Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

soạn bài CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.2 KB, 8 trang )

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ, nhìn từ tình huống truyện - TS. Chu Văn Sơn (phần thực
hành chuyên đề truyện ngắn)
Published on 03/14,2011
Phần minh hoạ (Dưới đây là sự phân tích một vài truyện ngắn cụ thể, và cũng chỉ
phân tích tình huống của chúng mà thôi)
I) Phân tích tình huống truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (kiểu tình huống
hành động - nhân vật hành động - truyện ngắn giàu kịch tính)
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ, nhìn từ tình huống truyện
1) Xác định tình huống truyện
Câu hỏi : Toàn bộ truyện ngắn này xoay quanh sự kiện chính nào ? Hay Sự kiện
nào đóng vai trò chi phối toàn bộ thiên truyện này ? Sau khi lướt qua các tình tiết
chính ( Huấn Cao rỗ gông, Huấn Cao nhận cơm rượu, Huấn Cao xúc phạm Quản
Ngục, Huấn Cao ân hận, Huấn Cao cho chữ…) ta thấy không phải một trong
những tình tiết ấy đóng vai trò chi phối. Trái lại, chúng chỉ là những tình tiết họp
lại để làm thành một sự kiện lớn hơn, và trong đó mới chứa cái "tình thế nảy ra
truyện". Sự kiện lớn ấy là : cuộc gặp gỡ oái oăm giữa Huấn Cao và Quản ngục.
2. Phân tích tình huống.
a. Diện mạo của tình huống. Nó oái oăm ít nhất vì ba lí do sau :
a.1. Không gian và thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ. Không gian là nhà tù. Đây không
phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ. Người ta vẫn nói : có hai nơi mà con
người không nên gặp nhau là nhà tù và bệnh viện. Vì thế nhà tù chỉ là nơi gặp gỡ
ngoài ý muốn, trái khoáy, bất đắc dĩ. Thời gian là những ngày cuối cùng trước khi
ra pháp trường của Huấn Cao. Không gian và thời gian như thế đã góp phần tạo
nên kịch tính cho tình huống. :
a.2. Sự éo le trong thân phận hai nhân vật. Trước hết, xét ở bình diện xã hội, họ là
hai kẻ đối địch : Huấn Cao là "giặc" của triều đình - Quản ngục lại là quan của
triều đình. Nói một cách khác : Một người dám cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại
triều đình mục nát - Một người lại là viên quan đại diện cho bộ máy cai trị của
chính triều đình much nát ấy. Sau nữa, xét ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ,
trên cả hai chiều của quan hệ. Chiều đã hiện hình : Huấn Cao có tài hoa và khí
phách còn Quản ngục lại ngưỡng mộ khí phách và tài hoa. Chiều tiềm năng : Huấn


