quá trình kinh doanh, các bên hợp doanh được thỏa thuận thành
lập Ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh
doanh. Ban điều phối hợp tác kinh doanh không phải là đại diện pháp lý cho
các bên hợp doanh. Mỗi bên hợp doanh vẫn giữ pháp nhân riêng của mình
và tự quản lý, thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo hệ thống pháp luật khác
nhau: Bên Việt Nam theo luật pháp trong nước, bên nước ngoài theo luật
đầu tư nước ngoài
1.1.1.2.2. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam
trên cơ sở hợp đồng liên doan kkys giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên
hoặc các bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Doanh nghiệp
bên liên doanh mới là doanh nghiệp được thành lập giữa doanh nghiệp liên
doanh đã được phép hoạt động tại Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài hoặc
với Doanh nghiệp Việt Nam hoặc với doanh nghiệp liên doanh, Doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được phép hoạt động tại Việt Nam. Trong
6
trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ
sở hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hìh thức công ty trách
nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, tự chủ về tài
chính theo pháp luật, vốn pháp định do các bên liên doanh đóng góp, lợi
nhuận và rủi ro phân chia theo lượng vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh có
con dấu riêng, hoạt động trên nguyên tắc thanh toán độc lập, mỗi bên liên
doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia.
1.1.1.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Theo điều 21 của Luật đầu tư nước ngoài (đã được sửa đổi và bổ xung).
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoai, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản
lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công
ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp lý theo pháp luật Việt Nam, được
thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp phép đầu tư.
Ngoài 3 hình thức chủ yếu nêu trên đã được thực hiện tại Việt Nam còn
có nhiều hình thức khác tùy theo mục đích và đặc điểm trong yêu cầu tiếp
nhận đầu tư như sau:
- Hợp đồng Xây dựng-Kinh doanh-Chuyển giao (Build-Operate-
Tranfer-BOT): Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dưng, kinh doanh công trình kết
cấu hạ tầng trong một thời gian nhât định, hết thời hạn, nhà đầu tư nước
ngoài bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Nhà đầu tư nắm
quyền sở hữu, quản lý công trình BOT trong thời hạn hợp đồng.
- Hợp đồng Xây dựng-chuyển giao-Kinh doanh BOT
Là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Sau
khi xây duwgj xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho
Việt Nam. Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công
trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư va lợi nhuận hợp
lý
- Hợp đồng Xây dựng và chuyển giao BT
Là văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. sau
khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho
nhà nước Việt Nam, chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
7
1.1.2. Bản chất và đặc điểm chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.2.1. Bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định bởi những
quy luật kinh tế hoàn toàn khách quan với những điều kiện cần và đủ chín
muồi nhất định, nó chỉ là một trong số nhưng mặt biểu hiện ra bên ngoài của
quá trình phân công lao động quốc tế và xã hội hóa sức sản xuất xã hội trên
quy mô quốc tế. Những nhân tố tác động khác có thể kìm hãm hay đẩy
nhanh hơn việc mở rộng dòng di chuyển vốn, song nếu kìm hãm cũng không
thể dập tắt được đường đi của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nhưng nơi có
lợi thế so sánh tốt hơn hoặc nếu có thúc đẩy cũng không vượt qua được
những điều kiện thực tế hiện có cho phép những điều kiện cần và đủ cả nơi
đầu tư lẫn nơi nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể xem là yếu tố tác động làm tạo ra
những bước thay đổi nhận thức ngày càng đúng hơn và chủ động hơn của
con người đối với quy luật kinh tế khách quanh về sự phát triển sức sản xuất
xã hội và phân công lao động xã hội đang mở ra một cách thực tế trên quy
mô quốc tế. Xu hướng này có ý nghĩa quyết định trong việc chi phối các
biểu hiện vận động khác nhau của đầu tư nước ngoài.
Quan hệ kinh tế quốc tế đã hình thành nên các dòng lưu chuyển vốn chủ
yếu: Dòng vốn từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển, dòng
vốn lưu chuyển trong nội bộ các nước đang phát triển. Sự lưu chuyển của
các dòng vốn diễn ra dưới nhiều hình thức như: Tài trợ phát triển chính thức
(gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức khác), nguồn vay
tư nhân (tín dụng từ các ngân hàng thương mại) và đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Mỗi nguồn vốn có đặc điểm riên của nó.
