Tải bản đầy đủ (.ppt) (19 trang)

ĐỀ TÀI TÌM HIỂU VỀ QUÁ TRÌNH TRÙNG TU CHÙA THIÊN MỤ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 19 trang )

Đ TÀI: TÌM HI U V QUÁ TRÌNH Ề Ể Ề
TRÙNG TU CHÙA THIÊN MỤ
I. GI I THI U V CHÙA THIÊN M :Ớ Ệ Ề Ụ
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa
nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn Sông Hương, ở Đường Nguyễn
Phúc Nguyên, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía
tây.
1. Lịch sử xây dựng:
Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời
chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng
Trong. Đây có thể nói là ngôi chùa cổ nhất của Huế
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ
xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem
xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp,
xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần
rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông
bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn
khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn
đồi này có tên là đồi Hà Khê.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp
được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào
năm1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông
Hương, đặt tên là "Thiên Mụ".
Nhưng phải đến năm 1601 với quyết định của chúa Nguyễn
Hoàng, chùa mới chính thức được xây dựng.
Theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong,
chùa được xây dựng lại quy mô hơn dưới thời chúa Nguyễn
Phúc Chu (1691-1725).
2. Mục đích xây dựng:
Vào tháng 6 năm Thân Sửu 1601 mấy tháng sau khi Nguyễn
Hoàng quyết định ở lại hẳn Thuận Hóa không về chầu vua Lê


chúa Trịnh như trước nữa. Giữa vùng đất mới, mối bận tâm hàng
đầu của Nguyễn Hoàng lo cố kết nhân tâm trước đã được các
quan một dạ, giờ phải làm sao để trăm họ đồng lòng, có dân là
có tất cả.
Truyền thuyết kể rằng, khi Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận
Hóa, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho
mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ
Nguyễn sau này. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn (núi
Thiên Mụ).
3. Kiến trúc xây dựng
Toàn bộ công trình kiến trúc của chùa đều nằm trên một
ngọn đồi hình chữ nhật chạy theo hướng Bắc Nam. Chùa
được bao bọc bởi khuôn tường thành xây bằng đá mang
hình dạng một con rùa đang uống nước.Sau cùng chùa là
vườn thông tĩnh mịch thoáng đãng.
Chùa Thiên Mụ được bao quanh bằng tường đá
xây hai vòng. Khuôn viên Chùa chia ra thành hai
khu vực. Phía trước Nghi Môn gồm các công
trình kiến trúc, có 24 bậc tam cấp lên xuống
Tam Quan và 4 trụ biểu xây sát đường cái,
từ đó có 15 bậc tam cấp dẫn đến Đình Hương
Nguyện. Lui xa hơn nữa vào trong có hai lầu
hình lục giác.
một để bia, một để chuông. Khu phía trong Nghi Môn gồm các điện
Đại Hùng, Địa Tạng, Quan Âm, nhà Trai, nhà Khách.
Qua khỏi sân trước là cổng tam quan chùa, trên có biển đề “ Thiên
Mụ Tự”. Có 3 cửa ra vào. Cả ba cửa đều có hộ pháp trấn giữ. Ngay
sau cổng tam quan là lầu tượng Thập Nhị Dược Xoa Đại Tướng

Đứng từ xa nhìn vào cũng như từ sông Hương nhìn lên, ngôi

chùa nổi bật với tháp Phước Duyên trông uy nghiêm. Vòng lượn
của dòng sông Hương vừa tăng vẻ huyền bí, vừa làm nổi nét nên
thơ của chùa. Bức tường bao bọc Chùa được xây theo hình con
rùa thò đầu xuống bến uống nước sông Hương.
Các công trình kiến trúc, hiện vật đặc trưng của Chùa Thiên Mụ:

Tháp Phước Duyên (năm 1844):
Bước lên chừng hơn chục bậc xây bằng gạch là
qua cổng chùa, với tháp Phước Duyên hình bát
giác cao 7 tầng (21m). Số 7 là con số linh của đạo
Phật. Trong tháp có hệ thống bậc thang xây cuốn
từ dưới lên trên, chỉ trừ giữa tầng thứ 6 và tầng
thứ 7 là phải dùng thang di động bằng gỗ và cửa
với chìa khoá đặc biệt, vì ở tầng trên cùng xưa kia
có thờ tượng Phật bằng vàng.

