Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

cái nhìn của hồ xuân hương đối với người phụ nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.53 KB, 54 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ

CHUYỆN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 5.04.33
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn :
Giáo sư Lê Trí Viễn
Người thực hiện:
Nguyễn Công Danh



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 12-1997

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ

CHUYỀN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 5.04.33


LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn:
Giáo sư Lê Trí Viễn
Người thực hiện:
Nguyễn Công Danh



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 12-1997


1

MỤC LỤC

2TMỤC LỤC2T 1
2TLỜI CẢM ƠN2T 2
2TMỞ ĐẦU2T 3
2T1. Lý do chọn đề tài:2T 3
2T2. Phạm vi nghiên cứu:2T 3
2T3. Lịch sử vấn đề:2T 4
2T4. Nhiệm vụ nghiên cứu:2T 7
2T5. Phương pháp nghiên cứu:2T 8
2T6. Bố cục của luận án:2T 8
2TCHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THỜI ĐẠI, CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM CỦA HỒ
XUÂN HƯƠNG LIÊN QUAN ĐẾN CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI PHỤ NỮ2T 9
2T1.1 Thời Hồ Xuân Hương và số phận người phụ nữ:2T 9
2T1.2 Hồ Xuân Hương - một nữ thi sĩ "độc đáo vô song" một nhà thơ của phụ nữ:2T 10

2T1.3 Thơ nôm truyền tụng và tập thơ "Lưu hương ký", những thi phẩm lưu truyền và tâm
huyết của Hồ Xuân Hương:2T 13
2T1.3.1 Thơ nôm truyền tụng:2T 13
2T1.3.2 Tập thơ "Lưu hương ký":2T 14
2TCHƯƠNG 2: CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG TRÊN BÌNH DIỆN TỰ NHIÊN2T 17
2TCHƯƠNG 3: CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG TRÊN BÌNH DIỆN XÃ HỘI2T 27
2TKẾT LUẬN2T 46
2TTÀI LIỆU THAM KHẢO2T 48



2

LỜI CẢM ƠN
Luận án này được hoàn thành với sự giúp đỡ của quý thày giáo, cô giáo và bạn bè đồng
nghiệp, đặc biệt là với sự hướng dẫn rất tận tình của Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Lê Trí
Viễn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là nhân học. Con người vừa là đối tượng vừa là mục đích của văn học.
Nghiên cứu cái nhìn của của một. nhà thơ thông qua tác phẩm của họ bao giờ cũng là
vấn đề hết. sức được quan tâm và mang tính thời sự trong lý luận phê bình văn học. Bởi vì
thái độ đối với con người nói chung đặc biệt đối với người phụ nữ nói riêng luôn có thể là
thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm văn học, của một tác giả. Hồ Xuân Hương và thơ
của nữ thi sĩ là một hiện tượng văn học dặc biệt đã được các nhà nghiên cứu đánh giá khác

nhau thậm chí trái ngược nhau.
Tìm hiểu, nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ của một nhả
thơ nữ viết về phụ nữ trong tình hình phê bình nghiên cứu có những ý kiến trái ngược nhau
như thế quả là việc làm lý thú, hữu ích để góp phần trả lại giá trị cho thơ Hồ Xuân Hương và
vị trí của nữ sĩ trong văn đàn dân tộc như Thôn Văn đã khẳng định trong bài tựa "Thơ Hồ
Xuân Hương " do Hội Liên hiệp Phụ nữ và Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản năm 1982: "Bởi
những gì Hồ Xuân Hương để lại hiện đang và mãi mãi sẽ là những vì sao mới lạ lấp lánh đầy
sức hấp dẫn giữa bầu trời văn học của đất nước chúng ta" Điều lý thú rất có ý nghĩa nữa là
bài viết. sẽ góp thêm tiếng nói trân trọng yêu mến nhà thơ nữ nổi tiếng của dân tộc và khẳng
định, phát huy vai trò vị trí của người phụ nữ trong sự nghiệp vì tiến bộ, bình đẳng và phát
triển của phong trào phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước .
2. Phạm vi nghiên cứu:
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, bài viết này chỉ nhằm góp thêm tiếng nói trân trọng
Hồ Xuân Hương và thơ của nữ sĩ, chứ không đi vào nghiên cứu các vấn đề khác về thơ Hồ
Xuân Hương. Đó là cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ. Bởi, về quan
điểm.thái độ của Hồ Xuân nương đối với phụ nữ đã có nhiều ý kiến nhận định trái ngược
nhau nên cần tiếp tục suy nghĩ Công việc ấy quả là không mấy dễ dàng vì về nội dung đã có ý
kiến ngược nhau mà ngay danh mục thơ. văn bản thơ cũng còn là một vấn đề tồn nghi. Do
hiện tượng dân gian hóa thơ Hồ Xuân Hương và Xuân Hương hoá thơ của kẻ nào dó nên có
không ít bải thơ người này cho là của Hồ Xuân Hương, người kia cho là không phải. Đã có
công trình nghiên cứu về phân loai. xác định những loại thơ nào đích thực là của Hồ Xuân
Hương, những bài nào không, nhưng vẫn còn nhiều bàn cãi . Chúng tôi chọn cách làm là sử
dụng những bài thơ trước nay vẫn được coi là thơ nôm truyện tụng của Hồ Xuân Hươg được
in trong các cuốn:"Thơ Hồ Xuân Hương" của Giáo sư Nguyễn Lộc (Nhà xuất bản Văn học.
1982), "Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương" của nhóm biên tập do Giáo sư Lê Trí Viễn chủ biên

4

(Nhà xuất bản Nghĩa Bình và sở Giáo dục Nghĩa Bình xuất bản, 1987) và "Hồ Xuân Hương,
thơ và đời" do Lữ Huy Nguyên chịu trách nhiệm xuất bản (Nhà xuất bản Văn học, 1996). Dĩ

nhiên chúng tôi cũng chỉ sử dụng những bài thật sự liên quan đến vấn đề mà chúng tôi đang
nghiên cứu . Đồng thời chúng tôi cũng sử dụng một số bài thơ chữ nôm và chữ Hán trong
"Lưu hương ký" do Tốn Phong Thị đề lựa tháng 2 năm Giáp Tuất (tháng 3 năm 1814) để
nhìn nhận được đầy đủ hơn. Bởi nhiều cứ liệu lịch sử có được hiện nay đã khổng định " Lưu
hương ký" là của Hồ Xuân Hương .
3. Lịch sử vấn đề:
Trong hàng trăm bài viết về cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương, đã có nhiều bài tuy chưa
thành một chuyên đề riêng nhưng ở chỗ này chỗ khác đã đề cập về quan điểm thái độ của Hồ
Xuân Hương đối với người phụ nữ .
Đọc các bài viết ấy, chúng tôi thấy nổi lên hai loai ý kiến . Loai ỷ kiến thứ nhất là đánh
giá quan điểm thái độ của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ theo quan điểm phân tâm
học của Phrớt. Nguyễn Văn Hanh viết : "Dục tình ngày càng tăng, càng nén lại càng bồng
bột. Ngày qua tháng qua, sức dè nén dồn ép tình dục càng tăng. Vì sự cần kia càng khẩn cấp.
Kết quả: Hồ Xuân Hương “khủng hoảng tình dục"1TP0F
(1)
P1T.
Theo ông Nguyễn Văn Hanh, ở Hồ Xuân Hương và thơ của bà, dục tình chỉ phối tất cả
: tư tưởng và thơ. Ông cho rằng :"Phrớt thấy sự bất mãn về tình dục lâu ngày sẽ kết cấu ra
bệnh để thay cho sự vui thích không liễu kết. Xuân Hương không bao giờ thỏa thích dục
vọng, nàng bị dồn ép luôn luôn. Nàng bị bệnh thần kinh. Dục tình chiếm cả đầu óc, ám ảnh
nàng. Nó nhuộm thắm các tư tưởng của nàng. Bao nhiêu thơ của Xuân Hương đều biểu lộ sự
khao khát, sự bất mãn, dục tình được biến chuyển qua mỹ thuật thơ."1TP

1F
(1)
P1T. Cùng với cách nhìn
nhận ấy, Trương Tửu cũng đã vận dụng thô bạo phân tâm học để đánh giá Hồ Xuân
Hương:"Thỉên tài ấy (Hồ Xuân Hương) phát hiện ra ở ba đặt tính : Trữ tình, trào phúng, huê
nguyệt. Thơ Hồ Xuân Hương trữ tình đến ai hoài, trào phúng đến chua cay, huê nguyệt đến
dâm đãng (dâm đãng hiểu theo nghĩa khoa học chứ không theo nghĩa luân lý). Trong ba tính

ấy, cái dâm là căn bản não trạng Xuân Hương. Hai tính kia cũng nẩy nở dưới ánh sáng của
cái dâm ấy" 1TP2F
(1)
P1T.Ngay cả ông Văn Tân đã có những nhận xét rất mới mẻ về cuộc đời và thi
phẩm của nữ sĩ lại vẫn có những hạn chế đáng tiếc. Ông đã phân tích ảnh hưởng của những
câu đố "đố tục giảng thanh" vào thơ Hồ Xuân Hương. Đúng là có sự ảnh hưởng đó. Nhưng

(1)
Nguyễn ăn Hanh - "Hồ Xuân Hương, tác phẩm, thân thế và văn tài". Nhà in Aspar, Sài Gòn, 1937. Dân ở
cuốn "Bình luận Văn học", Nhà xuất bản Tổng hợp - Khánh Hòa, 1992, trang 38

(1)
Trương Tửu - Văn nghệ bình dãn Việt nam Văn hóa mới xuất bản, 1951 ở Liên khu IV. Dẫn ở cuốn Thơ Hồ
Xuân Hương. Trường Đại Học Sư Phạm TP.HỒ Chí Minh ấn hành, năm 1989, trang 3.

