H Xuân H ng nhà th c a ph n .ồ ươ ơ ủ ụ ữ
7 Tháng 5 2013
Trong văn học Việt nam nửa cuối thế kỷ XVIII – lửa đầu thế kỷ XIX, Hồ
Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là
tiếng nói tâm tình của người phụ nữ
Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là
người phụ nữ bình thường, ngưởi phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh
trong cuộc sống, Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là
nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn
tiếng nói của những người phụ nữ ấy, những tiếng than và những tiếng
thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm biếm sâu cay.
Ai cũng biết cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phận riêng dành cho phụ
nữ, Nhưng cái đau khổ của phụ nữ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái
tê riêng của nó, Phụ nữ cũng là người làm lụng đầu tắt mặt tối, cũng đói
cơm rách áo, cũng bị trăm nghìn thứ chà đạp như bất cử một người bị áp
bức nào khác, Nhưng xã hội phong kiến còn dành cho họ nhiều sự bạc đãi:
các qui chế nặng nề của đạo đức, của lễgiáo, của tập tục xã hội… mà cái
đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt đau đớn hơn nhiều lần cái đau
khổ về thể chất!
Hồ Xuân Hương là nhà thơ phụ nữ, và nhà thơ của phụ nữ, bằng
kinh nghiệm của cuộc đời chung, và,kinh nghiệm của cuộc đời riêng chẳng
ra gì của mình, nhà thơ đứng về phía những người phụ nữ bị áp bức.
Trong thơ mình, Xuân Hương không nói đến toàn bộ nổi khổ của phụ nữ.
Xuân Hương hình như chỉ muốn nói đến nỗi đau khổ riêng có tính chất giới
tính của mình, Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường xoáy sâu vào các
ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch không kém phần
chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống vốn dĩ đã
rập khuôn theo những chế ước nặng nề của lễ giáo, Hồ Xuân Hương viết
về nỗi khổ của người phụ nữ ”lấy chồng chung” hay nỗi khổ của người phụ
nữ ”không chồng mà chửa” v.v…
Trong bài Cảnh chồng chung, nhà thơ vạch ra làm lẽ chẳng qua chỉ là một
thứ làm mướn, thậm chí còn tệ hơn làm mướn nữa: đó là thứ làm mướn
không công, Hồ Xuân Hương nêu lên được một nét điển hình nổi bật của
chế độ hôn nhân phong kiến. Xã hội phong kiến bắt người phụ nữ phải
chính chuyên một chồng trong khi cho phép đàn ông có quyền năm thê bảy
thiếp. Trừ trường hợp cá biệt, lấy vợ lẽ vì người vợ cả không có con trai
”nối dõi tông đường”, thông thường trong xã hội phong kiến lấy lẽ là để
thỏa mãn cuộc sống dâm dật của bọn địa chủ, đồng thời để có thêm sức
lao động. Đó là cách thuê nhân công mà không phải trả tiền công, ý nghĩa
phê phán sâu sắc trong bài thơ của Hồ Xuân Hương là ở đó. Và ý nghĩa ấy
được nhân lên rất nhiều, do chỗ người phụ nữ của Xuân Hương cố hết
sức để chịu đựng.
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần cỏ cũng không,
Cố đấm ăn xôi ,xôi lại hẩm,
cầm bằng làm mướn, mướn không công!
và đã không chịu đựng nổi, đã thét lên:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Hồ Xuân Hương nhận thức được cảnh bất công, ngang trái của việc lấy
chồng chung, nhà thơ lên tiếng chửi mắng quyết liệt, nhưng điều kiện xã
hội phong kiến vẫn cứ cho phép nó nghiễm nhiên tồn tại. Lịch sử hạn chế
nhà thơ, Xuân Hương không tìm được lối thoát. Bài thơ kết thúc không mở
ra bước ngoặt nào cả, mà đóng lại bằng một tiếng thở dài bất lực:
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong !
Nhà thơ không thể vuợt lên trên hoàn cảnh xã hội. Bất mãn với thực tại,
Xuân Hương nghĩ giá gì ngày trước, dừng đi lấy chồng! Đó là một cách nói
chứ không phải một giải pháp, và tiếng thở dài của Xuân Hương chỉ làm
đậm thêm cái mỉa mai của thực tại.
Đặc điểm của thơ Xuân Hương là không bao giở dửng dưng, lạnh nhạt.
Nhà thơ luôn luôn có một trái tim cháy bỏng, nói đến cái gì là nói đến với
tất cả sự xúc động chân thành của mình, Khi giận dữ thì thét lên, mắng
chửi; khi yêu thương thì đằm thắm, ngọt ngào. Nếu bài Cảnh chồng chung
là tiếng nói phẫn uất chua xót đối với chế độ đa thê bất công mà người phụ
nữ phải chịu đựng, thì bài Không chồng mà chửa lại là một bời nói rất mực
khoan dung, độ lượng đối với cảnh ngộ không may của họ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tai họa tầy
đình, Thời Hổ Xuân Hương sống và sáng tác, bộ luật Gia Long ghi rõ:
”Nam nữ đã đính hôn với nhau, nhưng chưa cưới mà dã thông gian thì
phải phạt một trăm trượng”. Và chú thêm: ”người đàn bà phạm tội gian
dâm thì hết cả liêm sỉ, nên bắt cởi áo cánh, cho để mặc váy mà gia hình;
còn tội khác, khi phạt cũng được mặc cả áo”.
Đấy là ”tội” của những người có đính hôn, nhưng chưa cưới xin đã ăn
nằm với nhau.Chứ những người không có đính hôn, những phụ nữ ”không
chồng mà chửa” thì ”tội” không thể hình dung được. Giai cấp phong kiến
thống trị lấy việc lăng nhục nhân cách con người để trả thù cho cái mà
chúng gọi ”phá hoại nhận cách”, là ”hết cả liêm sỉ”, Thật không có sự lệ
thuộc nào bằng sự lệ thuộc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Pháp luật, lễ giáo, tập tục, những tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức
đã hoàn toàn biến phụ nữ thành một thứ sở hữu của người gia trưởng, của
đàn ông. Họ biết tước hết mọi quyền lợi, kể cả quyền được yêu, và quyền
đối với con cái của họ.