Nền đình Hương Nguyện (1844):
Đình Hương Nguyện:Bước lên 15 bậc cấp từ cổng tam quan ta
đến đình Hương Nguyện, mà ngày nay chỉ còn lại cái nền ở
trước tháp Phước Duyên. Đây là một công trình kiến trúc bằng
gỗ của vua Thiệu Trị (1841-1847). Đây là một ngôi nhà tứ giác
độc đáo của 150 năm trước. . Đứng giữa nhà nhìn lên, ta thấy
hình bát quái được cấu trúc khéo léo ở giữa mái có một số mái
có một số bài thơ chữ Hán được chạm mới.

Đại Hồng Chung (đúc năm 1710 của chúa Nguyễn Phúc Chu):
Chuông cao 2,5m, đường kính 1,4m, nặng 2,025kg,
là một tác phẩm nghệ thuật bằng đồng rất xuất sắc
của Việt Nam đầu thế kỷ XVIII. Mặt trên quả chuông
có 8 chữ “Thọ” khắc theo lối chữ triện, ở giữa thân

chuông chia làm 4 khoảng, khắc bài minh của chúa
Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi những hình ảnh long,
vân, nhật, tinh: ở phần dưới khắc hình bát quái và
Thủy ba.

Bia và rù a đá (năm 1715-chúa Nguy n Phúc Chu)ễ :
Đây là một tấm bia đá thanh khá lớn, cao 2,6m rộng
1,25m, dựng trênlưng một con rùa bằng đá cẩm thạch
dài 2,2m, rộng 1,6m đều được khắc chạm uyển chuyển,
tinh vi. Bộ tác phẩm bằng đá này mang giá trị cao và
nghệ thuật của thời các chúa Nguyễn.

Bia đ th c a vua Thi u Tr (1846) :ề ơ ủ ệ ị
Vua Thi u Tr cho xây tháp Ph c Duyên và ệ ị ướ
đình H ng Nguy n (đ nhà vua dâng h ng, ươ ệ ể ươ
c u nguy n), đ ng th i d ng hai t m bia ghi th văn ầ ệ ồ ờ ự ấ ơ
c a vua.ủ

Bia và ký c a Thành Thái(1899) :ủ

Bia c a vua Kh i Đ nh (1920) :ủ ả ị

C a Tam Quan:ử
công trình ki n trúc tr c chùa, dùng làm l iế ở ướ ố
vào, g m ba c a: c a gi a (chính môn), hai ồ ử ử ữ
c a bê n (t môn, h u mô n). Ph n trê n c a có ử ả ữ ầ ử
gác đ chuông, khánh và tr ng. ể ố

L u chuông (chuông đúc th i vua Gia Long) :ầ ờ


L u tr ng:ầ ố

T ng Kim C ng H Pháp:ượ ươ ộ

Đ i Hùng B o Đi n: Đi n l n nh t c a chùa, xây vào năm ạ ả ệ ệ ớ ấ ủ
1714. Đây là m t toà nhà trùng thi m đi p c g m chính ộ ề ệ ố ồ
đ ng có ba gian hai chái và ti n đ ng năm gian hai chái. ườ ề ườ
Trong chí nh đ ng ngoài các t ng Ph t và B Tát còn có b ườ ượ ậ ồ ộ
kinh t ng do chúa Nguy n Phúc Chu th nh t Trung Hoa vào ạ ễ ỉ ừ
th k 18. Ti n đ ng tôn trí t ng Ph t Di L c và chi c ế ỷ ề ườ ượ ậ ặ ế
khánh đ ng do cha con Jean de la Croix đúc vào năm 1674.ồ