- Nguồn tài trợ phát triển chính thức là nguồn vốn do các tổ chức
quốc tế, chính phủ (hoặc đại diện của chính phủ) cung cấp. Loại vốn này có
đặc điểm là có sự ưu đãi nhất định về lãi suất, khối lượng cho vay lớn, và
thời hạn cho vay tương đối dài. Để giúp các nước đang phát triển, trong loại
vốn này đã giành một lượng vốn chủ yếu cho vốn viện trợ phát triển chinhs
thức-ODA, đây là loại vốn có nhiều ưu đãi, trong ODA, có một phần là viện
trợ không hoàn lại, phần này thường khoảng 25% tổng số vốn. Đây là điểm
khác biệt giữa viện trợ và cho vay, tuy vậy không phải khoản ODA nào cũng
dễ dàng, nhất là loại vố do các chính phủ cung cấp, nó thường găn với nhưng
ràng buộc nào đó về chính trị, kinh tế, xã hội, thậm chí cả về quân sự.
8
- Nguồn vay tư nhân: Đây là nguồn vốn thương không có những
điều kiện ràng buộc như vốn ODA, tuy nhiên đây là loại vốn có thủ tục cho
vay rất khắt khe, mức lãi suất cao, thời hạn trả nợ nghiêm ngặt.
Nhìn chung, sử dụng hai loại vốn trên đều để lại cho nền kinh tế của các
nước đi vay gánh nặng về nợ nần, một trong những yếu tố chứa đựng tiềm
ẩn về nguy cơ dẫn đến khủng hoảng, nhất là khủng hoảng về tiền tệ.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là
loại vốn có nhiều ưu điểm hơn so với các loại vốn kể trên. Nhất là đối với
các nước đang phát triển, khi khả năng tổ chức sản xuất đạt hiệu quả còn
thấp thì ưu điểm đó càng rõ rệt.
Về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự gặp nhau về nhu cầu của
một bên là nhà đầu tư và một bên là nước nhận đầu tư
Đối với nhà đầu tư
Khi quá trình tích tụ tập trung vốn đạt tới một trình độ mà “mảnh đất” sản
xuất kinh doanh truyền thống của họ đã trở nên chật hẹp đến mức cản trở
khả năng hiệu quả của đầu tư, nơi mà ở đó nếu đầu tư vào, họ thu được số
lợi nhuận không được như ý muốn. Trong khi ở một số quốc gia khác xuất
hiện lợi thế mà họ có thể khai thác để thu được lợi nhuận cao hơn nơi mà họ
đang đầu tư. Có thể nói đây là yếu tố cơ bản nhất thúc đẩy các nhà đầu tư
chuyển vốn của minh ra đầu tư ở nước khác, hay nói cách khác, việc tìm
kiếm theo đuổi lợi nhuận cao hơn và bảo toàn độc quyền hay lợi thế cạnh
tranh là bản chất, là động cơ, là mục tiêu tư bản, xuyên suốt của các nhà tư
bản.
Thực chất, cơ bản bên trong của đầu tư nước ngoài bao gồm: Duy trì và
nâng cao hiệu quả sản xuất của chủ đầu tư (vấn đề vốn, kỹ thuật, sản
phẩm…). Khai thác các nguôn lực và xâm nhập thị trường của các nước
nhận đầu tư, tranh thủ lợi dụng chính sách khuyến khích của nước nhận
được đầu tư. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thực hiện các ý đồ
kinh tế hoặc phi kinh tế mà các hoạt động khác không thực hiện được.
Đối với nước nhận đầu tư
Đây là những nước đang có một số lợi thế mà họ chưa có hoặc không có
điều kiện để khai thác. Các nước nhận đầu tư thuộc loại này thương là có
nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú, có nguồn lao động dồi
dào và giá nhân công rẻ, thiếu vốn, thiếu kĩ thuật, thiếu công nghệ tiên
tiến…Số này phần lớn thuộc các nước đang phát triển.
Các nước nhận đầu tư thuộc dạng khác, đó là các nước phát triển, đây llà
các nước có tiềm lực kinh tế cao, phần lớn là những nước có vốn đầu tư ra .
9
nước ngoài. Các nước này có đặc điểm là có cơ sở hạ tầng tốt, họ đã và đang
tham gia có hiệu quả vào quá trình phân công lao động quốc tế hoặc là thành
viên của các tổ chức kinh tế. Họ nhận đầu tư trong mối liên kết để giữ
nguyên quyền chi phối kinh tế thế giới.
Nói chung, đối với nước tiếp nhận đầu tư nước ngoài cho dù ở trình độ
phát triển cao hay thấp, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là do sự khéo léo
“ mời chào” hay do các nhà đầu tư tự tìm đến mà có. Những mức độ khác
nhau đầu tư trực tiếp nước đóng vai trò là nguồn vốn bổ xung, là điều kiện
quyết định sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực của một số lĩnh vực
sản xuất kinh doanh, là cơ hội, là cửa ngõ giúp nhiều nước thoát khỏi tình
trạng của một nước nghèo, bước vào quỹ đạo của sự phát triển và thực hiện
công nghiệp hóa.