Trong hoàn cảnh như vậy, quan hệ vợ chồng chưa chắc đã là quan hệ yêu
đương, và việc ”không chồng mà chửa” chưa hẳn là chuyện bừa bãi, trong
bộc trên dâu, mà nhiều khi lại là kết qua của một tình yêu thật sự. Người
phụ nữ ”không chồng mà chửa” trong bài thơ của Xuân Hương là trường
hợp ấy, Nàng nói với người tình của mình nửa như trách móc, nửa như
tâm sự:
Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng !
không coi việc làm của nàng là tội lỗi. Đó chỉ là chuyện ”cả nể” đối với
người tình, và vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy. Lễ giáo, luật pháp
phong kiến khắc nghiệt làm cho người tình không dám nhìn nhận kết quả
tình yêu của chàng. Chỗ nhút nhát ấy của bạn tình, nguời phụ nữ của
Xuân Hương cũng rất độ lượng:
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng !
nàng chỉ yêu cầu một điều là phải nhìn nhận sự việc cho đúng đắn. Đây là
chuyện tình, chuyện nghĩa chứ không phải chuyện bướm ong trong chốc
lát: ”Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa”. Còn kết quả của nó, bạn tình
không dám nhận, nàng xin đảm đương tất cả:
”Mảnh tình một khối thiếp xin mang”,
Cuối cùng nguời phụ nữ của Xuân Hương thấy không thể sống khuất phục
được, nàng đã ngẩng cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, bằng
những lời lẽ hùng hồn, đanh thép:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
không có, nhưng mà có, mới ngoan,
Thái độ của, Xuân Hương bắt gặp thái độ của quần chúng nhân dân trong
ca dao:
Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chăng mà chửa thế gian sự thường,
Cố nhiên, quần chúng nhân dân cũng như Hồ Xuân Huơng không phải
bênh vực cho quan hệ bừa bãi giữa nam nữ, mà ở đây là cách nói ”ăn
miếng trả mếng” có tính cách đốp chát trong lối đối thoại của nhân dân với
giai cấp phong kiến thống trị.
Xuân Hương là nhà thơ yêu con nguời, yêu cuộc uống, Tình cảm
chân thành làm cho thơ Xuân Hương dường như lúc nào cũng che dấu
bên trong một nụ cười. Đối với Xuân Hương, nụ cười có ý nghĩa nhiều hơn
nhũng giọt nước mắt. Tất nhiên nói thế chẳng phải nước mắt không có ý
nghĩa. Nhất là đối với những giọt nước mắt hết sức chân thành và thông
cảm như của một Nguyễn Du chẳng hạn, thì đó vẫn là niềm an ủi lớn đối
với con người, đó vẫn là một bằng chứng rằng con người không phải tất cả
là láng sói, mà còn có những tấm lòng. Song dù sao cũng phải nhận rằng,
cuộc sống cũ nước mắt đã đọng lại thành sông, thành biển, khóc thêm vài
giọt nữa phỏng có ích gì? Xuân Hương không muốn khóc, Xuân Hương
không muốn phủ một màu đen lên cuộc đời vốn đã đen ngòm của những
con người đau khổ, mà muốn đem đến cho họ một nụ cười, giúp họ có
nghị lực để sống và chống chọi với cuộc sống. Nhà thơ sẽ bảo một bà lang
khóc chồng:
Văng vẳng tai ghe tiếng khóc gì,
Thương chồng nên nỗi khóc tì ti,
sẽ bảo một cô gái chồng chết:
Nín đi kẻo thẹn với non sông,
Ai về nhắn nhủ đàn em bé…
Sẽ đem đến chút ánh sáng của lòng tin vào một lẽ phải công bằng và nhân
đạo hơn để cho những cô gái không chồng mà chửa có thể tiếp tục sống,
làm mẹ và làm người:
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!
Nhưng đối với phụ nữ, Xuân Hương không phải chỉ có thông cảm và bênh
vực. Đặc biệt hơn nữa là nhà thơ còn hết sức đề cao và ca ngợi họ. Xuân
Hương tìm thấy vẻ đẹp thật sự chân chính của họ.
Trong một loạt hình tượng nói về số phận bấp bênh hẩm hiu của người
phụ nữ như chiếc bánh trôi ” bảy nổi ba chìm với nước non”; con ốc nhồi
”đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”, hay quả mít ”da nó sù sì” v.v… nhà thơ chú
trọng nêu bật cái đẹp bên trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít da sù sì,
nhưng ”múi nó dày”, Chiếc bánh trôi bảy nổi ba chìm và ”rắn nát mặc dầu
tay kẻ nặn”, nhưng ”vẫn giữ tấm lòng son”…
Trong bài thơ Đề tranh tố nữ, Xuân Hương ca ngợi người phụ nữ ,ở một
khía cạnh khác: ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong của các cô gái đang
xoan:
Chị cũng xinh mà em cũng xinh,
Đôi lứa như in tờ giấy trắng, ,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh,,,
Và trong bài Thiếu nữ, ngòi bút của nhà thơ lại đi vào một lĩnh vực hoàn
toàn mới mẻ về cái đẹp của họ: cái đẹp trong cơ thể. Bài thơ là một bức
tranh khỏa thân truyền thần sinh động:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, ,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc,nồng,
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long,
Đôi gò bồng đảo hương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông,
Quân tử dùng dằng đi chẳng đứt,
Đi thì cũng dở ở không xong,
Không phải bằng đường loét và màu sắc, mà bằng một thứ ngôn ngữ trang
trọng, bức tranh khỏa thân của Xuân Hương mới sinh động biết bao!
Có người cho đây là một cách nhảm nhí của nhà thơ, một thứ ”dâm hay
tục”, Nhưng bài thơ có gì là nhảm nhí, có gì là dâm, là tục? Ở đây người
đọc chỉ thấy một thân hình cân đối mĩ lệ của người thiếu nữ, một quang
cảnh nên thơ với những bồng đảo, đào nguyên…
Bức tranh không hề khiêu gợi một sự thèm khát nào của dục
vọng thấp hèn, mà chỉ đem đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ
thanh cao.
Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại nói chung
2.1. Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học
“Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng
nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình,
nhận thức trực tiếp bằng cảm tính”[8,tr. 334]
Hình tượng văn học trong các tác phẩm luôn là phương tiện hình thức để
nhà văn bộc lộ giá trị tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình . Mỗi
nhà văn khi cầm bút phải không ngừng sáng tạo tìm tòi để xây dựng hình
tượng nhân vật tiêu biểu đặc sắc. Không phải tác phẩm văn học nào cũng
có hình tượng văn học. Không phải nhân vật nào trong tác phẩm văn học
đều trở thành hình tượng nhân vật văn học. Để trở thành hình tượng văn
học điều kiện tiên quyết là phải có tính điển hình. Trong văn học, hình
tượng nhân vật phải là: nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
Nghĩa là nhân vật văn học ấy phải có sức tập trung khái quát cao. Nhân vật
ấy phải có những nét chung nhất của tầng lớp, giai cấp mà mình đại
diện. Và bối cảnh xã hội mà nhân vật ấy xuất hiện phải là bối cảnh điển
hình của một vùng, một nơi vào một thời điểm lịch sử nhất định.
Như vậy: hình tượng nhân vật trong văn học là nhân vật điển hình trong
tác phẩm văn học, mang đậm nét khái quát của tầng lớp, giai cấp của nhân
vật ấy, đồng thời là nhân vật có những nét riêng đặc biệt, xuất hiện trong
bối cảnh điển hình mà tác phẩm văn học ấy thể hiện.
2.2. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
Trong giai đoạn nữa cuối thế kỉ XVIII - nữa đầu thế kỉ XIX, ở nước
ta do điều kiện xã hội đặc biệt của nó mà trong văn học dân tộc ta hình
thành một trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Trong trào lưu văn học này, lần
đầu tiên hình ảnh người phụ nữ được đề cập đến một cách phổ biến trong
nhiều tác phẩm của nhiều tác giả: Đặng Trần Côn có người chinh phụ
trong Chinh phụ ngâm; Nguyễn Gia Thiều có người cung nữ trong Cung
oán ngâm khúc; Nguyễn Du có Thúy Kiều trong Truyện Kiều; trong những
truyện Nôm của những nhà thơ khác như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang…
cũng có những cô gái như Dao Tiên, Quỳnh Thư…Nói chung văn học trong
thời kì phong kiến ở một đất nước chịu sự chi phối nặng nề của Tống Nho
mà lại viết về phụ nữ trẻ đẹp, Xao xuyến…Nhưng điểm lại những nhân vật
phụ nữ trong giai đoạn này, hầu như tất cả đều xuất thân từ tầng lớp quý
phái, ngay cả Thúy Kiều của Nguyễn Du cũng được nhà thơ giới thiệu là:
“Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”(truyện Kiều).
Cùng trong dòng chảy quan niệm Việt Nam, người phụ nữ đẹp trong văn
học trung đại cũng hiện diện trong một vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn
bên ngoài. Đó là một sự kết hợp hài hoà giữa sắc – tài – tâm, giữa nhan
sắc và đức hạnh với “tam tòng, tứ đức”. Như vậy, ngay trong cái nền
chung trong quan niệm về người phụ nữ đẹp của người Việt đã có một sự
“dị biệt” qua từng thời kì văn học. Đó là vì quan niệm thẩm mỹ vốn là một
phạm trù “phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ” (Chủ nghĩa Mác – Lênin). Cho
nên, mỗi một thời đại, tuỳ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà có những quan
niệm khác nhau. Thời trung đại, với sự tiếp biến văn hoá đặc biệt là văn
hoá Trung Hoa, tư tưởng của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo đã chi
phối đến quan niệm thẩm mỹ của thời đại. Người phụ nữ có đức hạnh theo
quan niệm của Nho gia (lễ giáo phong kiến) là người phải hội tụ đủ “tam
tòng, tứ đức” (Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; và công,
dung, ngôn hạnh).
Tuỳ theo cái nhìn chủ quan của tác giả mà vẻ đẹp mỗi nhân vật nữ lại
được biểu hiện không giống nhau. Đó là nàng Kiều (Truyện Kiều), người
được xem là người đàn bà xinh đẹp nhất trong văn học Việt Nam. Nếu đặt
Kiều vào trong lễ giáo phong kiến thì Kiều không phải là người phụ nữ đức
hạnh, nhưng không vì thế mà dân tộc ta phủ nhận vẻ đẹp của Kiều từ
ngoại hình đến tài năng, tâm hồn, tính cách. Như vậy, Kiều đẹp còn bởi
tấm lòng nhân hậu, bao dung vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà
Nguyễn Du đã kế thừa. Nguyễn Đình Chiểu thì đưa ra một quan niệm về
nguời phụ nữ lý tưởng theo quan niệm của lễ giáo phong kiến: “Gái thời
tiết hạnh làm câu trau mình”(Lục Vân Tiên). Những người phụ nữ
trong Chinh phụ ngâm hayCung oán ngâm cũng là những đại diện tiêu
biểu cho quan niệm về người phụ nữ đẹp trong thời đại họ. Nhưng với Hồ
Xuân Hương, người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, thì bà lại có cái nhìn
mới về vẻ đẹp người phụ nữ đứng ở vị trí là người phát ngôn cho vẻ đẹp
của giới mình. Xuân Hương là người đầu tiên và có thể là duy nhất đưa
vào văn học giai đoạn này không phải là cô gái quý tộc mà đích thực là
những cô gái bình dân. Bà tìm thấy vẻ đẹp thực sự của họ, nêu bật vẻ đẹp
bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ (Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, quả mít);
ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong các cô gái đang xoan (Đề tranh tố
nữ); đi vào đến từng chi tiết của vẻ đẹp cơ thể (Thiếu nữ)…
Tuy nhiên, trong quan niệm của dân tộc ta thời kì này thì người phụ nữ đẹp
thường gắn liền với số phận bất hạnh. Điểm lại gương mặt nhân vật nữ
thời kì này ta thấy một điểm chung ở họ là có một cuộc đời đầy sóng gió,
bẽ bàng, không mấy người có được hạnh phúc thật sự. Đặc điểm này phải
chăng là do quan niệm “hồng nhan bạc mệnh”.
Chương 2: Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
1. Người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh
Thân phận của những người phụ nữ này lại vô cùng nhỏ bé, cuộc đời của
họ long đong lận đận. Họ phải sống trong một chế độ xã hội phong kiến lạc
hậu, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có chỗ đứng và địa vị trong
xã hội. Vì vậy, những người phụ nữ có tài như Hồ Xuân Hương thường
không được coi trọng đồng thời việc làm của một người vợ thường ít được
người chồng cảm thông, dù cho quanh năm lam lũ vất vả nuôi chồng nuôi
con chăm sóc cho gia đình luôn được yên ấm dù mình có phải chịu thiệt
thòi.