5

ông lại cho rằng" Cái dâm và cái tục ở nông dân trong rất nhiều trường hợp chỉ là những chất
liệu dùng để cười giải trí hoặc để nhạo báng bọn phong kiến", còn"ở Hồ Xuân Hương, dâm
và tục đã đi vào ý thức tư tưởng và đã biên thành một phương tiện nghệ thuật mầu nhiệm, vì
ở Xuân Hương dâm và tục gặp một khu đất màu mỡ thuận tiện cho sự phát triển. Sự khủng
hoang tình dục luôn luôn sôi sục và trầm trọng ở con người rất mực đa tình là Xuân Hương.
Dâm và tục đã ăn sâu vào ý thức, tư tưởng của Xuân Hương, chi phôi hầu hết thi phẩm của
Xuân Hương, giúp cho Xuân Hương viết nên những vần kiệt tác, độc đáo, làm cho Xuân
Hương nhìn ra đời thấy cái gì cũng là dâm và tục, gặp bài cứ cái gì cũng có thể gán cho
những ý dâm và tục" 1TP3F
(2)

Viết như thế, ông Văn Tân cũng đã rơi vào cách đánh giá Hồ Xuân Hương dưới ảnh
hưởng của phân tâm học Phrớt. Chúng tôi thấy cần phải nhìn nhận lại khi đánh giá Hồ Xuân

Hương nhìn nhận cho đúng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Chúng Lôi đồng ý với ý
kiến của ông Nguyễn Văn Trung cho rằng : "Không thể dùng phân tâm học của Phrớt dể tìm
hiểu thơ được gán cho Hồ Xuân Hương vì đó là ngộ nhận mà các nhà phê bình đã mắc
phải"1TP4F
(3)
P1T. Vì cũng theo ông Nguyễn Văn Trung : "Trong trường hợp thơ tục được gán cho Hồ
Xuân Hương, quả thật ý thơ, bày tỏ một bất mãn vì dục tính không được thực hiện do số phận
làm lẽ, góa bụa, do hoàn cảnh tập quán xã hội ngăn chặn, cấm đoán Nhưng sự bất mãn đó
không liên quan gì đến hiện tượng ẩn ức của Phrớ"1TP5F
(1)
P1T. "Ấn ức" mà ông Trung nói ở đây là
cách bộc lộ vô ý thức của ước muốn bị kiềm chế, bị ngăn chặn. Chúng đã biết phân tâm học
của Phrớt là khoa học của cái vô thức tâm thần. Phrớt không cho rằng ý thức là cái cấu thành
bản chất của tâm thần mà cho rằng vô thức là cái bản chất của tâm thần quyết định cuộc sống
tâm thần, chi phối họat động của con người ở cái vô thức chứa đựng những ham muốn ,
những đòi hỏi , những nhu cầu của con người. Trong những nhu cầu này, Phrớt coi libido
(tức là bản năng tình dục) là nhu cầu quyết định nhất. Đó là những quan điểm sai lầm của
Phrớt. Nhận thức luận Mác xít đã khẳng định vai trò quyết định của tư duy , của lý trí , của ý
thức trong sáng tạo nghệ thuật cũng như trong đời sống tinh thần nói chung chúng ta cũng đã
biết tình dục là một bản năng của lòai người nhưng tình yêu của con người là một thứ tình
cảm mang tính xã hội , mang tính văn hóa hình thành trên những tình cảm nghĩa vụ . đạo đức
đẹp đẽ mà chỉ riêng con người mới có . Cho nên theo chúng tôi, chúng ta phải tránh việc vận
dụng thiên lệch phân tâm học của Phrớt để nghiên cứu , đánh giá Hồ Xuân Hương và người
phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương.

(2)
Văn Tân - "Hồ Xuân Hương với các' giới phụ nữ, văn học và giáo dục"- Nhà xuất bản Sông Lô, Hà Nội,
1955, trang 27.
(3)
Nguyễn Văn Trung :"Lược khảo văn học III, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1968. trang 173.

(1)
Nguyễn Văn Trung :"Lược khảo văn học III, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1968, trang 173.

6

Loại ý kiến thứ hai là ý kiến của các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương pháp so sánh
lịch sử để phân tích , đánh giá quan điểm của Hồ Xuân Hương về phụ nữ. Các bài viết theo
loạ ý kiến này ở những mức độ khác nhau đều đã khẳng định cái nhìn theo phương pháp ấy là
đúng đắn.
Hoa Bằng trong bài viết của mình , đã phân tích tư tưởng chống phong kiến, chống nam
quyền, chống những thành kiến khinh nữ của xã hội đương thời để tôn xứng Hồ Xuân Hương
là "Nhà thơ cách mạng".1TP6F
(1)
P1T Nhà thơ Xuân Diệu từ sự cảm nhận thơ Hồ Xuân Hương với lòng
yêu mến và trân trọng nhà thơ nữ độc đáo của dân tộc. đã đề cao Xuân Hương là mội người
phụ nữ "không đàn bà và rất đàn bà"1TP7F
(2)
P1T, là một "thiên tài kỳ nữ"1TP8F
(3)
P1T .Cũng cần phải nói như
Đặng Thanh Lê là Xuân Diệu trong bài viết nói trên của mình đã có chỗ đề cao quá đáng
tiếng nói bản năng nhục cảm trong thơ Hồ Xuân Hương khi ông có sức vẽ ra trước mắt mọi
người cái hình ảnh "Bô cu lởm ngổm bò trên bụng" mà Xuân Diệu cho là "kỳ lạ" là "tuyệt
diệu"1TP9F
(4)
P1T là "vô hạn sâu sắc"1TP10F
(4)
P1T . Nhìn nhận khách quan, ông Trần Thanh Mai đã chia thơ Hồ
Xuân Hương ra làm ba loai : "Một loại gồm những bài có tính tư tưởng cao và có phương
pháp nghệ thuật thanh nhã, một loại gồm những bài có yếu tố tục , những yếu tố đó nhằm

mục đích yêu cầu tiến bộ đả kích một tầng lớp nào, một thói hư tật xấu nào, hoặc nói lên mội
ý chí vươn lên của con người và loạii thứ ba gồm những bài có tính khiêu gợi không lành
mạnh , những bài có yếu tố dâm"1TP11F
(5)
P1T . Ông cho rằng trên mức độ này hay mức độ khác, nhân
tố tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương là có thật"1TP12F
(5)
P1T, nhưng theo ông "nó là một hiện tượng
xã hội , không phải là một. biểu hiện bệnh thái". Như vậy, ông Trần Thanh Mai đã không né
tránh những hạn chế của thơ Hồ Xuân Hương nhưng không rơi vào phân tâm học. Giáo sư
Nguyễn Lộc đã có nhận xét rất thú vị : "Hồ Xuân Hương là một người đầu tiên đưa vào văn
học giai đoan này" cô gái bình dân lừ cốt cách cho đến hình hài "thân em vừa trắng lại vừa
tròn. Bảy nổi, ba chìm với nước non". Những cô gái ấy , đối với họ cái quí nhất là sự hồn
nhiên là sống thỏai mái , không bị ràng buộc câu thúc bởi bất cứ một thế lực nào" Hồ Xuân
Hương đề cao những người phụ nữ ấy. Đó là nhân vật trung tâm , có mặt hay dấu mặt trong
hầu hết các bài thơ của bà và nhà thơ nhìn đời cũng chính bằng đôi mắt của những người phụ

(1)
Hoa bằng :"Hồ Xuân Hương nhà thơ cách mạng". Nhà xuất bản Bốn Phương Sài gòn. 1951.
(2)
(3) Xuân Diệu "Hô Xuân Hương - bà chúa thơ nôm" . Nhà xuất bản phổ Thông, 196. Dân ở cuốt cuốn các nhà
thơ cổ điển Việt Nam. Nhà xuất bản văn học 1987, trang 352 vả 373.

(4)
Đặng Thanh Lê "Góp thêm một tiếng, nói trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương", Tạp chí Ngliiên Cứu
Văn Học số 3 - l963.

(5)
Trần Thanh Mai "Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương" trong cuốn luận văn học" Nhà
xuất bản Tổng hợp Khánh Hòa. 1942 trang 41,42.



7

nữ ấy, nên bao giờ bà cũng tinh tường , sắc sảo và nghịch ngợm" 1TP13F
(1)
P1T . Ý kiến của giáo sư
Nguyễn Lộc gợi cho chúng tôi suy nghĩ là phải nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối
với người phụ nữ bằng cái nhìn của người phụ nữ bình dân chứ không phải bằng cái nhìn của
những đấng tu mi nam tử phong kiến. Giáo sư Lê Trí Viễn đã có các luận giải sâu sắc. Theo
giáo sư , đó là thái độ trân trọng trí tuệ, tài năng, đạo đức, cả cái đẹp thể hình của chị em.
Giáo sư khẳng định : "Từ sự sống gốc nguồn ấy , Hồ Xuân Hương tiến lên đứng về phía phụ
nữ mà làm trạng sư cho lịch sử. Vui đi tất cả giáo điều phong kiến và nho giáo về người phụ
nữ. Phải nhận thức lại, phải trả lại cho phụ nữ chân giá trị của họ về mọi mặt. Không có cái gì
là nam tôn , nữ ti cả. Hất đi cái thứ bất công xã hội ấy, trở lại với cái bình đẳng trong sự
sống"1TP14F
(2)