Cao chỉ cúi đầu trước Thiên lương cao khiết của con người, trong khi đó Quản
ngục lại là "một tấm lòng trong thiên hạ". Người nào cũng có những phẩm chất cao
quí mà người kia khát khao ngưỡng mộ. Sự éo le càng tăng gấp bội, bởi vì, về hành
động, Quản ngục bị đẩy đến trước một lựa chọn nghiệt ngã đầy tính xung đột. Ông
ta chỉ được chọn một trong hai cách hành động, mà không thể dung hoà cả hai :
Một là, muốn tròn chức phận quan lại thì chà đạp lên lòng tri kỉ. Nếu hành động
theo hướng này, QN là kẻ tầm thường. Vì ông ta không dám thuỷ chung với những
gì mình cho là cao quí, sẵn sàng phản bội lại những gì mình tôn thờ. Và câu
chuyện sẽ là khúc bi ca hoặc trang phẫn nộ về thực tại chỉ có chỗ cho sự tầm
thường. Thực tại này chỉ có sự tầm thường ngự trị. Hai là, nếu trọn đạo tri kỉ thì
phải phớt lờ chức phận quan lại. Hành động theo hướng này, QN là người cao quí.
Vì thuỷ chung với những giá trị cao quí mình tôn thờ, ông ta đã dám bất chấp sự
thiệt thòi về quyền lợi lẫn sự an nguy đến tính mệnh. Và câu chuyện sẽ là khúc ca
ca ngợi chiến thắng của cái đẹp. Từ tình huống như vậy, có thể đặt thêm cho truyện
ngắn này một phụ đề nữa : Số phận của cái đẹp.
a.3. Cuộc đối mặt ngang trái. Nhìn phía này, đó là cuộc giáp mặt giữa hai loại tù
nhân. Huấn Cao là tử tù, theo nghĩa đen. Còn Quản ngục là kẻ bị tù chung thân,
không hoàn toàn theo nghĩa bóng. Trước đến giờ, bề ngoài QN vẫn là một viên
quan của cái triều đình thối nát, nhưng bên trong lại tôn thờ những giá trị cao quí
tương phản với triều đình ấy (thuộc về những người chống đối triều đình). Con
người chức phận trói buộc cầm tù con người khát vọng. QN vẫn sống theo lối
"xanh vỏ đỏ lòng". Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân đã chọn một so sánh rất
đẹp để viết về QN :"Giữa cái chốn người ta sống bằng lừa lọc phản trắc, thì tấm
lòng biết giá người của viên quan cai tù là một thanh âm trong trẻo lạc vào giữa
một bản nhạc mà nhạc luật đã trở nên hỗn loạn xô bồ". Ông ta bị cầm tù chính
trong môi trường sống của mình. Nếu không gặp Huấn Cao chẳng phải ông ta cứ bị
cầm tù thế đến chung thân sao ? Nói cách khác : người này bị cầm tù về nhân thân
nhưng luôn tự do về nhân cách, còn người kia tự do về nhân thân nhưng lại bị cầm
tù về nhân cách. Nhìn phía kia, đó là cuộc đối chứng giữa hai thứ nhà tù. Huấn Cao
bị cầm tù trong cái nhà tù hữu hình. Còn Quản ngục bị cầm tù trong cái nhà tù vô

hình. Điều này cũng dẫn đến một kết cục không kém phần oái oăm : thoát khỏi cái
nhà tù hữu hình đã khó, nhưng thoát khỏi cái nhà tù vô hình còn khó hơn ; QN
không cứu được HC và cũng không tự cứu được mình, còn HC chẳng những không
cần giải cứu, mà trước khi ra pháp trường lại còn cứu được QN.
Vẻ độc đáo mà truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân có được chẳng phải
chủ yếu do tình huống đặc sắc này đem lại hay sao ? Và chính nó sẽ chi phối
những thành tố khác tạo nên chỉnh thể tác phẩm.
b. Diễn biến của tình huống. Nhìn chung, diễn biến là : cuộc kì ngộ thành cuộc
hạnh ngộ. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển biến trong quan hệ giữa HC và QN : quan
hệ có phần đối địch nhường chỗ cho quan hệ tri kỉ hoàn toàn. Nhìn trong mạch
truyện thì diễn biến này gắn liền với hai phiến trát mà QN phải tiếp nhận. Trước
tiên là chuyển biến trong thái độ, về sau là trong hành động.
Ban đầu. QN vẫn có một tấm lòng, nhưng HC chưa biết. Tấm lòng ấy chính là
"biệt nhỡn liên tài", nó bộc lộ chủ yếu ở tâm nguyện lớn này : vừa nương nhẹ và
biệt đãi, vừa muốn xin chữ HC. Nhưng sở nguyện ấy, xem ra khó đạt được, vì HC
tuy có tài viết chữ, song lại khoảnh, nghĩa là rất khí khái. Ông chỉ cho chữ người
nào là tri kỉ. Nên, người muốn có chữ HC, trước hết phải bước qua một khó khăn
là phải được HC "kết nạp" vào số tri kỉ hiếm hoi của ông đã rồi hãy nghĩ đến việc
xin chữ. Trong khi đó, thái độ của HC dành cho QN là khinh bỉ không cần giấu
diếm, vì bấy giờ ông mới chỉ coi QN là một kẻ tiểu nhân làm nghề thất đức. Một
người như thế làm sao có thể thành tri kỉ của HC ? Thái độ đối địch của HC đã tạo
ra một vực sâu ngăn cách giữa họ.
Về sau. Quan hệ đã hoàn toàn biến đổi. Nhận được phiến trát thứ hai, QN đã
choáng váng : thế là con người cao quí mà ông cảm phục ngưỡng mộ đã không
thoát khỏi được cái chết, và thế là ông sẽ chẳng bao giờ có được chữ của HC nữa
rồi. Tình thế ấy buộc QN phải hành động gấp. Ông cần bày tỏ con người thật của
mình cho HC hiểu. Bằng cách nào ? Thông qua viên Thơ lại. Việc này cho thấy
tâm nguyện lớn đã khiến QN bất chấp mối nghi ngại vây khốn bao năm, không còn
nghĩ đến cảnh giác, giữ thân như trước đó nữa. Thế là thoạt tiên tấm lòng QN đã
chinh phục được khoảng cách với viên TL. Rồi, sau khi nghe TL kể tường tận, HC

