Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Phân tích thực trạng chi trả các chế độ BHXH tại cơ quan BHXH tỉnh Hà Tĩnh (2003-2007)”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.64 KB, 82 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời
khá sớm, phát triển theo quá trình phát triển của xã hội và đến này đối với bất
cứ một quốc gia nào thì BHXH cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối
với người lao động. BHXH có vai trò thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất
việc làm. BHXH tiến hành phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH và góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia sản xuất
kinh doanh từ đó góp phần đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế, xã hội. Ở
nước ta BHXH được đảng và nhà nước ta rất coi trọng, BHXH trở thành một
trong những chính sách xã hội cơ bản nhất cùng với cứu trợ xã hội và ưu đãi
xã hội để đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Cũng chính vì vậy công tác chi trả các chế độ BHXH có vai trò vô cùng
quan trọng, nó là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ BHXH và
liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Bởi vậy, thực hiện tốt
công tác chi trả mới có thể đảm bảo được đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động, đảm bảo được quyền lợi của họ từ đó mới phát huy được hết
vai trò của chính sách BHXH. Công tác chi trả các chế độ BHXH phản ánh
chất lượng của dịch vụ BHXH và trong một chừng mực nào đó nó còn thể
hiện tính ưu việt của chế độ xã hội. Hơn nữa tỉnh Hà Tĩnh là địa bàn có số đố
tượng tham gia và thụ hưởng trợ cấp BHXH rất lớn, với số tiền chi trả hàng
năm lên tới hàng trăm tỷ đồng, bởi vậy công tác chi trả các chế độ BHXH
đang ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của hàng nghìn người lao động trên
địa bàn, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác chi trả các chế độ BHXH
nên trong thời gian thực tập ở BHXH tỉnh Hà Tĩnh, em đã tìm hiểu và chọn đề
tài: “Phân tích thực trạng chi trả các chế độ BHXH tại cơ quan BHXH


tỉnh Hà Tĩnh (2003-2007)” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Nội dung đề tài bao gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về BHXH và công tác chi trả các chế
độ BHXH
Chương 2: Thực trạng chi trả các chế độ BHXH ở BHXH tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác chi trả các
chế độ BHXH ở BHXH tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú tại cơ quan BHXH tỉnh Hà Tĩnh,
và đặc biệt là thầy giáo Nguyễn Văn Định đã chỉ bảo tận tình và giúp đỡ và
tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên
đề thực tập tốt nghiệp này.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương I: Những vấn đề cơ bản về BHXH và công tác chi trả
các chế độ BHXH
I. Tổng quan về BHXH
1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH
Trong lịch sử phát triển của loài người, con người muốn tồn tại và phát
triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v... Để thoả mãn những nhu cầu tối
thiểu đó, con người phải lao động để tạo ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản
phẩm đó được tạo ra ngày càng nhiều đời sống con người ngày càng đầy đủ
và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những
nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc và chính khả năng
lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ
gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường.
Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát
sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống
khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn lao động và khả năng tự
phục vụ bị suy giảm v.v.. . khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần
thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm

chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và
điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc nuôi
dưỡng v.v ... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội
loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau
như:san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa
vào sự cứu trợ của nhà nước v.v... Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ
động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên
phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một thu nhập nhất định
để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn,
thai sản v.v... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và
người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn
dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì
thế, mâu thuẫn chủ – thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ
thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác
động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng
ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò
của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một
khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác
suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ
hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được
bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối
quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải,
cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được bảo vệ, sản xuất
kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết.
Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh

chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động và những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy,
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người
lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo
an toàn xã hội.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sự ra đời và phát triển của BHXH có vai trò rất lớn đối với người lao
động, người sử dụng lao động và Nhà nước, cụ thể:
Đối với người lao động: Nhờ có BHXH mà rủi ro, bất lợi của người lao
động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng
được đảm bảo ổn định. Từ đó, làm cho người lao động an tâm trong lao động
sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đối với người sử dụng lao động: BHXH phục vụ lợi ích của người sử
dụng lao động vì góp phần duy trì quan hệ lao động ổn định. Người lao động
được bảo hiểm sẽ yên tâm phấn khởi làm việc, nâng cao năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm, góp phần giữ vững, thậm chí làm tăng lợi nhuận cho
người sử dụng lao động.
Đối với Nhà nước: BHXH có tác dụng to lớn trên cả hai bình diện.
Trên bình diện xã hội, BHXH giúp duy trì ổn định quan hệ lao động, quan hệ
xã hội, thực hiện công bằng xã hội, góp phần bảo đảm đời sống cho người lao
động và gia đình họ, đảm bảo an toàn quốc gia. Trên bình diện kinh tế, quỹ
BHXH là một kênh tài chính quan trọng góp phần phát triển đất nước; đặc
biệt là đối với những quốc gia đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ như
Việt Nam chúng ta. Như vậy, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách
quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham
gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao

động.
2. Sự ra đời và phát triển của BHXH
2.1 Trên thế giới
BHXH đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỷ XIII ở
Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy
nhiên ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kỷ XVI đến thế kỷ XVIII một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ
lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ
để giúp đỡ lẫn nhau (ở Anh năm 1973 đã thành lập hội “bằng hữu” để giúp đỡ
các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp).
Năm 1883, nước Phổ (Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành
luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của bảo hiểm
xã hội. Bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những quyền của con người
và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc
(10/12/1948) đã ghi: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội
có quyền hưởng bảo hiểm xã hội” Ngày 4/6/1952, Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) đã ký công ước Giơnevơ (102) về “Bảo hiểm xã hội cho người lao
động” đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành bảo hiểm xã hội cho
người lao động và gia đình họ. Theo Công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại
Giơnevơ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) phạm vi của BHXH là trợ cấp
cho 9 chế độ sau: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp
tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ
cấp thai sản, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất
người nuôi dưỡng)
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9
chế độ trên và không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng nguồn hình
thành quỹ giống nhau. Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác
nhau thì khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước và hoàn cảnh cụ

thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi nước có những hình thức áp dụng
khác nhau cho phù hợp.
Trên thế giới có 33 nước thực hiện được 9 chế độ, trên 84 nước chưa
thực hiện được chế độ thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 9 nước chưa thực hiện
được chế độ thứ sáu ( trợ cấp gia đình).
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.2. Tại Việt Nam
Bảo hiểm xã hội ( BHXH ) được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và
trải qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi đặc biệt trong các năm 1961, 1985, 1995.
Năm 1961, một Nghị định của chính phủ được ban hành để cung cấp
các dịch vụ phúc lợi xã hội cho tất cả các cán bộ viên chức làm việc trong
ngành nội chính, giáo dục, y tế, các doanh nghiệp Nhà nước, nội vụ. Hệ thống
này chỉ chịu trách nhiệm bảo hiểm cho khoảng 600.000 đến 700.000 người
trên tổng số dân là 17 triệu người của miền Bắc Việt Nam ( theo số liệu của
năm 1962). Năm 1964 Nghị định 218 thực hiện BHXH cho quân nhân.
Từ năm 1975 thì chính sách BHXH được thực hiện thống nhất trong cả
nước.
Chế độ BHXH bao gồm: trợ cấp hưu trí, mất sức lao động và tử tuất,
cùng các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp do cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đóng góp.
Trước năm 1995, BHXH do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chịu
trách nhiệm quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn ( hưu trí, tử tuất,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người nghỉ việc ), Tổng Liên đoàn
Lao động chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các khoản chi trả trợ cấp
ngắn hạn (trợ cấp ốm đau, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối
với người đang làm việc).
Từ tháng 1 năm 1995, Bộ Luật Lao động có hiệu lực, trong đó chương
XII về BHXH để hướng dẫn thực hiện Bộ luật Lao động. Ngày 16-2-1995
Chính phủ ban hành Nghị định 19/CP thành lập hệ thống BHXH Việt Nam để