Nhìn nhận đánh giá về quan điểm thái độ của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ
như Hoa Bằng , Xuân Diệu , Văn Tân, Trần Thanh Mai nhất là như giáo sư Nguyễn Lộc và
giáo sư Lê Trí Viễn là hướng rất đúng cần được tiếp tục nghiên cứu để góp phần trả lại cho
phụ nữ chân giá trị của họ về mọi mặt như giáo sư Lê Trí Viễn đã khuyến nghị. Nghiên cứu
Hồ Xuân Hương và thi phẩm của nữ sĩ nói chung và nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân
Hương đối với người phụ nữ nói riêng vẫn đang là vấn đề hấp dẫn những ai yêu mến nhà thơ
nữ tài năng độc đáo của dân tộc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thực tiễn nghiên cứu về Hồ Xuân Hương cho chúng ta thấy rằng trong các công trình
nghiên cứu cùa mình. các nhà nghiên cứu đều đã coi Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ ,
tiếng nói trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói của người phụ nữ . Tuy thế, vẫn có những lời
đánh giá khác nhau , thậm chí trái ngược nhau. Do vậy, nhiệm vụ của luận án này phải lý giải

được lại sao Hồ Xuân Hương bênh vực ca ngợi bảo vệ phụ nữ và thái độ đó bắt nguồn từ đâu
? Hồ Xuân Hương đã tiếp thu những gì ở quan niệm âm dương của Dịch học, ở văn nghệ dân
gian, ở tín ngưỡng phồn thực, ở lễ thức văn hóa phồn thực của lễ hội dân gian, ở tư tưởng của
thời đại được thể hiện trong văn học đương thời và ở sự phê phán tư tưởng phong kiến Nho
giáo như thế nào khi nhìn nhận người phụ nữ trên cả hai bình diện tự nhiên và xã hội ?
Giải đáp những câu hỏi trên, chúng tôi chỉ có một ước muốn nhỏ là góp phần làm cho
mọi người tránh được cách nhìn sai lệch mà cảm nhận đúng cho lòng nhà thơ.

(1)
Nguyễn Lộc "Thơ Hồ Xuân Hương" Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội Xuất bản. 1986. trang 50-51.
(2)
Lê Trí Viễn "Thơ Hô Xuân Hương" "Trường Đại Học sư Phạm TP. Hồ Chí Minh ấn hành 1989, trang 23.

8

5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài dặt ra yêu cầu phải góp phần nhìn nhận quan điểm của Hồ Xuân Hương đối với
phụ nữ qua thơ của nữ sĩ. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài , chúng tôi chủ yếu sử
đụng phương pháp lịch sử , sau dó tiến hành phân tích tổng hợp đưa ra những nhận định ,
đánh giá. Theo phương pháp này, chúng tôi xem xét mối liên hệ tương đồng và dị biệt giữa
các yếu tố tác động đến quan điểm tư tưởng của Hồ Xuân Hương trong đó có tư tưởng tiến bộ
của nhân dân về người phụ nữ trong văn nghệ dân gian, trong lễ hội dân gian , trong thơ văn
các tác giả cùng thời. Chúng lôi đặt Hồ Xuân Hương vào hoàn cảnh xã hội cụ thể của giai
đoan lịch sử từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX để xem xét, đó là một giai
đoạn lịch sử đầy biến động trong đó khởi nghĩa nông dân thành phong trào rộng lớn, mãnh
liệt ; quật đổ hai tập đoàn thống trị phong kiến Đàng Ngoài - Đàng Trong, dấy lên một trào
lưu nhân đạo chủ nghĩa cao quý , chống lại bao nhiêu giáo điều phong kiến và Nho giáo .
Trào lưu tư tưởng tiến bộ ấy của thời đại đã ảnh hưởng đến văn học. Chúng tôi cũng kế thừa
những ý kiến hay trong các công trình nghiên cứu của những người đi trước , những bậc thầy
của chúng tôi trước khỉ đưa ra những ý kiến khiêm tốn của mình.

6. Bố cục của luận án:
Xác định lý do chọn đề tài, phạm vi nghiên cứu. lịch sử vấn đề nhiệm vụ và phương
pháp nghiên cứu như trên, bài viết của chúng tôi được trình bày theo trình tự dưới dây :
- Phần mở đầu .
- Chương I : Nêu lên những vấn đề về thời đại . cuộc đời và tác phẩm của Hồ Xuân
Hương liên quan đến cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ.
- Chương II : Cái nhìn của Hồ Xuân Hương trên bình diện tự nhiên.
- Chương III : Cái nhìn của Hồ Xuân Hương trên bình diện xã hội.
- Phần kết luận : Những ý kiến khẳng định vấn đề và ý nghĩa , tác dụng của việc nghiên
cứu đề tài đối với cuộc sống hiện nay. Vấn đề vừa mang tính thời đại, vừa mang tính hiện đại.

9

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THỜI ĐẠI, CUỘC ĐỜI VÀ TÁC
PHẨM CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG LIÊN QUAN ĐẾN CÁI NHÌN CỦA HỒ
XUÂN HƯƠNG ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ
1.1 Thời Hồ Xuân Hương và số phận người phụ nữ:
Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn xếp Hồ Xuân Hương vào giai đoạn lịch sử từ
nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, giai đoạn lịch sử Lẽ mạt-Nguyễn sơ , một
giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam.
Chế độ phong kiến Việt Nam không còn hưng thịnh một thời như ở thế kỷ XV nữa mà
nó dã bước vào thời kỳ khủng hỏang trầm trọng. Giai cấp thống trị phong kiến bộc lộ bản
chất xấu xa , đồi bại và phản động của chúng. Sự tranh giành quyền lực , ngai vàng trong nội
bộ giai cấp phong kiến thống trị trở nên gay gắt . Đã có cung vua lại còn phủ chúa. Đã có vua
Lê lại còn chúa Trịnh. Chúa Trịnh cát cứ Đàng Ngoài , Chúa Nguyễn cát cứ Đàng Trong. Vì
quyền lợi ích kỷ của tập đoàn , của dòng họ, các thế lực phong kiến thống trị đã đẩy đất nước
vào cảnh chiến tranh liên miên "nồi da nấu thịt, cốt nhục tương tàn". Người dân lao dộng vốn
đã bị bóc lột , ức hiếp , khốn khổ lại càng khốn khổ , điêu đứng. Trong khi nhân dân sống đau
khổ , bọn vua chúa phong kiến ăn chơi phóng đãng. Theo "Hoàng Lê Nhất Thống Chí", tiểu
thuyết lịch sử của Ngô Gia Văn phái, Lê Hiển Tông - là một ông vua bù nhìn , suốt ngày chỉ

bày trò mua vui với đám cung nữ. Có kẻ đến tâu vua về tình cảnh nhà vua bị nhà chúa chèn
ép quá đáng, Lê Hiển Tông chỉ đáp : "Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo ta hưởng cái
vui. Mất chúa cái lo về ta, ta còn vui gì ? ". Chúa Trịnh Sâm là một người "kiêu căng , xa xỉ ".
Khi mê Đặng Thị Huệ thì ăn chơi dâm đãng. Không chỉ Trịnh Sâm mà các chúa Trịnh đều
tuyển vào cung hàng trăm cung nữ và giam hãm họ trong tù ngục vàng son để phục vụ cuộc
sống dâm loạn của chúng, còn ông vua bán nước Lê Chiêu Thống thì người đương thời đã nói
"Nước Nam ta từ khi có đế vương đến nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn củi, đê hèn
đến như thế"
Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến thời Lê mạt - Nguyễn sơ đã làm cho ý thức hệ
phong kiến mà cốt lõi là thuyết "Tam cương , ngũ thường" của Nho giáo cũng nút rạn, đổ bể.
Hoàng Lê Nhất Thống Chí có thuật lại câu chuyện Lý Trần Quán , một viên quan lớn là thầy
học của Nguyễn Trang tiến cử Nguyễn Trang hộ vệ cho Đoan Nam Vương (Chúa Trịnh
Tông) trốn đi thì sau khi nhận lời Trang lại đi báo tin cho quân Tây Sơn. Quán hỏi Trang :"
Chúa là chúa chung của thiên hạ., ta lại là thầy của anh. Vua tôi là nghĩa lớn. Sao anh nỡ làm
như thế?" Trang đáp :"Quan lớn không bảo tôi trước, khiến tôi trót lầm đến gặp chúa. Nếu
chúa trốn thoát ở tay tôi , rồi nữa quân Nam đến Hỏi tội tôi , liệu quan lớn có thể biện bạch
hộ được không ? Sợ thầy chưa bằng sợ giặc , yêu chúa chưa bằng yêu thân mình. Tôi không

10

để quan lớn làm cho lầm lỡ đâu". Sách đã dẫn còn thuật lại" chuyện Nguyễn Cảnh Thước lột
áo bào của vua như sau : "Vũ Văn Nhậm ra Bắc năm 1789, Lê Chiêu Thống bỏ chạy qua
sông Như Nguyệt , vua phải nhờ viên Trấn thủ Nguyễn cảnh Thước cho đò chở qua và phải
để cho Thước mở hòm lấy 40 lạng vàng còn lại của vua. Vừa qua khỏi bến, Thước lại cho
người đuổi theo "lột chiếc áo ngự bào vua đang mặc, vua ứa nước mắt cởi chiếc áo ngự bào
trao cho chúng " Lý tưởng tôn quân là nguyên tắc hàng đầu của đạo đức giáo lý phong kiến
Nho giáo còn bị đổ vở như thế, còn nói gì đến "chính danh" "lễ", "nghĩa" . Đúng như Phạm
Đình Hổ đã nói : Đời suy thói tệ" "thế đạo ngày một sút kém", "danh phận lung tung", không
ai còn biết đâu mà phân biệt thuận với nghịch nữa"1TP15F
(1)

P1TBây giờ, nạn mua quan bán tước diễn ra
công nhiên. Người thường dù "bất tài, dốt nát nếu có đủ 2000 quan thì được bổ làm tri phủ ,
nộp đủ 1000 quan được bổ làm tri huyện"1TP16F
(2)
P1T.Chế độ phong kiến vạn ác, suy đồi ấy đã đẩy bao
người dân vô tội vào cuộc sống khốn cùng. Những cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp bùng
nổ mà đỉnh cao là phong trào Tây Sơn thể hiện thái độ phẫn nộ cùng cực đối với hiện thực
đen tối của chế độ phong kiến , và đòi quyền sống tự do hạnh phúc cho quần chúng nhân dân.
Tiếng nói chung ấy của thời đại đồng thời là tiếng nói chung trong văn học giai đoạn này, là
tiếng nói của nữ sĩ Hồ Xuân Hương . Vậy "Hồ Xuân Hương , người đó là ai"1TP17F
(3)

1.2 Hồ Xuân Hương - một nữ thi sĩ "độc đáo vô song"18F
(4)
một nhà thơ của phụ nữ:
Không phải ngẫu nhiên mà Hoàng Trung Thông viết :
"Hồ Xuân Hương người đó là ai
Người ta nói nhiều về
Hồ Xuân Hương Nhưng người đó là ai ?
Thật mỉa mai Không ai biết rõ
Như có như không, như không như có
Nàng ở làng Quỳnh
Nàng lại ở phường Khán Xuân Mờ mờ tỏ tỏ
Khi thì nói là con Hồ Phi Diễn
Khi thì lại bảo có em là Hồ Sĩ Đống"

(1)
Phạm Đình Hổ :"Vũ trung lũy bút" Nhà xuất bản Hà Nội, 1960.
(2)
"Hoàng Lê Nhất Thống Chi"' tập I Lời giới thiệu của lần xuất bản thử 3. trang 5.