1.1.2.2. Đặc điểm chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- FDI trở thành hình thức đầu tư chủ yếu trong đầu tư nước ngoài
Xét về ưu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất
lượng trong nền kinh tế thế giới. Gắn trực tiếp với quá trình sản xuất trực
tiếp, tham gia vào sự phân công lao động quốc tế theo chiều rộng và tạo
thành cơ sở của hoạt động của các công ty xuyên quốc gia và các doanh
nghiệp xuyên quốc tế.
- FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển
Có nhiều lý do giải thích cho mức độ đầu tư cao giữa các nước công
nghiệp phát triển với nhau nhưng có thể thấy được hai nguyên nhân chủ yếu
sau:
Thứ nhất: Môi trường đầu tư ở các nước phát triển có độ tương hợp cao.
Môi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và
môi trường pháp lý
Thứ hai: Xu hướng khu vực hóa đã thúc đẩy các nước này xâm nhập thị
trường cuuả nhau
Từ hai lý do này ta có thể giải thích được xu hướng đang lên của FDI ở
các nước công nghiệp mới (NICs), các nước ASEAN và Trung Quốc. Ngoài
ra xu hướng tự do hóa và mở cửa nền kinh tế của ác nước đang phát triển
trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi của dòng
chảy FDI.
Cơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn
Trong những năm gần đây cơ cấu và phương thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài trở nên đa dạng hơn so với trước đây, điều này liên quan đến sự hình
thành hệ thống phân công lao động quốc tế thương mại toàn cầu.
10
Về cơ cấu, FDI đặc biệt là FDI vào các nước công nghiệp phát triển có
những thay đổi sau:
Vai trò và tỷ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao
tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm là tập trung vào các ngành then
chốt như điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo, hóa chất. Trong khi đó nhiều
ngành công nghiệp truyền thống dùng nhiều vốn và là động, FDI giảm tuyệt
đối hoặc không đầu tư.
Tỷ trọng của các ngành công nghiẹp chế tạo giảm xuống trong khi FDI
vào các nghành dịch vụ tănh lên. Một số lĩnh vực được ưu tiên là dịch vụ
thương mại, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và giải trí.
Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa FDI và ODA, thương mại và chuyển
giao công nghệ
- FDI và thương mại có liên quan chặ chẽ với nhau. Thông thường một
chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích tăng
tiềm năng xuất khẩu của một nước. Mặt khác, các công ty nước ngoài được
lựa chọn ngành và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cơ sở tăng khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
- FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của việc chuyển giao công
nghệ. Xu hướng hiện nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn
bó chặt chẽ với nhau. Đây chính là hìh thức có hiệu quả nhất của sự lưu
chuyển vốn và kỹ thuật trên phạm vi quốc tế.
- Sự gắn bó giữa FDI và ODA cũng là một đặc điểm nổi bật của sự lưu
chuyển các nguồn vốn, công nghệ trên phạm vi quốc tế trong nhưng năm
gần đây. Hơn nưa xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn.
1.1.3. Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội của một đất
nước
1.1.3.1. Đối với nước đầu tư
Đối với nước đầu tư, đầu tư trực tiếp mang lại cho họ nhưng lợi ích sau
đây:
Thứ nhất, bằng đầu tư ra nước ngoài, họ tận dụng được nhưng lợi thế về
chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (do giá nhân công rẻ, chi phí khai
thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phi
vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận
được đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty nay kéo dài
chu kỳ sống của sản phẩm mới được chế tao ra trong nước. Thông qua đầu
tư trực tiếp, các công ty của các nước phats triển chuyển được một phần các
sản phâm công nghệ ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống của chún sang các
11
nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng như sản phẩm mới ở các nước này, nhờ
đó mà tiếp tục duy trì được việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi
nhuận cho nhà đầu tư.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các công ty đi đầu tư xây dựng
được thị trường cung cấp tài nguyên ổn định với giá phải chăng. Nhiều nước
nhận đầu tư có tài nguyên dồi dao nhưng do hạn chế về tiền vốn, kỹ thuật,
công nghệ cho nên những tài nguyên đó chưa được khai thác, sử dụng một
cách có hiệu quả. Thông qua việc đầu tư khai thác vào những ngành tâì
nguyên, các nước chủ đầu tư đã tận dụng được những nguồn nguyên liệu
đó, nhập khẩu để phục vụ cho ngành sản xuất ở nước mình.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các nước chủ đầu tư bành
trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị tăng cường ảnh
hưởng của minh trên thị trường quốc tế. Thông qua xây dựng nhà máy sản
xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, mà các nước xuất khẩu vốn mở
rộng được thị trường tiêu thụ, tránh đước hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các
nước. Nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với
hàng hóa nhập khẩu từ nước khác.