đã vô cùng cảm động và ân hận. "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các
người. Ta biết đâu một người như thầy Quản đây lại có được một sở thích cao quí
đến thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ"- Đúng là sự ân
hận của HC- nghĩa là rất chân thành nhưng cũng rất kiêu sang. Có thể nói, kể từ
câu nói ấy, QN đã trở thành tri kỉ trong lòng HC. Tấm lòng thuần khiết của QN đã
xoá bỏ hoàn toàn vực sâu ngăn cách giữa hai nhân cách ấy. Thế là quan hệ có phần
đối địch đã nhường chỗ cho một quan hệ tri kỉ hoàn toàn. QN cúi đầu trước HC,
mà HC cũng cúi đầu trước QN. Cả hai đều cúi đầu trước những vẻ đẹp cao quí mà
mình tôn thờ. Cả hai đều đang cúi đầu trước hoa mai của mình.
Nhưng dầu sao đó mới chỉ ở trong thái độ. Sự đổi thay thực sự trong quan hệ phải
được biểu hiện quyết định bằng hành động. Và HC thuận cho chữ. Việc này cho ta
thấy một diễn biến rất tinh vi và rất cao đẹp trong cơ chế tinh thần và tâm lí sáng
tạo nghệ thuật. Từ xúc động lớn, HC đã cho chữ. Nghĩa là cái Tâm xúc động đã
khiến HC mang cái Tài ra để thực hiện. Trong sự xúc động chân thành và mãnh liệt
kia thấy có cả hai bình diện : Vừa là mối xúc động đạo đức của con người tri kỉ HC
trước những nghĩa cử mà QN dành riêng cho mình, nó khiến ông phải cầm lấy bút
để viết như một hành vi đáp nghĩa. Vừa là mối xúc động thẩm mĩ của con người
nghệ sĩ HC bởi bất ngờ đối diện với cái đẹp mà mình suốt đời tôn thờ, nó khiến
ông phải cầm lấy bút để viết như một hành vi sáng tạo. Tức là, trong hưng phấn
sáng tạo ấy, cái Tâm và cái Tài đang chuyển hoá sang nhau để sinh thành cái Đẹp.
Thiếu một trong hai phía đó thì không thể có được cảnh cho chữ này. Và, nhìn kĩ,
cái đẹp nghệ thuật (của những bức thư pháp đó) có ngọn nguồn từ cái đẹp của tình
người.
Cuối cùng. Cảnh cho chữ là tình tiết sau chót hoàn tất cuộc gặp gỡ oái oăm này.
Đến đây mọi khía cạnh mới bộc lộ trọn vẹn. Nguyễn Tuân gọi đó là "cảnh tượng
xưa nay chưa từng có". Lí do trước hết có lẽ thuộc về không gian và thời gian diễn
ra cảnh cho chữ. Cho chữ vốn là cử chỉ văn hoá của những tao nhân mặc khách nên
thường diễn ra ở những địa chỉ văn hoá, chẳng hạn thư phòng, văn phòng, trà thất,
xưởng họa… Còn ở đây nó lại diễn ra giữa nhà tù. Nghĩa là nơi ngự trị của Bóng
Tối và Cái Ác. Nơi thù địch với Cái Đẹp. Thế mà Cái Đẹp lại chọn đúng chỗ thù