(3)
Hoàng Trung Thông - thay lời tựa cuốn "Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục" của Đào Thái Tôn - Nhà
xuất bản Giáo dục 1995 , trang 8.
(4)
Nguyễn Lộc - Sách đà dẫn , trang 48.

11

Thật thế, tiểu sử cuộc đời Hồ Xuân Hương cho đến nay vẫn còn là một đề tài rất khó
khiến các nhà nghiên cứu, e phải "mòn lưng gảy bút" (chữ Phó Giáo sư Mai Quốc Liên) , bài
viết của chúng tôi không đi vào đề tài ấy mà chỉ nêu một số vấn đề xét ra có ảnh hưởng đến
tư tưởng Hồ Xuân Hương .
Thực ra, trước năm 1940, đã có nhiều người viết về tiểu sử và cuộc đời của Hồ Xuân
Hương nhưng cũng chỉ là vài nét chưa đầy đủ . Đến năm 1940, với "Việt vãn giáo khoa thư"
của Dương Quảng Hàm, chúng ta mới có một tiểu sử Hồ Xuân Hương với mấy nét cụ thể ,
ông viết : "Bà là con gái ông Hồ Phi Diễn người làng Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu , xứ
Nghệ An. Nhân ông Diễn ra dạy học ở Hải Dương lấy người thiếp ở đây sinh ra bà. Thân thế
của bả không có sách nào chép rõ. Nay ta chỉ xét thơ văn của bà mới biết được đại khái. Bà ở
về đời Lê mạt - Nguyễn sơ, cha mất sớm, mẹ cho đi học . Học giỏi thường hay lấy thơ văn
thử tài các văn nhân nho sĩ lúc bấy giờ. Có lẽ , cũng vì sự thử thách , kén chọn ấy cho nên
duyên phận long đong. Sau bà lấy lẽ một ông thủ khoa làm đến tri phủ Vĩnh Tường (nay
thuộc tỉnh Vĩnh Phú) nhưng được ít lâu sau vì gia cảnh lại phải lấy người cai tổng tục đanh là
Cóc. Không bao lâu ông Tổng Cóc cũng chết. Từ bấy giờ hình như bà chán nổi số phận hẩm
hiu nên thường đi chơi các nơi thắng cảnh và ngâm vịnh thơ ca để khuây khỏa nỗi buồn. Một
lần hình như bà cũng muốn đi tu, nhưng một người tài tình như bà không thể giam mình
trong chốn am thanh cảnh vắng nên bà lại thôi". Từ đó người ta chỉ lắp lại chữ không có ý
kiến nào khác. Mãi đến sau 1954, từ Văn Tân, Trần Thanh Mại đến Hồ Tuấn Niêm mới có
những phát hiện mới. Duy có một lời khẳng định của Lê Dư là người chồng của Xuân Hương
là tham hiệp An Quảng chưa ai để ý. Gần đây, sau Hoàng Xuân Hãn, cuốn "Thơ Hồ Xuân
Hương. Từ cội nguồn vào thế tục" của Đào Thái Tôn (Nhà xuất bản giáo dục 1995) đã nói rõ

thêm về tiểu sử Hồ Xuân Hương như sau : "Hồ Xuân Hương là con Hồ Sĩ Danh (1706-1783)
em cùng cha với Hồ Sĩ Đống (1738-1786) nguyên quán làng Quỳnh Đôi. huyện Quỳnh Lưu
tỉnh Nghệ An, Hồ Sĩ Danh đậu Hương Cống (cử nhân) năm 1732. Tuy không ra làm quan
nhưng vì có con làm quan to nên ông đã được phong tặng chức Hàn lâm thừa chỉ và hàm
Thái bảo. Kết hợp nguồn giai thoại và thư tịch, chúng ta có thể ứơc đoán mà không sợ lầm
lẫn rằng : bà mẹ sinh ra Hồ Xuân Hương người họ Hà vốn là một cô gái xứ Bắc chỉ làm hầu
thiếp của Hồ Sĩ Danh. Khi ông này mất, Hồ Xuân Hương còn quá nhỏ. Hai năm sau, Hồ Sĩ
Đống cũng mất, không còn nơi nương tựa, Hồ Xuân Hương được mẹ đưa ra đất Thăng Long.
Từ đấy hai mẹ con Cư ngụ2 tại phường Khán Xuân,huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội
bây giờ. Tại đây Hồ Xuân Hương được mẹ cho học hành, sau đó lại dời nhà về thôn Tiên Thị,
tổng Tiên Túc, Huyện Thọ xương, nay là phố Lý Quốc Sư-Hà Nội, Hồ Xuân Hương có một

12

ngôi nhà riêng bên Hồ Tây dặt tên là cổ Nguyệt đường (chữ cổ ghép với chữ Nguyệt thành
chữ Hồ)
Cổ Nguyệt đường có lẽ là phòng văn hay nơi ngồi dạy học của bà. Song chắc chắn đó
là nơi đã diễn ra các cuộc bình thơ thù tiếp bạn bè .
"Lưu hương ký", một tập thơ gan ruột của Hồ Xuân Hương, sẽ cho ta biết lại cổ
Nguyệt đường- ngoài khách văn chương là ông cần Chánh học sĩ Nguyễn hầu tức nhà thơ
Nguyễn Du nổi tiếng, tác giả Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương còn thù tiếp nhiều bạn văn nhân
khác nữa. Đó là Mai Sơn phủ, Tốn Phong Thị, Thạch Đình, Cư Đình, Chi Hiên, Thanh Liên,
ông Hiệp Trấn Sơn, Nam thượng Trần Ngọc Quán, Hiệp Trấn Sơn Nam hạ Trần Quang
Tỉnh
Hầu hết những người này đều để lại dấu vết trong các bài thơ xướng họa của Hồ Xuân
Hương trong "Lưu hương ký"
Theo chúng tôi, lý giải để xác định Hồ Xuân Hương là con của Hồ Sĩ Danh là đáng tin
cậy hơn. Trước Đào Thái Tôn, ông Văn Tân và ông Trần Thanh Mại trong các bài viết của
mình cũng đã xác định Hồ Xuân Hương là con của ông Hồ Sĩ Danh. Còn ông Dương Quảng
Hàm cho Hồ Xuân Hương là con của ông Hồ Phỉ Diễn thì chúng tôi thấy còn đáng nghi vì chỉ

trông vào trí nhớ của người ở nơi thôn dã chứ không dựa vào tư liệu nào.
Ngay năm sinh, ngày mất của Hồ Xuân Hương cho đến bấy giờ cũng chưa được xác
định. Ông Trần Thanh Mại trong bài " Trở lại vấn dề Hồ Xuân Hương" ( Tạp chí Văn học,
tháng 17/06/1964) đã dựa vào năm sinh, năm mất của Hồ Sĩ Danh (1906-1983) để đoan năm
sinh của Hồ Xuân Hương là vào khoảng 1755-1760 '. Ngày mất của Hồ Xuân Hương cũng
chỉ biết chắc là trước năm 1842 còn cụ thể năm nào thì không rõ. Vì cũng năm 1842, Tùng
Thiện vưởng Miên Thẩm (em trai của vua Thiệu Trị ) hộ giá Thiệu Trị ra Bắc, khỉ đi qua mộ
Hồ Xuân Hương, có làm bài thơ "Long Biên trúc chi tự", trong đó có hai câu :
Mạc hướng Xuân Hương phần thượng quá
Tuyền đài do hận thác khiên ti
Nghĩa là: Chớ dẫm lên mộ Xuân Hương, dưới suối vàng nàng còn ôm hận rút nhầm tơ (
duyên)
Ở tác phẩm "Xuân đường đàm thoại" viết năm 1869 có chép lại một câu chuyện trong
đó có nói tới một người tên là Xuân Hương làm nghề kỹ nữ vừa mới chết để lại xúc cảm khác
nhau cho người đời. Chưa có cơ sở nào để nói rằng Xuân Hương này với Hồ Xuân Hương là
một .