Xét cho cùng thì mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư ra nước ngoài là
làm cho đồng vốn được sử dụng hiệu quả cao nhất
1.1.3.2. Đối với nước nhận đầu tư
Để phát triển kinh tế xã hội các nước đang phát triển trước hết đều phải
đương đầu với sự thiếu vốn gay gắt, các yếu tố cần thiết cho sự phát triển.
Việc tiếp nhận FDI có tác dụng sau:
Thứ nhất: FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho các nước này. Trong
giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, các nước chậm và đang phát triển đều
gặp phải vấn đề nan giải là thiếu vốn đầu tư do tích lũy nội bộ thấp hoặc
không có tích lũy. Điều đó hạn chế quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật gây ra
tình trạng mất cân đối trong quá trình xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán
thương xuyên bị thiếu hụt, đất nước thiếu ngoại tệ. Việc thu hút nguồn vốn
nước ngoài có thể giải quyết được khó khăn về khả năng tích lũy vốn thấp và
bù đắp các khoản thiếu hụt ngoại tệ trong cán cân thanh toán.
Thứ hai: đầu tư nước ngoài giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp ở
những nước này. Thông qua việc tạo ra các xí nghiệp mới hoặc làm tăng quy
mô của các đơn vị kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra công ăn việc
làm cho một số lượng khá lớn người lao động.
Thứ ba: cùng với việc cung cấp vốn, thông qua hoattj động FDI các công
ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang
nước nhận đầu tư do đó các nước này nhận được kỹ thuật tiên tiến (trong đó
12
có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn
thuần), kinh nghiệm quản lý, năng lực maketing đội ngũ được dào tạo, rèn
luyện về mọi mặt (trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỹ thuật lao
động…)
Thứ tư: đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho các hoạt động đầu tư trong
nước phát triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước ngày
càng được tăng cường, các tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội đất nước
có điều kiện khai thác và được khai thác. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến
chuyển dịch co cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Thứ năm: với việc tiếp nhận FDI, nước chủ nhà không phải lo trả nợ.
Thông qua việc hợp tác với nước ngoàim nước chủ nhà có điều kiện thâm
nhập vào thị trường thế giới. FDI tăng thu cho ngân sách nhà nước thông
qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển
có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án
phát triển.
Ngày nay FDI đã trở thanh một tất yếu khách quan trong điều kiện quốc
tế hóa nền sản xuất, lưu thông và được tăng cường mạnh mẽ. Có thể nói,
hiện nay khônng một quốc gia nào lại không cần đến nguồn vốn của FDI của
nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác để hòa nhập vào cộng
đồng quốc tế. Tuy nhiên theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư,
bên cạnh những ưu điểm đó thì FDI cũng có những hạn chế nhất định. Đó là:
- Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị thì nhà đầu tu
nước ngoài dễ bị mất vốn.
- Nếu nước sở tại không có quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới
sự đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác qua
mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Cũng như các nước đang phát triển để phá “cái vòng luẩn quẩn” và phát
triển kinh tế, đòi hỏi việt nam phải có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước
ngoài nhất là FDI. Ngày 18-11-1977 nước ta thông qua Điều lệ đầu tư nước
ngoài. Ngày 29-12-1987 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc
hội thông qua và đến nay được bổ xung bốn lần vào tháng 6-1990, 12-1992,
11-1996 và tháng 6-2000. Qua các lần sửa đổi bổ sung luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và
phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới FDI vì đối với nước ta hình thức
này có vai trò rất quan trọng . Điều này được thể hiện như sau:
- FDI giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế đất nước. Để đạt
được những chỉ tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới
thì tốc độ phát triển bình quân hàng năm phải đạt ít nhất là 7% và nhu cầu về
13
vốn đầu tư có từ 4,2 tỷ USD trở lên mỗi năm (tức là tích lũy hàng năm phải
đạt 22% thu nhập quốc dân)
- FDI đang mang lại khả năng mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng những
doanh nghiệp và cơ sở sản xuất dịch vụ mới làm cho tổng sản phẩm xã hội
của nước ta tăng lên và cho phép giải quyết được tình trạng thất nghiệp của
người lao động, tăng thu ngân sách nhà nước.
- Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta tiếp nhận thành tựu
khoa học tiên tiến của thế giới, nhờ đó rút ngắn khoảng cách của ta so với
thế giới.
- Nhờ có FDI chúng ta sử dụng có hiệu quả những lợi thế của đất nướ mà
nhiều năm qua không thể thực hiện do thiếu vốn như khai thác dầu mỏ,
khoáng sản…
Ngoài ra trong quá trình tiếp nhận FDI chúng ta học được kinh nghiệm
quản lý kinh doanh và các làm thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường
của các nước tiên tiến.