Họ là những người phụ nữ có tài có sắc nhưng cuộc đời lận đận, số phận
bi đát, bé nhỏ trong xã hội:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi, ba chìm với nước non
(Bánh trôi nước)
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
(Tự tình III)
Trong giai đoạn này, ta cũng bắt gặp những bài thơ nói về số phận hẩm hiu
của người phụ nữ. Họ là những người có phẩm chất cao đẹp như bà Tú
trong Thương vợ của Tú Xương
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Và của những số kiếp nổi nênh:
Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
(Chiếc bách)
Trong chế độ phong kiến suy tàn ở Á Đông hang mấy nghìn năm con
người rất đau khổ, nhưng khổ nhất là người đàn bà. Không phải vô cớ mà
Nguyễn Du đã nấc lên thay cho người phụ nữ trong văn chiêu hồn:
Đau đớn thay phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?
Trong truyện kiều Nguyễn Du một lẫn nữa lại kêu lên như thế
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm cũng có nói đến cái khổ của người chinh
phụ. Còn với Xuân Hương không chỉ than cho người đàn bà dưới chế độ
phong kiến mà bản thân mình là bị cái lễ giáo khắc nghiệt ấy cuốn chặt lấy
mình. Xuân Hương đã nói một cách trần trụi nhất, với cái mạnh mẽ của sự
phản kháng và gắn chặt đời mình cùng với số phận của những người phụ
nữ nói chung trong xã hội cũ :
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Ở xã hội xưa, trai năm thê bảy thiếp là thường, còn người phụ nữ không
cho phép được như vậy. Họ đau có quyền làm chủ đời mình, trong ca dao
ta cũng bắt gặp rất nhiều câu ca nói về số phận hẩm hiu của người phụ
nữa:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Hay:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương nói riêng và trong xã hội phong kiến
nói chung đều là những con người với số phận bi đát. Càng đọc, ta càng
trân trọng và hiểu thêm cái bối cảnh xã hội nước ta lúc bấy giờ. Riêng bản
thân tôi, được sinh ra trong một xã hội văn minh, bình đẳng và không tận
mắt chứng kiến những điều đó nhưng qua thơ văn đã giúp tôi hiểu hơn rất
nhiều về người phụ nữ xưa và càng trân trọng họ hơn. Họ là những đóa
hoa sen thơm mát, tỏa hương cho đời, gần bùn mà chẳng hôi tân mùi bùn.
Từ đây ta càng cảm thông sâu sắc cho số phận người phụ nữ Việt Nam
xưa, phải chịu nhiều khổ cực, tủi nhục, hiu quạnh, tình duyên hẩm hiu, trắc
trở.
2. Người phụ nữ với nổi đau trong đường tình duyên
Do sống trong xã hội phong kiến-một xã hội coi thường phụ nữ và luôn bị
lễ giáo trói buộc, không được hoạt động xã hội, không được học hành thi
cử, chịu nhiều thiệt thòi cả ngoài xã hội cũng như trong gia đình. Chính vì
vậy, người phụ nữ không chỉ chịu thiệt thòi, bất hạnh trong cuộc sống mà
còn đau khổ trong đường tình duyên. Có lẽ phải chịu nhiều lận đận trong
đường tình duyên, 2 lần làm lẽ nhưng cả 2 lần đều ngắn ngủi nên bà rất
hiểu và đồng cảm với phận của những người phụ nữ không may mắn
trong đường tình duyên. Đó là nổi khổ của người phụ nữ làm lẽ, người phụ
nữ không chồng mà chữa, người phụ nữ chết chồng…Điều đáng nói ở đây
là bà dám lên tiếng tố cáo gay gắt, quyết liệt xã hội phong kiến thối nát,
mục ruỗng mà không ai dám lên tiếng. Hồ Xuân Hương vạch cho con
người thấy thân phận khổ nhục của người làm lẽ, năm thì mười họa mới
được gần chồng. Họ là thứ làm mướn không công và để thỏa ham muốn
nhục dục của bọn nhà giàu. Nhà thơ vạch trần bản chất xấu xa của chế độ
đa thê phong kiến.
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không,
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hầm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
(Làm lẽ)
Nhà thơ nói về thân phận của người phụ nữ làm lẽ nhưng đồng thời đó
cũng là cảnh ngộ của bản thân bà.
Ai cũng biết, cuộc đời cũ, đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai,
nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của
họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà
thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm
của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng
thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ. Vì vậy, thơ Xuân Hương
luôn là tiếng kêu xé lòng của những người con gái nhẹ dạ.
Trong bài Không chồng mà chửa, nhà thơ lại viết về một cảnh ngộ của một
người phụ nữ, cảnh ngộ những cô gái không may có may có mang với
người yêu của mình nhưng không được xã hội chấp nhận.
Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niếm chàng có biết chăng chàng…
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa răm năm chàng còn nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có mới ngoan
Trong bài thơ này Hồ Xuân Hương đã nhấn mạnh cái nghĩa, cái trách
nhiệm mà người đàn ông nào đó vô tâm trước hậu quả để lại cho người
phụ nữ và tác giả đã đứng về phía cô gái mà dùng một ý của câu ca dao:
Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường
Không chỉ cảm thông với thân phận của người làm lẽ, người phụ nữ không
chồng mà chửa mà Hồ Xuân Hương còn muốn dỗ họ, muốn an ủi họ,
muốn dịu dàng đùa với họ, để cho họ khuây khỏa nỗi đau và dìu họ trở lại
với cuộc sống bình thường:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)
Lúc thì đùa nghịch nhưng rất thân tình:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên mới khóc tì ti…
(Bỡn bà lang khóc
chồng)
Trong văn học phong kiến của ta hiếm có nhà thơ nào độc đáo mà nhân
tình đến thế. Có thể nói từ một chỗ ý thức sâu sắc về giá trị của người phụ
nữ và cảnh ngộ ngang trái của họ trong xã hội phong kiến, Hồ Xuân
Hương đã trở thành một nhà thơ chống đối phong kiến quyết liệt, một con
người đả kích gay gắt những kẻ đại diện cho giai cấp phong kiến thống trị
cùng những gì chà đạp con người.