13

Chính vì những chi tiết nói trên mà chúng ta thấy ở cuộc đời Hồ Xuân Hương có cái gì
đó mang tính huyền thoại : " mờ mờ tỏ tỏ, như có như không, như không như có". Tuy vậy,
đến nay, dựa vào các tư liệu mà chúng ta có được, chúng ta thấy có một Hồ Xuân Hương
thật, một phụ nữ xuất thân trong gia đình phong kiến có học, hay thơ, tài hoa, không thuận
buồm xuôi gió trong tình duyên, long đong trong đường đời với thân phận phụ nữ " bảy nổi
ba chìm", "hẩm hiu", nhưng không cam chịu,không an phận. Hồ Xuân Hương luôn muốn hất
tung một cái gì đó đang đè nặng, trói buộc quyền sống tự do,quyền được hưởng hạnh phúc
của phụ nữ . Hồ Xuân Hương làm thơ chữ nôm và chữ Hán để "tự tình", để bênh vực người
phụ nữ. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ .
1.3 Thơ nôm truyền tụng và tập thơ "Lưu hương ký", những thi phẩm lưu
truyền và tâm huyết của Hồ Xuân Hương:

1.3.1 Thơ nôm truyền tụng:
Lần đầu tiên, thơ Hồ Xuân Hương được sưu tập, xuất bản bằng chữ quốc ngữ là tập
"Hồ Xuân Hương thi tập" (Nhà xuất bản Xuân Lan, Hà Nội, 1913). Phải sưu tập thơ nôm
truyền tụng vì như Đào Thái Tôn, người có công nghiên cứu văn bản thơ Hồ Xuân Hương dã
nêu ý kiến : "Trong một thời gian rất dài, thơ Hồ Xuân Hương chỉ tồn tại trong ký ức của mọi
người và lưu hành bằng con đường truyền miệng giống như phương thức lưu hành của văn
học dân gian. Cho nên không nghi ngờ gì cả, thơ Hồ Xuân Hương hoặc nhiều hoặc ít đã bị
"nhuận sắc" thêm bớt, mô phỏng, bắt chước "1TP19F
(1)
P1T. Gần dây nhất, Nhà xuất bản Văn học xuất
bản tập - "Thơ Hồ Xuân Hương" -do Giáo sư Nguyễn Lộc viết lời giới thiệu vào năm 1982 và
tập "Hồ Xuân Hương- thơ và đời" do Lữ Huy Nguyên viết lời giới thiệu 1996 .
Ở hai tập sách này, số bài thơ nôm được tuyển chọn và giới thiệu của Nhà xuất bản Văn
học và của cả hai tác giả đều được coi là của Hồ Xuân Hương, kể cả số bài thơ nôm mà ở
cuốn "Thơ Hồ Xuân Hương" do giáo sư Nguyễn Lộc đưa vào phần phụ lục. Chỉ khác một
cho là bài " Qua sông phụ sóng" không thấy đưa vào trong lần xuất bản năm 1996 ở cuốn
"Hồ Xuân Hương-thơ và đời". Chưa rõ nguyên nhân. Phải chăng bài thơ này có một số từ tục,
thô lỗ, nghỉ không phải của Hồ Xuân Hương vì Hồ Xuân Hương không dùng từ " tục" đến
như thế trong thơ. Chúng tôi nghỉ có lẽ bài này không phải của Hồ Xuân Hương. Vì khi sử
dụng yếu tố tục để chế giễu, đả kích một đối tượng nào đó, Hồ Xuân Hương Sử dụng thủ
pháp dùng từ nói lái hoặc dùng "nghĩa ngầm" chứ không đùng từ thô tục, trần trụi như trong
bài "Qua sông phụ sóng". Như chúng tôi đã xác định, ở bài viết này chúng tôi không bàn về
văn bản thơ mà chỉ sử dụng những bài thơ mà Nhà xuất bản Văn học xác nhận là của Hồ

(1)
Đào Thái Tôn - Thơ Hồ Xuân Hương - Từ cội nguồn vào thế tục", Nhà xuất bản Giáo dục . 1995, trang 31.

14

Xuân Hương để nghiên cứu vấn đề mà bài viết đặt ra. Chúng tôi thiển nghĩ Nhà xuất bản Văn

học đã có cần nhắc với chức năng của mình trong việc xác đinh và tuyến thơ của Hồ Xuân
Hương .
1.3.2 Tập thơ "Lưu hương ký":
Tập thơ "Lưu hương ký" của Hồ Xuân Hương do Nham Giác Phu Tốn Phong Thị viết
lời tựa năm 1814, từng được ông Trần Thanh Mại giới thiệu trên mặt báo năm 19641TP20F
(1)
P1T .Cụ
Nguyễn Văn Tú, cử nhân Hán học, người xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường tỉnh Nam
Định đã cung cấp cho ông Trân Thanh Mại. Ở tờ đầu có đề rõ : "Lưu hương ký,Hoan Trung,
cổ Nguyệt đường Xuân Hương nữ sĩ tập". Sau khi "Lưu hương ký" được phát hiện,giữa thơ
nôm truyền tụng được coi là của Hồ Xuân Hương và " Lưu hương ký là của Hồ Xuân Hương
có những ý tranh luận. Hai phần thơ này có cùng là một tác gia là Hồ Xuân Hương ? Vì nếu
dựa vào phong cách nhà thơ để phân loại thì quả thật có sự khác nhau. Do vậy, chưa biết lấy
phần thơ nào làm "hệ quy chiếu" cho phần thơ nào. Vấn đề này là một đề tài lý thú mà Giáo
sư Nguyễn Lộc và nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn đã nêu lên. ở đây, chúng tôi coi "Lưu
hương ký" là của Hồ Xuân Hương để sử dụng vì rõ ràng "Lưu hương ký" đã được nhiều tư
liệu khẳng dinh. Hầu hết các bài thơ trong tập thơ này là thơ xướng họa. thù tạc, phần lớn Hồ
Xuân Hương làm để tặng bạn thơ của mình như : Tốn Phong Thị, Mai Sơn Phủ, Hiệp trấn
Sơn Nam thượng- họ Trần, đặc biệt là cần chánh học sĩ Nguyễn hầu ở Tiên Điền (tức nhà thơ
Nguyễn Du tác giả Truyện Kiều). Đây là phần thơ trữ tình biểu hiện những tình cảm đẹp của
Hồ Xuân Hương trong tình bạn tình yêu, vẻ dẹp mà nữ sĩ trân trọng, ngợi ca. Nghiên cứu
phần thơ này, nói như Đào Thái Tôn là "cho ta hình dung rõ nét hơn về phẩm cách cuộc đời
nữ sĩ" .
Con người ấy quả có một cuộc đời nhiều nét ngoài bình thường. Khi nói đến thời dại có
kết lại là tiếng nói vang lên suốt mấy mươi năm oanh liệt và đau thương là tiếng phẫn nộ và
đấu tranh của quần chúng bé nhỏ đã đứng lên khẳng định vai trò của mình trước lịch sử.
Đứng lên bằng gươm dáo là để đòi lấy cơm áo và công lý, tự do. Đói khổ và ràng buộc là
không sao chịu nổi. Phải đòi lấy quyền được sống cả vật chất lẫn linh thần. Đi đầu trong đấu
tranh với bè lũ thống trị thối nát của Lê Trịnh ở Đàng Ngoai và chúa Nguyễn ở Đàng Trong
trước hết là những anh hùng áo vải từ Nguyễn Hữu cầu đến Nguyễn Huệ. Nhưng bên cạnh,

lịch sử còn ghi không ít lên tuổi phụ nữ tiếng tâm lừng lẫy. Trên chiến trường là những Bùi
Thị Xuân , vợ ba Cai Vàng , nữ tướng người dân tộc chỉ huy đoàn voi chiến Tây Sơn. Trên
văn đàn là những Đoàn Thị Điểm , Ngọc Hân , Hồ Xuân Hương, trước dó là Phạm Lam Anh

(1)
Trần Thanh Mai - "Bản Lưu hương ký và lai lịch phát hiện nó". Tạp chí Văn học, số 11.1964

15

, về sau là Nguyễn Thị Hinh (xưa nay quen gọi là Bà Huyện Thanh Quan) ở lĩnh vực tiết
liệt là Phan Thị Thuấn, Trương Quỳnh Như chắc không phải ngẫu nhiên mà nhiều phụ nữ
anh hùng và tài danh. nghĩa khí như thế lại có mặt vào những thập kỷ này'. Không có lẽ nào
khác ngoài tình trạng họ là tầng lớp bị áp bức nặng nề nhất, lâu đời nhất , cả bị bóc lột từ lao
động đến thể xác một cách thê thảm , tàn ác nhất , bị trói buộc bới đủ thứ xiềng xích của lễ
giáo. Và đến thời này, sự tình đã tới cùng cực và bùng nổ.
Hồ Xuân Hương coi như là một hiện tượng khá tiêu biểu cho sự bùng nổ ấy. Trong xã
hội khi thực trạng đời sống bị hãm vào mâu thuần gay gắt không cách gì điều hòa được giữa
tầng lớp thống trị với quần chúng nhân dân thì từ trong quần chúng ấy sẽ có người nhạy cảm
nhất hành động chống lại. xã hội sẽ cho họ là con người "nổi loạn" , và nếu kẻ ấy là nhà văn
thì lịch sử vãn học cũng gọi họ là một tâm hồn "nổi loạn". Hiểu như vậy. nữ" sĩ họ Hồ e cũng
là mội trái tim đồng điệu.
Cuộc dời còn nhiều sương mù bao phủ như của nữ sĩ đang còn thiếu cân bằng lắm chỗ.
Tiếng là con danh giá khoa hoạn nhưng là phận con bậc thiếp , hầu, khi cảnh gia đình sa sút
ắt mẹ con phải bồng bế nhau ra đi sống cuộc đời lỡ nọ, lỡ kia, hụt hẩng, khó bình thường.
Trong lời tựa của mình , Tốn Phong khi nhắc đến điểm tung tích Xuân Hương nghe có giọng
vừa kính nể vừa e ngại, bới cớ khi nhắc tới không ích gì mà có thể gợi lên những điều không
vui. Hại thay, Xuân Hương lại thông minh , sắc sảo hơn người, có tài lớn. Đặc biệt có bản
lĩnh vượt xa bạn khăn yếm. Truyền là Xuân Hương được học ít vì mẹ nghèo, nhưng sức uyên
thâm chữ Hán thì riêng một vài điển tích trong Liêu Trai Xuân Hương dùng rất đắt trong thơ
chữ Hán đủ làm bằng chứng. Sống một mình với mẹ già, chưa chồng con gì mà nhà đón đến