Đ a T ng Đi n: ị ạ ệ

Quan Âm Đi n:ệ

Nhà tăng:
II. QUÁ TRÌNH TRÙNG TU:
T ngày xây d ng cho đ n nay ngôi chùa đã đ c trùng tu nhi u l n. ừ ự ế ượ ề ầ
- Năm 1601: chúa Nguy n Hoàng làm l i chùa Thiên M đ i Hà Khê và ễ ạ ỗ ở ồ
đ i tên là chùa Thiên M .ổ ụ
- Năm 1665: t c là g n 64 năm sau, chúa Nguy n Phúc T n cho tu s a l n ứ ầ ễ ầ ử ầ
đ u.ầ
Năm 1714: chúa Nguy n Phúc Chu đ ra r t nhi u công s c và tâm ễ ổ ấ ề ứ
huy t đ trùng ki n chùa Linh M r t nguy nga, tráng l . T đây, ế ể ế ụ ấ ệ ừ
chùa Linh M m i có m t quy mô hoàn ch nh. ụ ớ ộ ỉ
- Năm 1740: chúa Nguy n Phúc Khoát s a ch a, làm l i cho nguy nga h nễ ử ữ ạ ơ
- Năm 1775: chùa Thiên M b quân Tr nh tàn phá, đi li n theo cái "nghi p" ụ ị ị ề ệ
c a kinh thành Phú Xuân. T t c m i đi n đ i, l u các, đình t , nhà ủ ấ ả ọ ệ ạ ầ ạ
c a b t đ u đ nát, tàn t , h h ng. Tuy chùa ch a b hoàn toàn tri t ử ắ ầ ổ ạ ư ỏ ư ị ệ

h nh ng trông đã r t thê l ng.ạ ư ấ ươ
- Năm 1788: chùa đ c trùng tu tái thi t nhi u l n d i tri u các vuaượ ế ề ầ ướ ề nhà
Nguy nễ
- Năm 1816 : Gia Long lên ngôi, 14 năm sau m i s a ch a, làm l i chùa ớ ử ữ ạ
Thiên M theo trí nh c a Đ ng Đ c Siêu.ụ ớ ủ ặ ứ
đ i tr c.ạ ướ
- Năm 1844: vua Thi u Tr s a ch a l n chùa Thiên M , làm cho c nh ệ ị ử ữ ớ ụ ả
chùa r t khác v i qui mô cũ và đã c g ng t ng hòa các m u ki n ấ ớ ố ắ ổ ẫ ế
trúc th i đ i tr c.ờ ạ ướ
- Năm 1871 và năm 1879: vua T Đ c có hai l n s a sang l i, đ i Thiên ự ứ ầ ử ạ ổ
M thành Linh M .ụ ụ
- Năm 1899: vua Thành Thái cho tu b và d ng bia k ni m ổ ự ỷ ệ
- Năm 1907: cũng th i vua Thành Thái, chù a đ c s a và thay đ i ờ ượ ử ổ
nhi u. Đi n Di L c sau Đi n Đ i Hùng và hai dãy nhà Th p Đi n ề ệ ặ ệ ạ ậ ệ
Minh V ng hai bên t h u phía tr c b d b , Đình H ng ươ ả ữ ướ ị ỡ ỏ ươ
Nguy n phía tr c tháp Ph c Duyên l i d i vào phía trong, ệ ở ướ ướ ạ ờ
d ng l i trên n n Đi n Di L c cũ.ự ạ ề ệ ặ
- Năm 1908: th i vua Duy Tân, tháp Ph c Duyên bờ ướ ị
sét đánh, đ c s a l i.ượ ử ạ
- Năm 1919: th i vua Kh i Đ nh có d ng bia sau tháp ờ ả ị ự
Ph c Duyên; mang ch ng tích Kh i Đ nh có tu s a, ướ ứ ả ị ử
l i mang thêm d u n ngh thu t ki n trú c th i ạ ấ ấ ệ ậ ế ờ
Kh i Đ nh.ả ị
- Sau năm 1945: qua phong trào ch n h ng Ph t giá o, Hòa th ng ấ ư ậ ượ
Đôn H u cùng các v vao tăng đ ã cho b đi Đi n th Quan Công ậ ị ỏ ệ ờ
và s a l i thành Đi n Đ a T ng. ử ạ ệ ị ạ
- Năm 1957: trùng tu Đi n Đ i Hùng ngo i tr h th ng rui và đòn ệ ạ ạ ừ ệ ố
tay, còn t t c c t, kèo, băng, b … đ u xây b ng bê tông và ph ấ ả ộ ệ ề ằ ủ
bên ngoài m t l p s n giá g .ộ ớ ơ ỗ
- Năm 1958: chùa Linh M đ c đ i trùng tu do vi n B o t n di tích ụ ượ ạ ệ ả ồ