Ở bài tự tình số III, tác giả lại viết:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con
Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thưở vậy, còn riêng mình thì
vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên, tình duyên đã ít
lại còn phải chia ba sẻ bảy nữa.
Ðọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương
gần như chưa một lần nhận diện được hạnh phúc.
3. Tiếng nói phê phán, đã kích giai cấp phong kiến thống trị
Trong văn học Việt Nam nữa cuối thế kỉ XVIII – nữa đầu thế kỉ XIX,
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước
hết là tiếng nói tâm tình của phụ nữ. Không phải người phụ nữ lầu son gác
tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ nữ bình thường, người phụ
nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống. “Có thể nói, ngoài văn
học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học
dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những người phụ nữ ấy:
những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những
tiếng châm biếm sâu cay” [1 ,tr.275]. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ nữ là
người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp mà
trong tư cách là người phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính
với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau khổ,
họ vẫn nói, vẫn kêu, vẫn đòi hỏi. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là
nững tiếng kêu thương thất vọng. “Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân
Hương đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn
với tiếng nói của nhân dân lao động. Tiếng nói đã kích, tố cáo được nữ sĩ
sử dụng thông qua công cụ cố hữu của truyền thống văn học dân tộc, cũng
như phổ biến trên thế giới: tiếng cười châm biếm”[4,tr.211]
Mặc dù bị trói buộc trong những quan niệm, phong tục cổ hủ và lạc
hậu nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn đẹp, vẫn sáng, vẫn luôn vùng
lên để đòi bình quyền. Để muốn rằng: Họ là nữ nhi nhưng vai trò của họ
trong xã hội là rất lớn.
Đến giai đoạn này, có người đã chống lại vua khi vua không ra vua nữa.
Riêng Hồ Xuân Hương với thân phận nữ nhi, chắc bà không có ý định
chống vua, mà chỉ mắng nhẹ mà đau vô kể:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu yêu vua một cái này
Nếu đối với chúa, Hồ Xuân Hương châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì
với bọn quan thị, nữ sĩ đã giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự
nhiên của chúng. Đứng trước cái dị hợm, quái gở ấy, bà văng tục, bà chửi
đổng, cười mỉa:
Đố ai biết đó vông hay chóc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Hồ Xuân Hương châm biếm, đã kích từ vua đến quan, nhưng có lẽ
chịu nhiều nhất là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Đối
với “quân tử”, Xuân hương không chỉ chọn chân chúng trước bức tranh
thiếu nữ ngủ ngày, mà còn bắt chúng “mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”
lên đèo Ba uân Dội.
Bên cạnh những hiền nhân quân tử là đám nho sĩ dót nát, còn
huênh hoang. Xuân Hương gọi chúng là “phường lòi tói”, “ngẩn ngơ”, xưng
chị và đòi dạy chúng làm thơ.
Khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Sự dâm đảng không chỉ lén lút phía hậu hiên, mà còn công khai trước bàn
thờ phật:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vải nấp sau lưng cháy bảy bà.
Khi cảnh, khi tỉuu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Không những thế, hàng ngũ đại diện cho Nho giáo bà cũng không bỏ qua.
Khen thay con tạo khéo khôn phàm
(Hang Thánh Hóa)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
(hang Cắc Cớ)
Qua thơ Xuân Hương ta thấy cả một xã hội phong kiến thời bà bị chế
diễu, đả kích. Bà dùng tiếng cười, thông qua yếu tố tục, xoáy vào đời sống
bản năng của giai cấp thống trị để từ đó đả kích, tố cáo thói đạo đức giả
của chúng. Nhưng thơ Xuân Hương đâu chỉ biết cười, mà đọc thơ bà ta
nghe như có tiếng nấc bên trong. Tôi muốn lấy ý kiến của nhà thơ Xuân
Diệu thay cho lời kết của mình: “những nhà trào phúng vĩ đại không nhe
răng ra mà cười, không chửi bằng cả lời nói, họ ném trái tim của họ, ném
cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại.
Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào
phúng đó thôi”[5, tr. 215]
4. Vẽ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn có những bài thơ bày tỏ niềm
kiêu hãnh của mình về vẻ đẹp hình thức, vẽ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp của tài
năng, trí tuệ của người phụ nữ.
4.1. Vẽ đẹp hình thức
Người phụ nữ trong văn học giai đoạn này xuất hiện không còn cái khép
nép trong cái mô thức “tại gia tòng phụ, phu tử tòng phu” hay “công, dung,
ngôn, hạnh”. Trong cuộc tao ngộ các giai nhân của văn học giai đoạn này,
người ta thấy thường là những cô gái trẻ đẹp, thanh lịch, với nụ cười trên
môi và chan chúa tình yêu đời, yêu người trong lòng. Hồ Xuân Hương
sáng tác trong bối cảnh ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà
thơ viết rất nhiều về phụ nữ, nữ thi sĩ xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ.
Điều này càng được làm rõ hơn qua bài thơ “Đề tranh tố nữ”
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám trình trăng gió,
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh,
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
. Trách người thợ vẽ khéo vô tình
Trong văn học ta có lời thơ nào ca ngợi các cô gái và tuổi trẻ của các cô
gái đẹp hơn thế nữa. Nhưng độc đaó hơn cả là bài thơ “Thiếu nữ ngủ
ngày” của nhà thơ. Đây là một bài không phải ca ngợi vẽ đẹp của phụ nữ
nói chung, hay ca ngợi tuổi trẻ, mà ca ngợi vẽ đẹp trên cơ thể của một cô
gái trẻ tuổi. Văn học giai đoạn này, ta bắt gặp nhiều tác giả miêu tả vẽ đẹp
của giai nhân như Nguyễn Du miêu tả vẽ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều.
Hay trong tác phẩm Hoa tiên tác giả cũng miêu tả vẽ đẹp của Dao Tiên,
hay trong Truyện Tây sương miêu tả vẽ đẹp của Thôi Oanh Oanh…Đó là
cái vẽ đẹp trên khuôn mặt với đôi mắt và nụ vười, cái đẹp của đôi mắt và
làn da….cách miêu tả của các nhà thơ nói chung là ước lệ tượng trưng.