hàng loạt bạn thơ, bạn tình mà toan là trí thức bậc cao và quan lo cả, đã là lạ. Lại coi mình
ngang hàng với họ , ngang vai chữ nghĩa, thơ phú, có khi còn sắc sảo hơn họ, nhưng trong
chiều sâu và là thực tế đau xót của nữ nhi thì dù sao cũng không trốn dược phận gái và chưa
chổng của mình. nên vẫn có gì đó mất cân bằng trong tư cách, trong tâm hồn khiến vui cười
bên ngoài mà buồn bên trong. Nếu kể đến chuyện duyên nợ chồng con, tin một điều chắc
chắn nhất là Xuân Hương lấy lẽ Trần Phúc Hiển tham hiệp An Quảng, sống hạnh phúc với
nhau được vài năm thì chồng bị tử hình vì một tội chẳng sạch sẽ gì , thực tế đó quá ư phủ
phàng, khiến tâm hồn Xuân Hương không đến điên loạn là may, còn hụt hẩng , chới với rồi
lập lại được thăng bằng để sống được thật không dễ gì.
Phận số như vậy nhà thơ làm sao không thương mình và nhìn quanh chị em , làm sao
không thương cho tất cả. Làm thơ cho mình và làm thơ cho chị em rất ân tình là rõ. 40 bài
"thơ Hồ Xuân Hương" của giáo sư Nguyễn Lộc (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1987) có đến

16

22 bài thơ nói về phụ nữ. Còn "Lưu hương ký" thì toàn bộ là một tập thơ tình yêu. là mọi
nỗi lòng của tác giả trong trường tình. Như vậy nữ sĩ là nhà thơ của phụ nữ là thực tế. Hai
mươi hai bài ấy chưa bao trùm mọi tình cảm chị em từng gặp phải trong đời nhưng cũng
không ít những cảnh ngộ đáng thương. Có điểm vui và tinh nghịch bởi người thợ vẽ vô tình,
có điệu dở dang nên hóa dũng cảm thách thức , có nỗi đau mất mát, có lời khuyên vợ chồng
đứt gãy, có nhìn đá thành người có cô đơn khuya khoắt trốnq canh dờn, có lời than số phận
bập bềnh, có nỗi trống vắng sau cuộc vui xuân Đâu đâu cũng tấm lòng chia sẽ , đằm thám ,
nhân hậu. Mội đằng thương thì lại một đằng ghét. Ghét bọn giả đạo đức dù là quân tử. sư hay
quan.
Đó là lời nói về phụ nữ. Còn 18 bài thơ kia là những gì ? toàn là cảnh thiên nhiên, vật
thiên nhiên , vật dùng trong nhà. Nhưng sao lại ghép vào đấy một hình ảnh ngầm rất kỳ lạ,
khiến người đọc liên tưởng lôi thôi đến này nọ. Lại dùng một ngôn ngữ còn kỳ lạ hơn. Tất cả
điều như bất bình thường các nhà nghiên cứu trái ý nhau là chỗ này, đồng thanh ca tụng tài
nghệ dùng tiếng việt cũng ở đây. Có kẻ muốn thấy một cái gì quá mức thì lại lạc đường. Phải
chăng ở đây còn có một sự mất cân bằng ở một dạng khác ? Và đó là một trạng thái "bệnh

hậu" sau "trận đau" thập tử nhất sinh cho đời mình. trận đau không bao giờ lành được.
Có phải mấy điều trên đây rút ra từ thời đại , từ cuộc đời. từ thơ của Xuân Hương là
"phẩm cách cuộc đời" nữ sĩ, cuộc đời một nhà thơ phụ nữ "độc đáo vô song" ?.


17

CHƯƠNG 2: CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG TRÊN BÌNH DIỆN
TỰ NHIÊN
Đối với phụ nữ, Hồ Xuân Hương có một cái nhìn riêng, không giống ai. Cái nhìn ấy bắt
nguồn từ thời đại nhà thơ sống và từ cuộc đời mình, như trên kia đã nói qua. Về tính chất, đó
là cái nhìn nhân đạo chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác Lênin coi con người "không chỉ là một sinh thế tự nhiên mà còn là một
sinh thể tự nhiên có tính người, tức là tồn lại cho chính nó". Do dó, con người "phải biểu lộ
và khẳng định như là một sinh thể đặc chủng trong tồn tại của nó và trong tri thức của nó"
Trường Chinh cũng viết. : "Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa phấn đấu vì tự do, hạnh
phúc của con người, tin ở phẩm chất và lý trí của con người, tạo mọi điều kiện cho con người
phát triển tự do và tòan diện . làm cho con người thực sự làm chủ vận mệnh của mình và làm
chủ tự nhiên" 1TP21F
(1)
P1T. Cũng nói theo sách ấy và hiểu một cách dơn giản thì "trong từng hình thái
xã hội, bất kỳ cái gì tôn trọng, tin tưởng, ca ngợi, đề cao , bảo vệ, phát huy, phát triển con
người , cái đó là nhân đạo , còn ngược lại là vô nhân đạo1TP22F
(2)
P1T. Hiểu như vậy thì con người vừa
là sinh thể tự nhiên đồng thời là một sinh thể xã hội. cho nên , có thể xem xét cái nhìn nhân
đạo chủ nghĩa ở hai bình diện tự nhiên và bình diện xã hội .
Cái nhìn trên bình diện tự nhiên đối với phụ nữ sẽ được xem xét trong mối quan hệ âm
dương , trong tín ngưỡng phồn thực và trong sự sống nói chung.
Kinh Dịch xây dựng trên quan niệm âm dương. Quan niệm âm dương của người Trung

Hoa làm cơ sở cho triết học cổ Trung Hoa, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân tộc Trung
Hoa hàng mấy nghìn năm nay. Trong sự giao lưu văn hóa, do hoàn cảnh địa lý lịch sử, quan
niệm âm dương của Dịch học cũng đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của nước ta.
Theo Nguyễn Hiến Lê trong cuốn "Kinh Dịch đạo của người quân tử" (Nhà xuất bản
Văn học, 1994) thì các nhà nguyên ngữ học Trung Hoa đã cho biết chữ Dương và chữ. Âm có
hình thức và nghĩa mới đầu như sau :
Chữ Dương ban đầu :
Chữ Dương bây giờ :
Bên trái là sườn núi, bên phải là mặt trời lên khỏi chân trời dưới là những tia nắng.
Chữ Dương chỉ ánh nắng, chỉ phía sáng.
Chữ Âm ban đầu :

(1)
Mác Anghcn, trích lác phẩm thời kỳ đầu trang 550 -598. Dẫn theo cuốn Đặc điểm có tính qui luật của lịch sử
văn học Việt Nam - Lê Trí viên Đại Học sư Phạm Xuất bản 1984. trang 185.
(2)
Dẫn theo sách Đặc điểm có tính qui luật trang 185.

18

Chữ Âm bây giờ :
Bên trái là sưởi núi, bên phải phía trên là nóc nhà phía dưới là đám mây
Chữ Âm chỉ phía mặt trời bị che khuất không có ánh sáng, chỉ phía tối.
Phía có ánh sáng thì ấm áp, cây cối tươi tốt. phía không có ánh nắng thì lạnh lẽo, cây
cối không phát triển, do đó âm dương từ cái nghĩa tối sáng chuyển qua nghĩa lạnh nóng, đêm
ngày, mùa đông mùa hè, mặt trăng mặt trời, chết sống, yến mạnh. mềm cứng, giống cái giống
đực
Theo quan niệm trong kinh Dịch, nguồn gốc của vũ trụ là Thái cực. Thái cực có nghĩa
là lớn hơn hết, cao hơn hết, trước hơn hết. Nó là cái khí Liên nhiên, một thứ linh căn bất sinh
bất diệt, huyền diệu, trong đó tiềm phục hai nguyên tố ngược nhau về tính chất : Âm và

Dương. Đây là quan niệm tiến bộ so với quan niệm cho rằng Thượng Đế sinh ra và làm chủ
vũ trụ. Như vậy Âm Dương được thống nhất mới thành vũ trụ. Đó cũng là nhất nguyên luận
trong quan niệm về vũ trụ của Dịch. Âm Dương tuy tương phản nhưng cũng tương ứng,
tương cầu. tương giao. có tương giao mới có tương thôi. tương ma, Lương thế để tương thành
: có cái này thì mới có cái kia, có cái này thì cái kia mới làm tròn nhiệm vụ của nó trong vũ
trụ, trong đó sự tương giao là quan trọng nhất : giống đực giống cái cả trời đất nữa (vì trời đất
cũng là âm dương) có giao cảm với nhau rồi mới có vạn vật, vạn vật mới sinh nở biến hóa
được . Cho nên không thể có dương mà không có âm, không thể có sống mà không có chết,
có giống đực mà không có giống cái . Phải có đủ cả hai thì mới thành một hiện tượng được,
mới thành vũ trụ được.
Một trong những vấn đề mà Dịch quan tâm tới nhất. là vấn đề nam nữ, vợ chồng. Vì nó
là "thíên địa chi đại nghĩa " có âm dương, nam nữ, mới có vợ chồng, gia đình và xã hội. Tìm
hiểu thơ Hồ Xuân Hương, chúng ta thấy nữ sĩ có tiếp nhận quan niệm âm dương, nhìn nhận
phụ nữ trong quan niệm âm dương của Dịch học.
Chúng ta có thể cảm nhận một điều là nữ sĩ thường nói về người phụ nữ trong quan hệ
với người đàn ông ở các bình diện khác nhau. Trước hết là thơ nữ sĩ nói về chuyện giao phối
giữa nam giới với phụ nữ . Nói trực tiếp là nói "Năm thì mười họa hay chăng chớ. Một tháng
đôi lần có cũng không" nói gián tiếp là nói bằng các "nghĩa ngầm" qua các bài thơ nói về sự
việc : Đánh đu, Dệt cửu, Trống thưng, Đá ông Chồng bà Chồng Chính ở điểm này mà
có một số người cho rằng Hồ Xuân Hương "khủng hoang tình dục". Họ cho rằng Hồ Xuân
Hương trẻ đẹp. đầy sức sống nhưng tình duyên trác trở, thèm khát nhục dục, mà viết nên
những bài thơ dâm ấy, kỳ thực không phải như thế. Không có sự tương giao giữa âm và
dương.