quản lý thực hiện chính sách BHXH và quản lý quỹ BHXH. Ngày 26-1-1995
Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/CP về điều lệ BHXH đối với
dân sự với 5 chế độ BHXH: chế độ trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và trợ cấp tử tuất; và ngày
15-7-1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 45 quy định về BHXH đối với
quân sự ( quân đội, công an). Trong 2 nghị định của Chính phủ có quy định
về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao
động đóng 15% quỹ lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng.
Quỹ này sử dụng để chi trả cho 5 chế độ trên. Quỹ BHXH được bảo tồn, tăng
trưởng và được Nhà nước bảo hộ.
Ngày 24-1- 2002 Chính phủ có Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg chuyển
hệ thống BHYT trực thuộc Bộ Y tế sang BHXH Việt Nam và ngày 6-12-2002
Chính phủ ra Nghị định 100/NĐ-CP quyết định chức năng nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của BHXH ( bao gồm cả bảo hiểm y tế ).
Để phù hợp với quá trình phát triển và hội nhập, từ năm 1998 đến nay
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản nhằm sửa đổi, bổ sung chính sách
BHXH. Sự thay đổi về chính sách BHXH đã được cụ thể hoá tại Nghị định số
01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ và đặc biệt là tại Luật
BHXH. Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/07 là
một sự kiện vô cùng quan trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật
về BHXH ở nước ta. Nhiều nội dung mới, thể hiện những bước cải cách cần
thiết trong lĩnh vực BHXH đã được đưa vào luật BHXH. Đó là việc quy định
lại đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, số lượng, nội dung của các chế độ
BHXH bắt buộc như mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng…cũng có nhiều
thay đổi. Ngoài ra, luật BHXH còn mở ra loại hình BHXH tự nguyện và bảo
hiểm thất nghiệp với những quy định về đối tượng tham gia, mức đóng, điều
kiện hưởng, thời gian và mức hưởng rất rõ ràng cụ thể. Hiện nay, luật BHXH

là văn bản có tính pháp lý cao nhất về BHXH ở Việt Nam.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong thời chiến cũng như thời bình, Đảng và Nhà nước ta đã luôn
quan tâm đến chính sách BHXH cho người lao động. Do đó, chế độ BHXH đã
trải qua nhiều giai đoạn, nhiều lần được sửa đổi, bổ sung và cải tiến, từng
bước phát triển thành một hệ thống các chế độ BHXH tương đối hoàn chỉnh.
3. Bản chất, đối tượng, chức năng và tính chất của BHXH
3.1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội
Có thể nói, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ
yếu sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan
hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát
triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền
tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên, trái với ý muốn chủ quan của
con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... Hoặc cũng có
thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già,
thai sản... Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá
trình lao động.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ
lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao
động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BH) thông
thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được
BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc
cần thiết.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải
những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ
tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng
góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu
cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
3.2. Đối tượng của Bảo hiểm xã hội
Đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến
động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
của những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao
động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà
đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
3.3. Chức năng của Bảo hiểm xã hội
- Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
được bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất việc làm do bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm theo những điều kiện xác định. Đây là chức
năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế
tổ chức hoạt động của BHXH.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Góp phần kích thích, khuyến khích người lao động hăng hái lao động
sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.

Chức năng này thể hiện như một đòn bẩy kinh tể kích thích người lao động
nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người
tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những
người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ
BHXH. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối
lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người
khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc...Thực hiện
chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao
động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công,
thời gian lao động...Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà
và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có
lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được
với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít
nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho
người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế,
chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
BHXH đã phát huy tiềm năng của số đông và ưu điểm của nhiều
phương thức hoạt động trong kinh tế thị trường để đảm bảo an toàn đời sống
cho người lao động cũng như cho xã hội. Đồng thời BHXH cũng tạo ra sự gắn
bó chặt chẽ về lợi ích, cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của các bên tham
gia BHXH, cũng như của các bên đó đối với Nhà nước.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3.4. Tính chất của BHXH
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số
tính chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội:
Trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp nhiều biến

cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn
không kém như: Sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp
đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế...Sản xuất càng phát triển
những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử
dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ - thợ
ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can
thiệp thông qua BHXH. Và như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính
khách quan trong đời sống kinh tế - xã hội của mỗi nước.
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính
dịch vụ.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm an sinh xã hội, vì vậy
tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã
hội đều có quyền tham gia BHXH, và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm
bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong
độ tuổi lao động. Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển tính chất xã hội
hoá của BHXH cũng đòi hỏi ngày càng cao hơn.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành,
bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải
được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để
trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của BHXH. Thực chất, phần
đóng góp của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động, việc tham gia
đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử
dụng. Xét dưới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản
tiền lớn để trang trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng
lao động. Với Nhà nước, BHXH góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách
đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và

không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của
BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên
tham gia để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên
theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho
người lao động...
4. Hệ thống các chế độ BHXH
4.1 Theo Công ước 102
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động thế giới (ILO) đã nêu trong
Công ước Giơnevơ số 102 (1952), hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
(1). Chăm sóc y tế: Chế độ này được thiết kế nhằm mục đích trợ cấp
cho người lao động chi phí khám chữa bệnh trong trường hợp người lao động
bị ốm đau bệnh tật. Ngày nay, chế độ chăm sóc y tế đã trở thành một chế độ
lớn được gọi là Bảo hiểm y tế, và không chỉ được thực hiện đối với người lao
động mà là chính sách xã hội chung cho tất cả mọi người dân. Ở các nước
phát triển, chế độ BHYT trở thành chính sách BHYT toàn dân.
(2). Trợ cấp ốm đau: Mục đích của chế độ này là nhằm bù đắp một
phần thu nhập cho người lao động khi bị ốm đau bệnh tật, không đi làm được
và không được người sử dụng lao động trả lương.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
(3). Trợ cấp thất nghiệp: nhằm bù đắp một phần thu nhập bị mất của
người lao động khi bị thất nghiệp, không có việc làm.
(4). Trợ cấp tuổi già: Đây là một chế độ BHXH lớn, được xây dựng với
mục đích trợ cấp thu nhập cho người lao động khi về già, không còn làm việc
nữa.
(5). Trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp: là chế độ BHXH
nhằm trợ cấp phần thu nhập bị giảm hoặc mất của người lao động do bị giảm
hoặc mất sức lao động từ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp.
(6). Trợ cấp gia đình: Đây là một chế độ BHXH lớn và thường chỉ được
thực hiện ở các nước phát triển, với mục đích cung cấp cho người lao động

thêm một nguồn tài chính để trang trải chi phí nuôi con ăn học, khám chữa
bệnh.
(7). Trợ cấp sinh đẻ: Chế độ này được thiết kế nhằm bảo vệ quyền lợi
cho người phụ nữ khi sinh con, trên cơ sở thay thế phần thu nhập không được
người sử dụng lao động trả trong thời gian nghỉ sinh con.
(8). Trợ cấp khi tàn phế: Chế độ này nhằm mục đích trợ cấp thu nhập
cho người lao động để họ ổn định cuộc sống khi không may gặp rủi ro dẫn
đến tàn phế. Ở các nước phát triển, chế độ này không chỉ áp dụng riêng đối
với người lao động mà đối với tất cả các thành viên trong xã hội.
(9). Trợ cấp mất người nuôi dưỡng: là chế độ BHXH được thiết kế
nhằm trợ cấp một phần thu nhập cho thân nhân người lao động đang sống phụ
thuộc vào họ, nếu chẳng may người lao động bị chết. Thân nhân người lao
động có thể là vợ, chồng, bố ruột, mẹ ruột, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ
vợ, con ruột, con nuôi…
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều
kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế
độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9).
4.2. Ở Việt Nam
Thực hiện khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), thời gian
vừa qua (2003 – 2006), Việt Nam đã tổ chức thực hiện cho người lao động
các chế độ BHXH sau: Chế độ ốm đau; chế độ nghĩ dưỡng sức; thai sản; tai
nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất; BHYT.
Tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2007 khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành,
ngoài chế độ BHYT, BHXH Việt Nam đã đưa vào áp dụng:
- Các chế độ BHXH bắt buộc bao gồm: trợ cấp ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2007.