Riêng với Hồ Xuân Hương thì công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp
thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại
độc đáo nhất của thời đại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thường
được dấu kín của con người. Những bộ phận đó văn học thời đại thường
né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là một trong những
biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ
thể, không chung chung, mờ nhạt:
Lược trúc chải dài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm
Một lạch Ðào nguyên suối chửa thông
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của
nhà thơ không có một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức
nâng niu, trân trọng. Trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến, con
người bị chà đạp, bị giày xéo. Nhiều giá trị bị đảo lộn, bị nghi ngờ. Nhà thơ
giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt trong veo để nhìn người, nhìn đời, để
thấy hết mọi giá trị đẹp của con người. Cũng vì thế mà thơ Xuân Hương
có giá trị nhân đạo sâu sắc.
4.2. Vẽ đẹp tâm hồn
Trong xã hội cũ, có ai dám như Xuân Hương đứng ra bênh vực cho những
người con gái dở dang ấy, có ai dám ngang nhiên thừa nhận những quy
tắc đi ngược lại khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến như bà. Những điều đó
chỉ có ở bản lĩnh, một trái tim tha thiết, nồng ấm sự cảm thông của một tâm
hồn nghệ sĩ.
Từ những tiếng nói cảm thông ấy, Xuân Hương còn lên tiếng đề cao ca
ngợi họ, tìm thấy vẻ đẹp thực sự chân chính ở họ. Trong một loạt hình
tượng nói về số phận bấp bênh, hẩm hiu của người phụ nữ như “chiếc
bánh trôi” “bảy nổi ba chìm”; hay quả mít “vỏ nó xù xì”; con ốc nhồi “đêm
ngày lăn lóc đám cỏ hôi” nhà thơ luôn chú trọng nêu bật cái đẹp bên
trong, cái đẹp tâm hồn của họ. Quả mít tuy “vỏ nó xù xì” nhưng “múi nó
dày”.
Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm
chất kiên trinh của người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng
giữ được tấm lòng son.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà en vẫn giữ tấm lòng son
( Bánh trôi nước)
Mặc dù, số phận người phụ nữ không được định đoạt, lênh đênh giữa
cuộc đời nhưng họ đành cam chịu. Cái duy nhất họ làm chủ được là tấm
lòng mình. Người phụ nữ vẫn giữ sự thủy chung, son sắt, bất biến với mối
tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào về phẩm chất, thủy chung của người
phụ nữ.
Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi
xuân, sự trinh trắng, ngồn ngộn sức sống của những cô gái đang xoan:
Ðôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống.
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.
(Mời trầu)
Giống như bao cô gái khác, Xuân Hương cũng khao khát có một tình yêu
bền chặt, nồng cháy. Nàng cũng muốn mở lòng mình ra để đón lấy tình
yêu nồng thắm từ người bạn đời tri âm tri kỉ, đón những hương sắc của
cuộc đời. Xuân Hương hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi năm tháng trôi qua,
những mùa xuân đi không trở lại, nhà thơ dần dần nhận ra cái bạc bẽo của
con người và cuộc đời, cái hẩm hiu của số phận. “Câu thơ nhân hậu của
hờn dỗi, duyên dáng mà có cái gì như đanh đá, thách thức”[7, tr.126]
4.3. Vẽ đẹp của tài năng, trí tuệ
Trong các nhà thơ phụ nữ ở nước ta, Hồ Xuân Hương và thơ ca
của bà là một hiện tượng khá đặc biệt được rất nhiều người đàm luận từ
xưa đến nay.
Tục truyền hồi Xuân Hương còn đi học; một hôm gặp phải trời mưa, đến
sân nhà trường, đất trơn, cô nữ sinh trượt chân ngã oạch một ái, các bạn
học thấy thế đều cười ầm lên. Nhưng Xuân Hương đã đứng ngay dậy, ung
dung đọc hai câu thơ rằng:
Giơ tay với thử trờ cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài
Rồi bình thản đi vào. Còn mấy chàng trai thấy thế cũng phục tài.
Lại có chuyện, một hôm Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc Về,
nàng đang lững thững trên bờ Hồ Tây, bổng thấy có mấy thầy khóa bước
rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi trêu ghẹo nàng có người lại mang cả văn
chương chữ nghĩa ra nữa, nàng đọc cho một bài thơ rằng:
Khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Có thể nói rằng, trong cái xã hội phong kiến “trọng nam khinh
nữ”như vậy mà Xuân Hương vẫn dám khẳng định tài năng, trí tuệ hơn
người của mình.
Hay trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện được sự tự ý
thức về mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ.
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được.
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu
cất nón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai:
ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Kìa là chỉ, trỏ, không
đáng chú ý. Ðứng cheo leo: Thế đứng buồn tẻ, không có gì là vững chãi.
Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm
trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự
anh hùng của nhà ngươi đâu.
Qua đây, ta cũng hiểu thêm ít nhiều về người phụ nữ xưa, không chỉ đẹp
về hình thể mà họ còn là những con người mang đầy tài năng.
5.Nghệ thuật xây dựng hình tượng trong thơ Hồ Xuân Hương
Với ngôn ngữ dân gian, với bản lĩnh của một người khát khao được sống
và sống mãnh liệt, với cặp mắt quan sát sắc sảo và biết chọn lọc cái gì cần
thiết….Xuân Hương có một nghệ thuật xây dựng hình tượng độc đáo,
không lẫn với ai, tạo cho mình một phong cách riêng.
Ngôn ngữ thơ bà được lựa chọn trong kho tàng ngôn ngữ của văn học dân
gian. Trong kiến trúc câu thơ, yếu tố ca dao, tục ngữ được bà đặt rất đúng
chỗ nên rất tự nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó.
Tác giả dùng những vần khó gieo, thi pháp trung đại gọi là tử vận-vần chết,
khó họa lại nhưng khi sử dụng thành công lại có giá trị độc đáo. Chẳng hạn
vần ênh trong bài Tự tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong
manh về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Thơ Ðường luật vốn được dùng trong thi cử, niêm luật chặt chẽ, hình thức
đường bệ, nội dung cũng đường bệ. Hồ Xuân Hương đã đem đến cho thể
thơ này một nội dung rất thông tục.