Tóm lại, FDI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để đưa nước ta nhanh chóng
hội nhập với sự phát triển của thế giới và khu vực.
1.1.4. Kinh nghiệm của một số nước về thu hút và sử dụng đầu tư
trực tiếp nước ngoài để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Những thập niên gần đây, trong sự phát triển của một số nền kinh tế ta
thấy có sự tác động to lơn của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối với mỗi
nước, có hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế khác nhau thì sự tác động
của đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ có những sự khác nhau về chiều hướng,
mức độ, phạm vi cũng như lĩnh vực cụ thể. Thực tế ở nhiều nước trên thế
giới đầu tư trực tiếp nước ngoài gần như giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân. Tham khảo kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài của một số nước trong quá trình công nghiệp hóa, ít nhièu có
điều kiện tương đồng với Việt Nam là việc làm cần thiết. Về lý luận, nó giúp
ta có thêm dữ liệu để hiểu rõ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa là
điều kiện để đánh giá chuẩn xác hơn sự tác động của loại hìh kinh tế này đối
với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Về thực tiễn, các nước tiến hành công nghiệp hóa trong một vài thập niên
gần đây chỉ có thể thành công khi tận dụng tối đa nhưng ưu thế của đầu tư
nước ngoài. Kinh nghiệm của các nước chính là cơ sở để chúng ta tham
khảo, học hỏi nhưng thành công và tránh những điều chưa hợp lý mà các
nước đi trước vấp phải.
14
1.1.4.1. Kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc
Về chính sách chung, Trung Quốc huy động vốn FDI thông qua các hình
thức như hợp đồng sản xuất, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài vào
các khu vực đặc biệt.
Chính sách cơ bản để thu hút FDI của Trung Quốc là chính sách thuế.
Trung Quốc ban hành nhiều loại thuế riêng cho các hình thức đầu tư: hợp
tác, liên doanh, 100% vốn nước ngoài và cho 14 thành phố ven biển. Liên
doanh đóng thuế lợi tức 30% và 10% thêm cho địa phương.
Tại 14 thành phố ven biển, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được
giảm thuế lợi tức 10% so với các khu vực khác. Các liên doanh đầu tư 10
năm trở lên được miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ khi có lãi và giảm 50% thuế
cho 3 năm tiếp theo. Nếu liên doanh đầu tư vào vùng khó khăn sẽ được giảm
tiếp 15-30% trong vòng 10 năm. Nếu liên doanh có sản phẩm xuất khẩu trên
70% được giảm 50% thuế hàng năm. Nếu doanh nghiệp áp dụng công nghệ
tiên tiến được giảm tiếp 50% trong 3 năm so với các doanh nghiệp cùng loại
không có công nghệ cao. Nếu đầu tư vào 14 thành phố ven biển trên 10 năm
thì miễn thuế 2 năm, và giảm thuế 3 năm tiếp theo.
Về thuế xuất nhập khẩu, Trung Quốc thực hiện miễn thuế nhập khẩu đối
với các mặt hàng như: máy móc, thiết bị, bộ phận rời, vật liệu được đưa vào
góp vốn liên doanh hoặc các máy móc thiết bị vật liệu cho các bên nước
ngoài đưa vào khai thác dầu khí, đưa vào các khu chế xuất và 14 thành phố
ven biển. Các vất liệu bộ phận rời được nhập để sản xuất hàng xuất khẩu.
Trung quốc cũng miễn thuế xuất khẩu cho các mặt hàng xuất khẩu được sản
xuất ở các khu chế xuất và 14 thành phố ven biển.
Về thủ tục hành chính, Trung Quốc phân cấp mạnh cho các địa phường về
thẩm định dự án và cấp giấy phép đầu tư. Sau khi có giấy phép đầu tư, các
thủ tục liên quan được triển khai nhanh chóng. Các vấn đề giải phóng mặt
bằng, điện nước, giao thông, môi trường được giải quyết dứt điểm. Thực
hiện chính sách “một cửa” để tạo điều kiện thu hút FDI thuận lợi.
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nươcs ngoài hiện nay của Trung Quốc
là nhăm mục tiêu hiện đại hóa công nghiệp và kinh tế nông nghiệp, phát
triển ngành năng lượng, khai thác khoảng sản và hệ thống vận tải quốc gia.