19

không có sự phối hợp giữa giống cái và giống đực, thì sự sống không sinh sôi nảy nở
được. Bởi sự sống bắt đầu từ sự phối hợp giữa âm và dương, giữa người phụ nữ với người
đàn ông.
Bài "Đánh đu" trước đã có trong Hồng Đức quốc âm thi tập, nhưng bài đó khác hẳn ,

nó có tính chất nghỉ lễ, còn ở Xuân Hương đó là một bức tranh chơi xuân , trong đó đánh đu
là một sinh hoạt vừa có ý nghĩa thể thao vừa có ý nghĩa thẩm mĩ, vui và đẹp. Các câu 3,4,5,6
đều miêu tả cảnh cặp trai gái đang nhún nhảy bay bổng trên không nhịp nhàng, từ da thịt , tư
thế của "hai hàng chân ngọc duỗi song song" đến màu sắc tung bay của "bốn mảnh quần
hồng" điểm thêm một cách vừa hiện thực vừa tượng trưng các nét mỹ thuật của "trai du gối
hạc khom khom cật" và "gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng" thành một hoạt cảnh trẻ trung ,
vui tươi , khỏe mạnh, tràn đầy sức xuân , tràn đầy sức sống. Tác giả bất ngờ gởi vào đó một
chút gợi ý cho ta liên tưởng đến động tác tính giao (có khỉ đây chỉ là sự gán ghép của độc giả
phàm tục chứ người làm thơ, thêu dệt một bức gấm như vậy liệu có ý gì quanh co ?) nhưng
khách quan chữ nghĩa cứ như thôi miên, không liên tưởng vậy thì không được.
"Dệt cửi" thì hơi lõa lồ, thô tục vì hình tượng hơi trơ trụi : "hai chân đạp xuống, một
suối đâm ngang" nghe gần sự thật quá. "Trống thủng" cũng vậy, khó lòng mà thanh tao
được.
"Đá ông chồng bà chồng" đã hay lại quí. Đá thành người và người đang yêu nhau ở
đỉnh điểm. Mà lại là ông và bà, những người già. Tưởng tượng của thi nhân thật đẹp và bao
dung biết bao ! Bên trên là "đầu bạc" nhưng bên dưới vẫn "má hồng" , vẫn trẻ trung. Cho nên
"Gan nghĩa giải ra" và "Khối tình co mãi" vẫn là chuyện đá vàng muôn thuở không kể tuổi
tác vì tình yêu không có tuổi. Và câu kết là một lời tuyên bố cho muôn thế hệ tuổi trẻ : cứ yêu
nhau đi, ai nở trách. Lời thơ thanh tao, trong suốt chỉ trừ vài chữ "dưới và "trên".
Cái nhìn đối với phụ nữ trong mối quan hệ âm dương ấy đưa ta đến gần với tín ngưỡng
phồn thực là một tính ngưỡng thời nguyên thủy xa xưa.
Thời nguyên thủy, khỉ con người định cư bước vào giai đoan trồng trọt, chăn nuôi, nhu
cầu luôn cấp bách của cộng đồng là kết quả của trồng trọt và chăn nuôi ấy . lương thực phẩm
trông vào đó. Lần hồi kinh nghiệm tích lũy được cho thấy cây hoặc con gì , muốn được nhân
lên dể có số nhiều thì không ngoài sự phối hợp cái với đực. trống với mái. Bắt đầu từ con
người cũng vậy . Tín ngưỡng thần linh nâng việc phối hợp đực cái , trống mái ấy thành tín
ngưỡng thiêng liêng, sự thờ cúng sinh thực khí ra dời. Hơn thế , tín ngưỡng ấy còn được thực
hành trong lễ hội vừa vui chơi vừa có tính cách nghi lễ. Các cặp trai gái giao hợp nhau trên
nắp thạp Đào Thịnh ngày nay còn giữ được là vết tích hùng hồn về nghi lễ thời cộng đồng xa


20

xưa ở nước ta. Ý nghĩa của nó chẳng qua là cầu chúc, khấn vái thần linh sao cho trong trồng
trọt, chăn nuôi luôn có sự phối hợp hai giống ấy để cho con và cây được sinh sôi nảy nở ngày
càng nhiều và chẳng bao giờ ngừng.
Kỳ thực tín ngưỡng này không riêng gì ở nước ta mà có mặt khắp thế giới.
Ở Hy Lạp cổ đại có tục rước sinh thực khí trong lễ thờ cúng thần Dyonisos là vị thần
rượu nho rất dũng mãnh, người làm cho đất đai màu mỡ, đem lại cho con người niềm vui
sống và sự yêu đời. Đây là một lễ rước rất long trọng ở thành Aten. Sinh thực khí được quan
niệm là nguồn gốc sự sống, của sự sinh thành và phát triển.
Trong tư duy chất phác của người Trung Quốc xưa chữ "tổ" trong tổ tiên của Hán tự là
vẽ hình dương vật:
Sau này người ta mới thêm vào bộ thị : với ý nghĩainh thiên để thành chữ "tổ"
ngày nay1TP23F
(1)

Theo tư duy đó, dương vật là nơi xuất phát và duy trì sự sống. Nó xuất hiện ở khắp nơi,
tạo ra thứ tín ngưỡng thờ dương vật. Ở Ấn Độ (linga là hiện thân của thần Civa) và đạo thờ
Civa được phổ biến ở các nước Mỉanma, Thái Lan. Malaysia, Indonesia, Cambuchia Và
người Chăm nước ta. Từ lâu, nước ta đã có các hình thức tổ chức các lễ hội dân gian. Đặc
biệt, về sự phối hợp giữa hai giống đực cái, trống mái để cầu chúc cho sự sản xuất được sinh
sôi tăng trưởng nhanh chóng, lễ hội dân gian nước ta vẫn bảo tồn và truyền lại cổ tục mang
tính phồn thực. Ngày lễ, sự phối hợp ấy được tượng trưng bằng sự giao hòa nam nữ. Có khi
chỉ thể hiện một cách nhẹ nhàng bằng đôi con giống ấp nhau nhưng cũng có khi chọn một đôi
trai gái thanh tân cho giao hợp tượng trưng. Từ đó có trò bắt chạch trong chum. Trò ấy được
tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm ở làng Văn Trung (Vĩnh Tường - Vĩnh Yên).
Trong khi thi, một đôi trai gái ôm nhau. Con gái ôm lưng con trai bằng tay phải, bắt chạch
bằng tay trái nắm lấy nhũ hoa của người con gái. trong lúc bắt chạch, họ không được buông
nhau, nếu buông nhau thì thua cuộc. Tục "tắt đèn" cũng vậy.
Tục này được tổ chức rất nhiều nơi như ở lễ hội Chùa Hương, ở làng La Khê Nam

(Hoai Đức - Hà Tây), làng Ngô Xá (Võ Giàng - Bắc Ninh), xã Đông Yên (Bắc Ninh) Lễ
hội tiến hành thì đến một lúc nào đó đèn đột nhiên tắt hết để cho trai gái sờ sọang, đùa
nghịch với nhau, muốn làm gì thì làm. "Tục lệ này cho phép con người trở lại với tính tự
nhiên trong một thời gian ngắn dựa trên một thần tích kỳ quặc. Riêng ở xã Đan Nhiễm (Bắc
Ninh) cũng có tục "Tắt đèn" nhưng trong lúc đèn tắt trai giả làm cọp để ôm các cô gái và cắn

(1)
Đinh Gia Khánh Văn hóa dân gian .Việt Nam trong bối cảnh Văn hóa Đông Nam Á. Nhà xuất bản khoa học
xã hội - Hà Nội trang 172

21

"Họ ôm nhau rất lâu đến 5-10 phút", rồi đèn lại được thắp sáng lên. Trai gái trở lại cùng nhau
nghiêm chỉnh ngồi nghe hát.
Ngoài ra, còn các cổ tục khác như rước sinh thực khí ở làng Đông Kỵ (Từ Sơn - Bắc
Ninh). Người ta rước từ đình về miếu hay từ miếu về đình hai lễ vật bằng gỗ tượng trưng cho
sinh thực khí âm - dương.
Người dẫn đầu hát :
Cái sự làm sao cái sự làm vẩy
Cái sự thế này cái sự làm sao.
Đồng thời làm những động tác đưa hai sinh thực khí vào nhau như hoạt động giao hợp
gọi là vũ điệu âm - dương.
Đặc biệt hơn cả là lễ hội múa mo ở xã Đông Sơn (Hà Tây) vào ngày 6 tháng 2 âm lịch
hàng năm. Sau khi cúng thần bằng bánh dầy, bánh cuốn xong. các chàng trai cô gái chưa có
gia đình tập trung tại đình để nghe một ca nhi một tay cầm mo cau, một tay cầm khúc tre
(tượng trưng cho sinh thực khí âm và sinh thực khí dương) vừa múa vừa hát. Hát xong, ca nhi
tung khúc tre lên. Cô gái nào cướp được khúc tre ấy thì sẽ gặp may mắn trong tình duyên và
sẽ được các thần linh che chở. Vì vậy, nếu chàng trai nào yêu thương và ái ân với cô gái đến
mang thai thì được làng thưởng tiền. Trong thời gian ba tháng, trai gái trong làng được tự do
luyến ái. Cô nào có thai được thưởng ba quan tiền. Các chàng trai cưới vợ không phải nộp