“Hình ảnh trong thơ thì sinh động, góc cạnh, luôn chuyển động chứ không
chết dí một chỗ” [5, tr. 223]
KẾT LUẬN
Đã là người Việt Nam sẽ không còn ai xa lạ với Hồ Xuân. Tiếng thơ Xuân
Hương là tiếng thơ của một người phụ nữ tài hoa, cá tính nhưng phải chịu
sự gò bó của lễ giáo phong kiến khắt khe, kìm kẹp cuộc sống. Bao khao
khát, bao nguồn sống mãnh liệt không được bộc lộ trong cuộc sống được
bà gởi gắm cả vào trong thơ. Thơ Xuân Hương là những nỗi niềm không
chỉ của riêng tác giả mà của tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội
phong kiến.
Cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức phức tạp, còn
nhiều điều chưa rõ. Dẫu rao ta cũng tự hào vì trong văn học Việt Nam có
một nữ thi sĩ đầy tài năng lại xuất hiện trong một xã hôi mục ruỗng.
Ai cũng biết, cuộc đời đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai,
nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của
họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Hồ Xuân Hương là nhà
thơ của phụ nữ, bà thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm
của cuộc đời chung và cuộc đời riêng chẳng ra gì của mình; và bằng tiếng
thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ.
Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám
cất lên tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước
vọng được khẳng định mình. Và cao hơn hết chính là tư tưởng nhân đạo
trong thơ Xuân Hương đem lại cho đến nay vẫn còn giá trị.
Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại,
chưa có tầm nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con
người, song Hồ Xuân Hương cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc
một tiếng thơ hết sức độc đáo. Thơ bà là thứ thơ giải phóng cá tính, dám
khẳng định cá tính và bản lĩnh riêng. Bà là nhà thơ đầu tiên dám đưa cá
tính vào trong thơ. Chính cá tính ấy đã giúp cho tiếng thơ của bà khi nói về
người phụ nữ có một sắc thái riêng, hoàn toàn khác với những nhà thơ viết
về phụ nữ trước đó và cả sau này. Hình tượng người phụ nữ trong thơ
Xuân Hương luôn ngẩng cao ở tư thế hiên ngang, đầy bản lĩnh và bà
không chìm vào khóc thương cho số phận của họ.
Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người
phụ nữ. Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của
người phụ nữ và đâu đó xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất
hạnh. Vì vậy, mà thơ Xuân Hương vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống.
Đọc thơ Xuân Hương, không chỉ là để đồng cảm, để sẻ chia mà còn là
chiêm nghiệm, suy ngẫm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lộc, văn học Việt Nam (2001), (nữa cuối
thế kỉ XVIII – đến hết thế kỉ XIX), Nxb giáo dục.
2. Phương Lựu (chủ biên)(2002), lí luận văn học, Nxb giáo dục.HN
3. Lữ Huy Nguyên, Hồ Xuân Hương thơ và đời (2000),Nxb văn học.
4. Lữ Huy Nguyên, Hồ Xuân Hương thơ và đời (2008), Nxb văn học.
5. Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt
Nam (Thế kỉ X-cuối thế kỉ XIX), Nxb giáo dục, 2008.
6. Phê bình và bình luận văn học, tác giả trong nhà trường Hồ
Xuân Hương, 2006.
7. Phạm Du Yên (tuyển chọn) (2004), thơ Hồ Xuân Hương, Nxb TH
Đồng Nai.
8. Nguyễn Hữu Sơn – Vũ Thanh (2007), Hồ Xuân Hương về tác gia
và tác phẩm, Nxb giáo dục.
9.Trung tâm từ điển học (2009), từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb
Đà Nẵng.
10. Trần Đình Sử (2006),giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam, Nxb
ĐHQG Hà Nội,2006
11. Văn học trung đại Việt Nam (2007), Hồ Xuân Hương tác phẩm
và lời bình, Nxb VH.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hồ Xuân Hương –một nữ sĩ tài năng và độc đáo trong văn học Việt Nam,
từng được thi sĩ Xuân Diệu tôn vinh là “bà chúa thơ nôm”. Thơ của Xuân
Hương đã làm cho đời sống văn học trở nên sôi nổi, với hàng trăm bài viết,
hàng trăm ý kiến khác nhau về thơ bà. Đặc biệt là mảng thơ Nôm, có nhiều
ý kiến cho rằng thơ bà mang yếu tố dâm và tục, nhưng thời gian trôi qua,
dần dần mọi người hiểu và càng thêm trân trọng tài năng cũng như phẩm
chất con người nữ sĩ hơn.
Tên tuổi của Xuân Hương hiện nay được đặt cạnh đại thi hào Nguyễn Du
và Nguyễn Trãi, qua đó cũng chứng minh rằng nữ sĩ Hồ Xuân Hương có vị
trí đặc biệt trong làng văn học nói riêng và trong lòng mọi người dân Việt
Nam nói chung. Xuân Hương còn được mệnh danh là “nhà thơ của phụ
nữ”, bởi thơ bà là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ - những người phụ
nữ rất đỗi bình thường trong xã hội cũ phải gánh chịu biết bao thiệt thòi,
bất hạnh nhưng không ai dám lên tiếng đấu tranh. Vấn đề người phụ nữ là
vấn đề thời sự của văn học giai đoạn này. Vấn đề người phụ nữ được đặt
ra với qui mô sâu rộng và được soi sáng ở nhiều góc độ rất tinh tế. Có thể
nói, Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem
đến cho thơ văn tiếng nói của người phụ nữ.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh, tiến bộ hơn,
người phụ nữ cũng được đề cao và coi trọng. Bên cạnh đó, vẫn còn đâu
đây những số phận của người phụ nữ phải chịu bất hạnh trong cuộc sống.
Vì vậy, thơ Xuân Hương vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc thơ
Xuân Hương, chúng ta không chỉ đồng cảm, sẻ chia mà còn để chiêm
nghiệm và suy ngẫm. Từ đó, ta lại càng thấy trân trọng và đồng cảm cho
số phận của những người phụ nữ kém may mắn. Có một câu danh ngôn
về phụ nữ mà tôi rất tâm đắc: “Cả cuộc đời của người phụ nữ là một bài
lịch sử về những yêu thương”
Đó là những lí do thôi thúc tôi chọn hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hương làm đề tài nghiên cứu cho bài tiểu luận này.