Thúc đẩy cải cách kinh tế ở các vùng lạc hậu nhất là ở miền Trung và miễn
Tây Trung Quốc. Trung Quốc coi thu hút đầu tư nước ngoài là một trong
nhưng yếu tố cơ bản để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
1.1.4.2. Chính sách thu hút FDI của Singapore
15
Singapore là một đất nước đô thị với diện tích chỉ có 647,8 km2. Tuy là
một đât nước có quy mô diện tích nhỏ,, ít tài nguyên thiên nhiên nhưng đây
lại là một quốc gia rất thành công trong việc hội nhập ở mức độ cao với cacs
thị trường quốc tế (cả về mậu dịch hàng hóa cũng như thị trường vốn).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trong nhất trong thời kỳ
đầu tiến hành công nghiệp hóa của Singapore. Khác với nhiều nước khi tiến
hành công nghiệp hóa, để giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư, chính phủ
Singapore đã ban hành những chính sách, tạo ra môi trường hấp dẫn, kích
thích các nhà tư bản nước ngoài bỏ vốn vào đầu tư trực tiếp, mà rất hạn chế
việc cho vay vốn cho đầu tư. Ở đây chúng ta chỉ tóm tắt 6 biện pháp, chính
sách của Singapore nhằm thu hút FDI:
- Chính sách đầu tư tự do:
Chính sách của nhà nước Singapore đối với người đầu tư ngoại quốc là tự
do nhất quán. Người đầu tư nước ngoài hoàn toàn tự do đưa tiền vào, chuyển
tiền ra, thuê nhân công nước ngoài vào Singapore làm việc, tự quyết định
hình thức, phương pháp và lĩnh vực hoạt động tự do nếu muốn có quyền sở
hữu 100% xí nghiệp.
- Khuyến khích đầu tư
Singapore thực hiện đánh thuế đối với từng dự án nhất là khuyến khích
các dự án dễ gặp rủi ro và phải chuẩn bị lâu. Mọi biện pháp thuế đều làm
tăng khả năng hợp tác
- Một số khuyến khích tích cực hơn đối với đầu tư.
Năm 1960 Singapore thành lập cục phát triển kinh tế có trách nhiệm là
thúc đẩy đầu tư công nghiệp. Cơ quan này có 16 văn phòng ở nước ngoài.
Đặc biệt cơ quan này nhận làm dịch vụ thăm dò, tiếp thij cho người đầu tư
đã đáp ứng nguyện vọng của các công ty ngoai quốc Singapore luô đáp ứng
các nhu câu khác của người đầu tư.
- Hướng cơ cấu hạ tầng phục vụ cho kinh doanh
Singapore có hệ thống cơ cấu hạ tầng liên hoàn và phát triển nhất châu Á.
Bến cảng của họ hiện đại thứ 3 thế giới sau Nhật Bản và Hà Lan. Ngoài cơ
cấu hạ tầng kỹ thuật phát triển, Singapore còn rất thành công trong việc đào
tạo nhân công, liên kết xã hội với gia đình và giáo dục phổ thông.
- Phát triển nhân lực một cách toàn diện
Singapore xây dựng hệ thống trường chuyên khoa nghề nghiệp hợp tác
với nước ngoài tổ chức các trung tâm đào tạo, tuyển chọn cử nhân viên ra
nước ngoài tập huấn chuyên môn, đồng thời các doanh nghiệp trong nước
đều chủ động tiến hành bồi dưỡng đối với công nhân viên chức để đào tạo
một lực lượng nhân tài, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu về lao động cho việc
thu hút đầu tư.
16
Nhờ có được môi trường đầu tư nòi chung và các chính sách khuyến
khích nói riêng tương đối hấp dẫn nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Singapore thường ở mức cao hơn nhiều nước.
Singapore đã rất thành công trong việc thu hút số lượng dự án, vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài mà còn cả trong việc sử dụng có hiệu quả loại hình kinh
tế này. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực sự trở thành một trong những
phương tiện đưa nền kinh tế Singapore phát triển lên trình độ cao của một
nền kinh tế công nghiệp hóa.
1.1.4.3. Kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước có nhiều điểm tương đồng với Việt
Nam về điều kiện tự nhiên (đất đai, khí hậu, tài nguyên…), về xã hội (một số
tập quán, dân số đông và phần lớn sống ở nông thôn) và về trình độ phát
triển kih tế (có ưu thế phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới, cônng nghiệp
còn ở trình độ thấp)
Những thập niên gần đây, nền kinh tế Thái Lan đã đạt được sự phát triển
nhanh trong khu vực. Trong sự phát triển đó có sự đóng góp đáng kể của đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Để triển khai và thu hút FDI chính phủ Thái Lan đã
có nhiều biện pháp hữu hiệu. Chính phủ Thái Lan khuyến khích các nhà đầu
tư hợp tác với cơ quan nhà nước khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Các dự án sử dụng nhiều lao động, xuất khẩu sản phẩm, sử dụng nguyên
liệu thô của Thái Lan, thay thế hàng nhập khẩu được nhà nước ưu tiên.
Tỷ lệ góp vốn liên doanh không thành điều kiện bắt buộc. Tuy nhiên các
dự án cho phép Thái Lan góp vốn trên 50 % được ủy ban đầu tư cấp chứng
chỉ bảo lãnh.