thu đó th c hi n. ở ự ệ
- Năm 1959: s a ch a tháp Ph c Duyên. Trong các l n s a ử ữ ướ ầ ử
ch a này, có r t nhi u d u tích cũ, nhi u chi ti t m thu t ữ ấ ề ấ ề ế ỹ ậ
t m đ u m t h t, ph n trang trí đ u r ng đ u b đ c b . ỉ ỉ ề ấ ế ầ ầ ồ ề ị ụ ỏ
Cũng trong l n trùng tu này, do thi u g , nhi u chi ti t ầ ế ỗ ề ế
công trình đ c thay b ng xi măng c t thép; thi u g ch ượ ằ ố ế ạ
Bát Tràng ng i ta đúc n n b ng xi măng…ườ ề ằ
NH N XÉT:Ậ
Các bia đá, chuông đ ng, tr ng và t ng đ u b vi t, v ồ ố ượ ề ị ế ẽ
ch ng ch t. Trên qu chuông chùa Thiên M n i ti ng ằ ị ả ụ ổ ế
(n ng g n 3 t n) v i tu i th đã hàng trăm năm là vô s ặ ầ ấ ớ ổ ọ ố
nh ng hình v lo n x , n m chung v i nh ng d u tích cũ ữ ẽ ạ ạ ằ ớ ữ ấ
là nh ng dòng ch m i đ y đ h tên đ c kh c v cách ữ ữ ớ ầ ủ ọ ượ ắ ẽ
đây không lâu.
Cùng v i vi c phát hi n ra các ô th đ c s p x p không đú ng v ớ ệ ệ ơ ượ ắ ế ị
trí
Mặt rồng tại tam quan chùa Linh Mụ
đã bị đục và trám trét lại sau khi làm
xuất lộ
Chùa Thiên Mụ là một công trình kiến trúc có qui mô lớn và xuất hiện
khá sớm trong quá trình hình thành phát triển của văn hoá Phú Xuân.
Cũng như phần lớn các công trình kiến trúc cổ khác, chùa Thiên Mụ từ
khi mới được xây cất trở về sau lần lượt đã được dựng nhiều tấm
bia,hoặc để ghi lại công việc tu tạo, hoặc đề thơ vịnh cảnh, hoặc ghi
cảmtưởng trong những lần vãn cảnh chùa của một số vua chúa nhà
Nguyễn.
Qua đó ta thấy lần trùng tu lớn nhất tạo cho chùa Thiên Mụ có một qui
mô lớn, ấy là năm Giáp Ngọ (1714) dưới thời Nguyễn Phúc Chu. Từ
thời các chúa Nguyễn qua các vua nhà Nguyễn đều có xây dựng tu tạo
chùa Thiên Mụ, hoặc xây cất thêm, hoặc sửa sang dọn dẹp lại. Điều

đó chứng tỏ nhà Nguyễn có quan tâm đến đạo Phật, nhưng việc xây
dựng trùng tu chùa chiền của họ không còn mang tinh thần “kính Phật
trọng tăng” như các triều đại Lý, Trần nữa mà đó chỉ là một phương
thức củng cố chế độ hơn là tôn sùng tín ngưỡng.
III. KẾT LUẬN:
chùa Thiên Mụ xưa chùa Thiên Mụ nay
CÁM ƠN THẦY VÀ CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE

×