2. Lịch sử vấn đề
“Hồ Xuân Hương với một tài thơ độc đáo đã trở thành một trung
tâm thu hút biết bao nhiêu thế hệ nhà nghiên cứu và độc giả yêu quý thơ
bà vào cuộc tìm kiếm, nhưng cho đến nay đề tài về Hồ Xuân Hương vẫn
mãi là một vấn đề mang tính thời sự văn học nóng bỏng là đề tài không
bao giờ nhàm chán. Qua các công trình nghiên cứu về thơ Hồ Xuân
Hương từ trước đến nay, chúng ta thấy, việc đánh giá về thơ Hồ Xuân
Hương diễn ra rất phức tạp đã có rất nhiều ý kiến khác nhau thậm chí đối
lập nhau, chẳng hạn như:
Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu, đầu những năm 20 của thế kỉ XX phê
bình: “Thơ Hồ Xuân Hương thật tinh quái, những câu thơ hay đọc lên đến
ghê người”[1, tr.262]. Trương Tửu thấy trong thơ bà có tục và dâm và ông
gọi Xuân Hương là “thiên tài hiếu dâm” …và còn nhiều ý kiến khác nữa.
Bàn về vấn đề hình tượng người phụ nữ trong thơ bà cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu như cuốn “Văn học Việt Nam”(giai đoạn nữa cuối
thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX) của tác giả Nguyễn Lộc, Nxb GD, 2001. Hay
cuốn “Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm”, Nxb GD, 2007, cuốn “thơ
Hồ Xuân Hương” của Phạm Uyên, Nxb Đồng Nai, 2004. Hay cuốn “ Thơ và
đời” của Lữ Huy Nguyên…Nói chung tất cả các cuốn trên đều có đề cập
đến cuộc đời cũng như sự nghiệp văn chương của Hồ Xuân Hương. Tuy
nhiên, chưa có một công trình nào đề cập cụ thể đến vấn đề “hình tượng
phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương” một cách hệ thống và toàn diện mà chỉ
đề cập đến một khía cạnh, chỉ một mặt nhỏ trong công trình nghiên cứu
của họ.
“Có thể khẳng định lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hương là lịch sử
nỗi ám ảnh chưa bao giờ đứt đoạn của vấn đề tiểu sử và văn bản thơ Hồ
Xuân Hương” [7,tr.21]
3. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài hình tượng phụ nữ trong thơ Hồ Xuân
Hương, tôi đã vận dụng những phương pháp và thao tác nghiên cứu chủ
yếu sau:
Bản thân tôi đã cố gắng sưu tầm những tài liệu về cuộc đời cũng
như sự nghiệp thơ ca của thi sĩ và một số tài liệu liên quan đến đề tài
nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Để từ đó, có cơ sở để làm rõ vấn
đề hình tượng phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Đồng thời phối hợp một
số thao tác khoa học như: Thống kê, Phân tích, so sánh đối chiếu … để từ
đó khái quát lên tư tưởng của nữ sĩ qua hình tượng người phụ nữ trong xã
hội phong kiến, khẳng định vai trò của giới nữ cũng như vẽ đẹp của họ. Nội
dung được đặt trong sự so sánh với các bài thơ cùng giai đoạn của các
văn sĩ khác viết về phụ nữ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài của tôi thực hiện xung quanh vấn đề “hình tượng người phụ nữ
trong thơ Hồ Xuân Hương”.
Với đề tài này tôi chọn bộ phận thơ được tuyển tập trong cuốn
“Thơ Hồ Xuân Hương” do Phạm Duy Yên tuyển chọn (xuất bản năm 2004,
NXB Đồng Nai). Ngoài ra tôi cũng tham khảo những tài liệu khác như cuốn
“Thơ và đời” của tác giả Lữ Huy Nguyên tuyển, soạn, giới thiệu (NXB VH,
HN, 2000). Và cùng một số tài liệu khác có nội dung liên quan đến đề tài,
đồng thời đưa một số bài ca dao trong văn học dân gian và một số bài của
các tác giả cùng thời để làm rõ hơn vấn đề.
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Thông qua việc tìm hiểu nội dung và bước đầu nghiên cứu hình tượng
người phụ nữ trong thơ Xuân Hương, bài viết này cố gắng đưa ra những
suy nghĩ về thơ và đời của Xuân Hương và đặc biệt là để có cái nhìn về
nhìn đồng cảm với số phận người phụ nữ xua.
Thực hiện đề tài này, tôi hi vọng đây sẽ là tài liệu bổ ích cho những ai
muốn quan tâm và tìm hiểu về Hồ Xuân Hương. Ở đề tài này, cùng với
những bài nghiên cứu của những người đi trước, tôi hi vọng sẽ góp thêm ý
kiến nhỏ của mình để làm nổi bật lên hình tượng phụ nữ trong thơ Xuân
Hương. Tuy nhiên, vì điều kiện thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, cũng như
kiến thức có hạn nên bài làm còn rất nhiều thiếu sót, kính mong thầy cô
cùng các bạn góp ý để bài làm hoàn chỉnh hơn.
2. cấu trúc của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và phụ lục, đề tài có 2 chương nội dung
chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương
1.1 Cuộc đời
1.2. Sự nghiệp sáng tác
2. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại nói chung
2.1. Khái niệm hình tượng và hình tượng trong văn học
2.2. Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
Chương 2: Hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
1.Người phụ nữ với số phận nhỏ bé, bất hạnh
2.Người phụ nữ với nổi đau trong đường tình duyên
3. Tiếng nói phê phán, đã kích giai cấp phong kiến thống trị
4. Vẽ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
4.1. Vẽ đẹp hình thức
4.2. Vễ đẹp tâm hồn
4.3. Vẽ đẹp tài năng, trí tuệ
5. Nghệ thuật xây dựng hình tượng trong thơ Hồ Xuân Hương
NỘI DUNG
Chương 1. Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương
1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương
1.1 Cuộc đời
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học
dân tộc. Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc
không kém bất cứ một nhà thơ nào. Đáng tiếc là về cuộc đời của nữ sĩ,
chúng ta được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn
nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những
bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng
tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài
liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương,
các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử
của nữ sĩ:
"Bà Chúa thơ Nôm" là “con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng
Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải
Dương” [3, tr.151]
Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và thơ văn của bà đến nay
vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào thời Lê mạt
Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ
(tức Chiêu Hổ, 1768-1839).( theo thống kê của nhiều tài liệu)
Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn
cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng
lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp
bức trong xã hội.