Về thuế lợi tức, đánh thuế 30% vào các công ty và đối tác có đăng ký tại
thị trường chứng khoán của Thái Lan và đánh thuế 35% vào các công ty và
đối tác khác. Tùy từng dự án mà có thể được miễn giảm thuế lợi tức 3-8năm
kể từ khi có lãi.
Về thuế nhập khẩu, các doanh nghiệp được miễn giảm 50% thuế nhập
khẩu đối với máy móc, thiết bị nhập khẩu vào mà Thái Lan chưa sản xuất
được. Được miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu, linh kiện đưa vào
sản xuất lắp ráp hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp được xét giảm đến 90%
thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu vào nếu thứ này ở Thái Lan
chưa sản xuất được.
Về chính sách xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất hagf xuất khẩu được
miễn thuế nhập khẩu vật tư, phụ tùng, các chi tiết tạm nhâp, tái xuất, được
miễn hoặc giẩm thuế lợi tức 5%. Các doanh nghiệp tring khu chế xuất được
miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư.
17
Về quản lý ngoại hối, nhà đầu tư được chuyển ra nước ngoài các thu nhập,
lợi nhuận nhưng có thể hạn chế trong trường hợp để cân đối thu chi. Trong
trường hợp hạn chế này thig cũng được chuyển ít nhất là 15%/năm so với
tổng số vốn đem vào Thái Lan
Việc sở hữu đất đai được quy định riêng cho từng loại công ty. Mỗi công
ty được sở hữu đất đai do luật quy định. Công nhân lành nghề, kỹ thuật viên
và gia đình họ được phép vào Thái Lan làm việc. Ủy ban đầu tư chịu trách
nhiệm xem xét. Thái Lan cũng đã nhiều lần cải tiến thủ tục cấp giấy phép,
thủ tục triển khai dự án theo hướng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.
Qua tìm hiểu kinh nghiệm thu hút FDI của 3 nước trên chúng ta có thể
thấy rằng: 3 nước này đều tương đối thành công trong thu hút và sử dụng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thực
sự có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra những tiền đề những điều kiện,
cũng như quyết định bước đi của quá trình công nghiệp hóa của Singapo,
Trung Quốc và Thái Lan.
1.1.4.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình thu
hút và sử dụng FDI để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ thực tiễn hơn 20 năm hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng
như kinh nghiệm của một số nước trong khu vực có thể rút ra một số bài học
sau:
Thứ nhất: Lựa chọn lĩnh vực, hình thức và đối tác đầu tư
- Lĩnh vực đầu tư:
Có thể nói nhiệm vụ cơ bản của cônng nghiệp hóa là phải đẩy nhanh các
ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Nhờ đó công nghiệp hóa được ngành
nông nghiệp và các nghành kinh tế khác. Do vậy, việc khuyến khích thu hút
đầu tư FDI vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, nhất là các ngành công
nghiệp có tính chiến lược như điện tử, tin học, viễn thông… Sẽ có ý nghĩa
rất to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện chiến
lược “” đi tắt đón đầu” của nước ta.
Việc khuyến khích FDI vào những lĩnh vực đã nêu, một mặt không chỉ
đáp ứng được đièu kiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa
và hiện đại hóa nền kinh tế, mà còn khai thác được thế mạnh của các INCs.
Mặt khác, đây còn là các lĩnh vực có nhiều tiềm năng và sẽ trở thành lợi thế
so sánh của nước ta trong thu hút đầu tư FDI giữa các nước trong khu vực và
thế giới.
Khuyến khích FDI vào các nghành công nghiệp và dịch vụ là một giải
pháp thiết thực nhất đối với nươc ta đê thực hiện chiến lược “đi tắt đón đầu”.
Thực tế cho thấy, là một nước đi sau trong thực hiện công nghiệp hóa, so với
18
các nước trong khu vực chúng ta khó mà hiện đại hóa nên kinh tế mà không
dựa vào TNCs mạnh. Bởi vậy, bên cạnh khuyến khích FDI vào các ngành
kinhh kế, cần đặc biệt chú trọng FDI vài các nghành công nghiệp, dịch vụ có
hàm lượng khoa học và giá trị cao dễ thu hút TNCs mạnh.
- Hình thức đầu tư:
Từ kinh nghiệm một số nước cho thấy, hiệu quả của các hìh thức đầu tư
phụ thuộc rất nhièu vào khả năng tham giâ của các nhà đầu tư trong nước. Vì
vậy điều này gợi cho chúng ta một bài học là không nên quá chú trọng ưu
tiên khuyến khích FDI vào những hình thức trên khi các nhà đầu tư trong
nước kém năng lực đầu tư. Khi chọn lĩnh vực đầu tư cần phải tính đến đặc
điểm và hiệu quả của từng dự án. Những dự án nào không nhất thiêý phải
tham gia trực tiếp quản lý hoặc bên Việt Nam thiếu kinh nghiệm, năng lực
đầu tư thì mạnh dạn cho phép bên nước ngoài đầu tư theo yêu cầu của họ.