địch với Cái Đẹp để diễn ra, để chào đời. Khía cạnh bất thường này đã phần nào
chứa đựng một tinh thần nổi loạn. Về thời gian, cho chữ vốn là việc đường đường
chính chính bạch nhật thanh thiên, ở đây lại diễn ra vào canh khuya. Canh khuya
đã đem lại cho cảnh tượng một không khí bí mật và thiêng liêng. Đồng thời, đó lại
cũng là những giờ khắc cuối cùng của HC. Lẽ thường, ở vào thời điểm ấy, một
người sắp lìa đời phải lo làm chúc thư, nói lời trăng trối với thân nhân. Thế mà HC
lại dành những giây phút hiếm hoi cuối cùng ấy vào việc cho chữ, việc sáng tạo
những bức thư pháp. Bởi vậy, chẳng phải những bức thư pháp kia cũng chính là
những con chữ thiêng, những di huấn, di chúc đặc biệt của một nhân cách cao đẹp
gửi lại cuộc đời này hay sao ? Tuy nhiên, điều quyết định nhất khiến nó được xem
là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" hẳn phải là một sự đảo lộn ghê gớm trong vị
thế các nhân vật ở đây. Có thể thấy ít nhất ba khía cạnh sau. Về quyền uy : kẻ có
quyền hành thì không có quyền uy (QN), uy quyền lại thuộc về người đã bị tước đi
mọi thứ quyền, kể cả cái quyền tối thiểu là quyền sống (HC). Về thái độ : kẻ không
việc gì phải sợ thì "khúm núm sợ sệt" (QN), người đáng ra phải sợ thì lại "đường
bệ ung dung "(thói thường, HC phải sợ quan trước mặt, sợ cái chết ngay sau lưng
chứ !). Về chức phận : Cai tù không giáo dục tội phạm, trái lại tội phạm lại đang
giáo dục cai tù, trong khi đó cai tù lại đang lắng nghe một cách thành tâm, thành
kính như nhận những lời chỉ giáo thiêng liêng của một bậc thầy về nhân cách. Đến
đây, một câu hỏi đặt ra là : ai đã tạo nên sự đảo lộn này ? HC chăng ? Không phải.
QN chăng ? Càng không phải. Một cái gì đó còn lớn hơn những con người kia. Và
câu trả lời là : Cái Đẹp. Họ đang sống theo tiếng gọi của Cái Đẹp. Họ đang đem
những gì đẹp đẽ nhất cao cả, cao quí nhất để dành cho nhau. Họ không sống theo
vị thế và chức phận mà thể chế kia định đoạt. Không còn ngục quan. Không còn tội
phạm. Chỉ còn những người bạn những tri kỉ tri âm đang qui tụ quây quần xung
quanh cái đẹp của tình người và nghệ thuật. Cái đẹp đã phế bỏ cái trật tự mà xã hội
sắp đặt ở chốn nhà tù để thiết lập một trật tự khác. Trật tự phận vị đã được thay thế
bằng trật tự nhân văn. Cảnh cho chữ thực là cảnh tượng đăng quang của Cái Đẹp.
Có thể nói đó là cuộc nổi loạn của Cái Đẹp trong thế giới nhà tù. Thì ra không chỉ
có quyền lực của Cái Chết, quyền lực của Cái Gông mà còn có quyền lực của Cái

Đẹp. Cái đẹp vẫn có uy quyền riêng của nó. Gọi Cái Đẹp Nguyễn Tuân là Cái Đẹp
Nổi Loạn chính là như thế.
Rõ ràng. Cuộc kì ngộ đã hoàn toàn thành cuộc hạnh ngộ. QN thì bày tỏ được niềm
ngưỡng mộ và có được chữ của HC, đồng thời có được lối để vượt thoát ra khỏi
tình trạng cầm tù chung thân của mình. Còn Huấn Cao, vào giờ phút chót của đời
mình, lại bất ngờ được thấy một đoá hoa mai giữa thế giới ô trọc, lại được số phận
ban tặng một tri kỉ nữa. "Sống trong đời, có được một tri kỉ, chết cũng thoả lòng",
chẳng phải đó là niềm hạnh phúc vô song mà người xưa coi là điều lí tưởng đó ư ?
3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng
a. Tình huống ấy chứa đựng một quan niệm sâu sắc : Cái đẹp là bất diệt. Dù thực
tại có hắc ám đến đâu cũng không tiêu diệt được cái đẹp. Nó mãi mãi là một lí
tưởng nhân văn cao cả của cõi người này.
b. Tình huống như thế cũng chứa đựng một niềm tin mãnh liệt, rằng : Cái đẹp sẽ
thanh lọc cuộc đời này. "Cái đẹp sẽ cứu vớt nhân loại"- đó là tư tưởng của
Đôtxtôiepxki, người có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của người nghệ sĩ lãng mạn
Nguyễn Tuân.

×