tiền cheo. Nhưng sau ba tháng, mọi tự do luyến ái phải chấm dứt, nếu cô nào có thai sau dó
phải chịu hình phạt của luật lệ.
Từ các hình thức lễ hội trên chúng ta có thể thấy rằng : trong thời gian lễ hội, một "cuộc
sống thứ hai" đã được thiết lập, trong đó cho phép có những cuộc "ngẫu hợp kỳ lạ" mà sau
dó, những đứa trẻ sinh ra được thừa nhận hợp pháp, cha mẹ những đứa trẻ này không bị "gọi
tóc bôi vôi" mà còn được thưởng tiền. ở nước ta, lễ thức: phồn thực ấy đã có cách đây 3.000
năm. Trên nắp thạp đồng Đào Thịnh, các nghệ nhân đã đúc hình bốn cặp nam nữ đang giao
cấu.
Đáng chú ý là chuyện ông Đùng bà Đà trong công đồng người Mường và người Việt. Ở
Hòa Bình hiện nay vần còn thờ sinh thực khí ông Dùng với một loạt truyện ông Đùng ngăn
sông chống hạn, săn bắn thú dữ, diệt chim ác ; ở xã Lạng Sơn huyện Kim Bôi, Hòa Bình
người ta thờ hòn đá rất to gọi là hòn d ông Đùng trong cái hang gọi là hang Đùng , người
ta kể rằng xưa kia ông Đùng từ trên trời rơi xuống, gặp bà Đà và hai người đưa nhau vào
hang dộng giao hợp với nhau , cuộc giao hoan làm rung chuyển trời đất sinh ra mưa to gió

22

lớn , nước từ hang đùng chảy ra tưới cho cánh đồng Mường Vang , Mường vó (Sách đã dẫn
trang 175) .
Ở nước ta không có hội cải trang như ở các nước phương Tây nhưng các làng lại tổ
chức lễ hội để vui chơi . ở đó, theo nhà nghiên cứu suất sắc nổi tiếng Bakhtin, người ta sắp
đặt "một cuộc sống trần tục, đôi khi phàm tục" , "một cuộc sống thứ hai", một cuộc sống
không có giai cấp, không có sự cấm đoan , đạo đức in tiếng , lễ giáo bịt mắt, bịt tai và con
người "sống theo qui luật của hội hè"của "tự do", vui mừng trước sự giải phóng nhất thời
khởi cái lẽ phải thống ngự của chế độ hiện hữu" để sống hết mình cho "cuộc sống thứ hai"
vừa được thiết lập. Đặc biệt, về sự luyến ái giữa nam và nữ, lễ hội dân gian vẫn còn giữ gìn
và truyền lại không ít cổ tục mang tính phồn thực, thể hiện cái quan niện của tổ tiên trong
việc nhân giống và bảo tồn theo tự nhiên, (các tục lệ này khác nhau theo từng địa phương và
xuất hiện trong các kỳ hội hè , đình đám của mùa xuân hoặc mùa thu ở mỗi xã" (sách đã dẫn,
trang 247). Có tục nhắc đến một. cách nhẹ nhàng về sự yêu đương nam nữ với những giọng

hát câu hò tỏ tình , trao duyên nhưng cũng có tục lệ táo bạo . sổ sàng, thậm chí tục tằn,
thường là do sự chắp thêm về sau với lý do không trong sáng .
Các sinh họat văn hóa phồn thực này đã để lại dấu ấn trong đời sống văn hóa của người
Việt Nam chúng ta cho tới trước Cách mạng tháng Tám. Trải qua 30 năm chiến tranh giải
phòng, các tục lệ xưa hẳn đã bớt nhiều. Còn sót lại chăng là những gì lịch sự, ý nghĩa đáng
lưu giữ.
Thời Xuân Hương, cách đây vài trăm năm, chắc các lễ nghi mang tính phồn thực hãy
còn sống trong môi trường văn hóa ấy, con người thông minh tuyệt vời ấy với trí tuệ sắc sảo
của mình, đã không bỏ qua mà tìm trong đó một khía cạnh phục vụ cho ý đồ sáng tác của
mình. Mội mặt là nhằm làm nổi lên ý nghĩa cơ bản sâu xa của việc cầu chúc có tính ma thuật
để cho sản xuất được bội thu là trở về với một quan niệm đã thành tín ngưỡng đơn giản : cái
gốc của sự sinh sôi nảy nở , cái gốc của sự sống là ở sự giao hòa của hai vật khác giống. Kinh
Dịch của Nho gia sẽ chi biết thêm hai vật khác giống ấy được qui vào hai khí âm dương. Từ
dó nhưng lễ nghi phồn thực chẳng còn có gì là tục tằn, càng chẳng có gì là dâm là tục. Ngược
lại, nó lại có gì thiêng liêng , cao quí vì nó cần cho con người có được đời sống dồi dào hơn .
tốt đẹp hơn.
Với nhận thức như thế, nhà thơ viết câu kết ở bài "Đánh đu" một cách thỏai mái:
"Chơi xuân có biết xuân chăng tá, Cọc nhổ đi rồi lổ bỏ không" ;. Có đủ "cọc" và "lổ" , tha hồ
cho người đọc liên tưởng, còn nhà thơ trước hết chỉ gợi lên nổi trống không buồn rừỉ rựi sau
khi cuộc vui đã hết, mọi người tìm vui đã đi xa, bỏ lại hiện trường trơ trội. Mà cuộc vui thì có

23

biết bao nhiêu cuộc vui và bao nhiêu thú vui, đâu chỉ có một loại vui giao hoan trai gái. Hơn
nữa, như bên trên đã nói khi sinh thực khí nam và nữ được quan niệm là vật linh, linga và
yôni, được thờ cúng với ý nghĩa đó là nhìn hình tượng thần hóa tượng trưng cho sự sinh sôi
của sự sống thì nó là mênh mông vô hạn, vô thủy vô chung. Cho nên mới cái cột to lớn như
cột đá của ông Đùng, cái lỗ thênh thang của hang Thánh Hóa. Ở kích thước ấy, nó trở thành
tầm cở tạo hóa, tầm cở vũ trụ. Tất cả mọi biểu hiện của sự sống, mọi sinh thể trong trời đất
đều từ đó mà ra cả. To như cột đá, rộng như hang Thánh Hóa cũng chưa phải đã to lớn. Còn

như cái cọc đóng vào quả mít cho mau chín, cái giếng có con cá mẹ của lũ ròng ròng, cái quạt
vua chúa "yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày" với "da còn thiếu" và "thịt vẫn thừa" thì nó vẫn
là hình ảnh của cái gốc của sự sống, nó vừa mở to ra vô tận cũng đúng mà rút lại nhỏ tí tẹo
cũng được. giãn ra thì vạn vật vũ trụ mà thu lại thì hạt cải, con vi trùng cũng là nó.
Tiến lên thêm một bước thì đến thái độ của Xuân Hương đối với sự sống. Đó là một
thái độ qúy trọng, yêu chuộng sự sống sâu xa, mãnh liệt, sự sống đang ở dạng tự nhiên chứ
chưa phải đã lên đến dạng tình cảm có trí tuệ làm cốt rồi. Điều này, các nhà nghiên cứu thơ
của Hồ Xuân Hương đã nói nhiều. Xuân Diệu viết :" Xuân Hương một cái gì như thui, như
đánh, "lắt lẻo cành thông cơn gió thốc" chứng không phải gió thổi ; còn sương thì Xuân
Hương muốn cho nó "đầm đìa lá liễu giọt sương gieo" tràn đầy ra chứ không phải chỉ đượm
mà thôi. cái chân của Xuân Hương cũng muốn làm cho rách thêm cái động Hương Tích,
"người quen cõi Phật chen chân xọc" ; cái tay của Xuân Hương không đụng vào cảnh vật một
cách nông cạn, mà "lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp, lách khe nước rỉ mó lam nham" ; đối với tai
Xuân Hương , các tiếng động chẳng lướt qua , mà nó sống lên có khối trong không khí , "Gió
đập cành thông khua lắc cắc, Sóng dồn mặt nước vỗ lonq bong" ; "luồng gió thông reo vỗ
phập phàm Xuân Hương nhìn sắc màu thì sắc đó kêu lên, phải xé ra, phải cao độ, phải là "cửa
son đỏ loét tùm bum nóc. Hòn đá xanh rì lún phún rêu "1TP24F
(1)
P1T Cuốn nghĩ về thơ Hồ Xuân
Hương, Sở giáo dục Nghĩa Bình xuất bản 1987 cũng nối tiếp: "sự sống là vận động, biểu hiện
ra bên ngoai là ánh sáng, màu sắc, âm thanh, năng lượng, nhịp điệu . nói như ngày xưa là khí
tức năng lượng ở bên trong, hiện ra bên ngòai là tượng, là thần cho nên Xuân Hương
không chấp nhận cái ỉm lìm, cái tĩnh tại, cái bẹp dí, cái thiếu máu, cái xương xẩu cứng khô.
Xuân Hương ưa chuộng, Xuân Hương chỉ muốn thấy, chỉ muốn chấp nhận cái đầy ắp bên
trong khi tràn trào ra bên ngoài thì mãnh liệt, lực lưỡng."
Chính từ sự sống đủ cặp âm dương với nhau như một qui luật bất di dịch của trời đất
mà Xuân Hương tiếc cho các cô phụ nữ xinh đẹp là vậy, nào "như in tờ giấy trắng", nào
"nghìn năm còn mãi cái xuân xanh", "chị cũng xinh mà em cũng xinh", thế mà thiếu hẳn "cái

(1)

Thơ Hồ Xuân Hương Giáo trình sau đại học - Đại học sư phạm TPHCM Xuất bản , trang 97.

×