Một bài học khác cũng rất đáng chú ý là cần tôn trọng thật sự việc chọnn
các hình thức đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Tránh tình trạng về luật
pháp thì cho họ tự do lựa chọn nhưng trên thực tế(phê duyệt) lại không cấp
phép như ý của họ đầu tư vào các lĩnh vực mà các công ty nhà nước đang
hưởng ưu đãi độc quyền. Sự không minh bạch này sẽ làm tăng sự bất bình
đẳng giữa các nhà đầu tư và làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước
ngoài.
- Đối tác đầu tư
Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa và hiẹn đại hóa nền kinh tế trong
bối cảnh của nước ta hiện nay thì cần thiết phải chú trọng hướng vào các đối
tác có tiềm năng lớn như Nhật, Mỹ và Châu âu. Hướng vào các đối tác này
chúng ta không chỉ nhận được nhiều vốn mà còn nhận được chuyển giao
công nghệ nguồn, trong khi đó các đối tác đầu tư khác (ASEAN) chúng ta
thường phải nhận chuyển giao công nghệ ở tầm thấp hơn (phần lớn từ các
chi nhánh của TNCs đang hoạt động ở các nước đang phát triển).
Trong giai đoạn tới để thực hiện công nghiệp hóa khu vực công nghiệp
chế tạo và dịch vụ, trong đó nhất là hiện đại hóa một số ngành công nghiệp
mũi nhọn như đã nêu thì chúng ta không thể dựa và các TNCs mạnh từ các
nước công nghiệp phát triển. Đây là giải pháp rất quan trọng giúp chúng ta
tranh được nguy cơ tụt hậu. Do đó chúng ta cần thực sự coi trọng vai trò của
các nhà đầu tư này để có những chính sách và biện pháp thu hút họ một cách
thich đáng.
Thứ hai: Các chính sách và biện pháp thu hút FDI
- Các biện pháp thúc đẩy thu hút FDI
Qua thực tế của một số nước ( Trung Quốc, Singapore…) cho thấy các
chính sách khuyến khích đầu tư chỉ thực sự có hiệu quả nếu được đi liền với
các biện pháp thu hút FDI thích hợp trong đó nổi bật là các biện pháp xúc
19
tiến đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn lao động kỹ thuật. Từ
kinh nghiệm của họ, chúng ta có thể rút ra một số bài học quan trọng như:
+ Thứ nhất: Nên thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư một cách thường
xuyên, theo định hướng vào các đối tác có tiềm năng đầu tư lớn. Cần quan
niệm các hoạt động xúc tiến đầu tư là những công việc bắt buộc có tính
quyết định đến khối lượng và hiệu quả của việc thu hút FDI, cần đa dạng các
hoạt động đầu tư nhưng tránh tình trạng tràn lan.
+ Thứ 2: Cần chuẩn bị cơ sở hạ tầng tốt trước khi tiếp nhận FDI. Muốn
thu hút được các TNCs lớn có dự án đầu tư kỹ thuật cao thì chất lượng cơ sở
hạ tầng phải đáp ứng được yêu cầu của họ.
Ngoài ra còn một số bài học khác cũng rất đáng chú ý như: Cần thống
nhất nhận thức và có cách nhìn nhạy bén về kinh tếm chính trịm nắm bắt
thời cơ, thuận lợi thấy rõ được những khó khăn thách thức từ bên trong cũng
như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn, hợp
lý. Cơ chế, chính sách phải đồng bộ, thể hiện tính khuyến khích và cạnh
tranh cao so với các nước trong khu vực. Công tác chỉ đạo, điều hành phải
thông suốt, thống nhất, có nề nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tọa
niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư.
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Khái niệm công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng các lực
lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kih tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác địh ngày càng rõ quan
điểm đổi mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài học
của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên cứu học hỏi kiến thức và
kinh nghiệm của thế giới và hiện đại.
Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hóa, hiện
đại hóa không phân biệt là hai quá trình tuy có phần lồng vào nhau nhưng về
cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá trình thống nhất, có thể
tóm tắt là công nghiệp hóa theo hướng hiện đại
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại rút những kinh
nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hóa và thực tiễn công nghiệp
hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Hội nghị Trung ương 7 khóa VII của
Đảng ta (7-1994) chỉ rõ:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kih doanh, dịch vụ và quản lý kih tế, xã hội từ sử
20