- Các chế độ BHXH tự nguyện bao gồm: trợ cấp hưu trí, tử tuất. Có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2008.
- Chế độ bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học
nghề, hỗ trợ tìm việc làm. Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
5. Quỹ BHXH
5.1. Khái niệm
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách
Nhà nước. Mục đích tạo lập quỹ là dùng để chi trả cho người lao động, giúp
họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH
chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể
bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
5.2. Nguồn hình thành quỹ Bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do
đầu tư phần quỹ nhàn rỗi).
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho
người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao
động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro,
mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một
phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra
một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê
mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo
được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía người lao động, sự đóng
góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi
ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách

chặt chẽ.
Cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không
thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của
Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và
người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong
lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, Nhà nước không
chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chỗ
dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Ở nước ta, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/06/1993,
Điều lệ BHXH Việt nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày
26/01/1995 và mới nhất ngày 29/06/2006 Quốc hội khoá XI, kì họp thứ 9 đã
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thông qua Luật Bảo hiểm xã hội. Trong các văn bản này đều quy định quỹ
BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền
công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động như sau:
+ 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ
lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ và thực
hiện quyết toán hằng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội
+ 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
+ 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần
đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%.
- Hằng tháng, người lao động đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công
vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm
1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với người lao động.
- Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ
- Các nguồn thu hợp pháp khác.

5.3. Sử dụng quỹ Bảo hiểm xã hội
Theo Điều 90 Luật Bảo hiểm xã hội, quỹ BHXH được sử dụng để chi
trả cho các mục đích sau:
- Trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động
- Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc
hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng.
- Chi khen thưởng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong
việc thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội hoặc phát hiện vi phạm pháp luật về bảo
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiểm xã hội; khen thưởng cho người sử dụng lao động thực hiện tốt công tác
bảo hộ lao động, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp...
- Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH
Trong các nội dung chi nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế
độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật
định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên
tắc, có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ
trong phạm vi có nguồn thu. Thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó.
Tuy nhiên, quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất
là chi trả cho các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo
phương thức nào?
+ Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi
trả cũng phải đảm bảo tính thống nhất theo các nội dung chi. Điều đó có nghĩa
là, tất cả các nguồn thu BHXH đều tập trung để hình thành một quỹ, sau đó
quỹ được sử dụng để chi trả theo các chế độ, chi quản lý và đầu tư
+ Nếu quỹ BHXH được hình thành theo 2 loại: Quỹ BHXH ngắn hạn
và quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và quản lý chi sẽ cụ thể hơn. Quỹ
BHXH ngắn hạn được chi cho các chế độ ngắn hạn như: Ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nguồn quỹ này sẽ được cân đối từng năm,
thậm chí có thể được hình thành ngay trong từng doanh nghiệp để chi trả trực

tiếp. Quỹ BHXH dài hạn được sử dụng để chi trả cho các chế độ dài hạn như:
Hưu trí, tử tuất. Nguồn quỹ này phải được cân đối trong nhiều năm và dùng
tài khoản cá nhân trong quá trình chi trả là có hiệu quả nhất.
+ Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ: Quỹ ốm đau, quỹ
thai sản, quỹ hưu trí… (hay còn gọi là quỹ BHXH thành phần), thì việc chi
trả sẽ càng trở nên đơn giản và đảm bảo đúng mục đích.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
6. Các loại hình BHXH
6.1 BHXH bắt buộc
BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà người lao động và người sử
dụng lao động phải tham gia. Bao gồm các chế độ sau: Ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất.
BHXH bắt buộc áp dụng cho các loại đối tượng sau:
- Nguời lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước;
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 1 lao động trở lên;
- Người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
khu chế xuất hoặc khu công nghiệp, trong các tổ chức, cơ quan nhà nước hoặc
các tổ chức quốc tế tại Việt Nam;
- Người lao động trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng, Đoàn
thể từ trung ương đến cấp huyện;
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ
thuộc lực lượng vũ trang;
- Sĩ quan, hạ sĩ quan Quân đội nhân dân và Công an;
- Cán bộ xã, phường, thị trấn;
- Xã viên hợp tác làm việc và hưởng tiền lương công theo hợp đồng lao
động.
6.2 BHXH tự nguyện
BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện

tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu
nhập của mình để hưởng BHXH. BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ : hưu
trí, tử tuất.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
BHXH tự nguyện được áp dụng đối với Người lao động làm việc trong
các hợp tác xã không thuê mướn hoặc người lao động làm việc theo thời vụ
với thời gian dưới 3 tháng.
II. Lý luận chung về chi trả các chế độ BHXH
1. Khái niệm, đặc điểm các chế độ BHXH
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất
của mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung, rất khái quát về cả đối tượng,
phạm vi, các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu
chung đã đề ra đối với BHXH. Việc ban hành các chính sách BHXH phải dựa
vào điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và xu hướng vận
động khách quan của toàn bộ nền kinh tế-xã hội. Chính sách này có thể biểu
hiện dưới dạng các văn bản pháp luật, hiến pháp…song lại rất khó thực hiện
nếu không được cụ thể hoá và không thông qua các chế độ BHXH.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy
định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện
BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy
định được pháp luật hoá về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho
từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới
dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ…Tuy nhiên, dù
có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ
mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy khi thực hiện
mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính
sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống
các chế độ BHXH.
Theo kiến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong Công

ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơr, hệ thống các chế độ BHXH bao
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gồm 9 chế độ: Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi
già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp
sinh đẻ, trợ cấp tàn phế, trợ cấp cho người còn sống.
Hệ thống các chế độ BHXH trên có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Các chế độ BHXH đều được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước;
- Các chế độ BHXH mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính;
- Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của
các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu qũy dự trữ được đầu tư có hiệu
quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định;
- Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và đồng tiền được sử dụng làm
phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của
mỗi chế độ BHXH;
- Các chế độ thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay
đổi của điều kiện kinh tế-xã hội.
- Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi
xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở kinh tế-xã hội như: Cơ cấu ngành
kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao động, hệ thống tài
chính quốc gia…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến
các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: tuổi thọ bình quân của người lao
động, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh
đẻ của lao động nữ, môi trường lao động…
- Để được hưởng các chế độ BHXH thì người lao động và người sử
dụng lao động phải có trách nhiệm đóng phí.
- Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp các chế độ BHXH nói
chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm
của từng người lao động, trên cơ sở tương ứng giữa mức đóng và hưởng.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài những đặc điểm chung trên thì mỗi loại chế độ BHXH còn mang
những đặc điểm riêng:
- Đối với các chế độ ngắn hạn (ốm đau, thai sản, nghĩ dưỡng sức phục
hồi sức khoẻ): việc đóng và hưởng trợ cấp BHXH thường diễn ra trong một
không gian và thời gian nhất định nhưng lại mang tính trực tiếp và ngắn hạn.
Chính vì vậy, mỗi chế độ có thể hình thành một quỹ và mỗi loại quỹ sẽ được
hạch toán độc lập, bảo tồn và tăng trưởng. Đặc trưng của quỹ BHXH ngắn
hạn thường là thu của quỹ phải chi trả ngay cho các chế độ, thu đến đâu chi
đến đó, không có số dư hoặc có một phần kết dư nhưng rất nhỏ để gối đầu cho
thời kỳ kế tiếp. Hạch toán và cân đối thu chi của quỹ ngắn hạn thường được
tiến hành trong 1 năm, theo niên độ kế toán từ ngày 1/1 đến 31/12. Số thu
trong năm chủ yếu dùng để chi trả ngay trong năm đó.
- Các chế độ BHXH dài hạn (hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp): Qúa trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập
với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, sự cân bằng
giữa đóng và hưởng BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Để được
hưởng các chế độ BHXH dài hạn, bản thân người lao động và người sử dụng
lao động phải tham gia đóng góp BHXH trong một thời gian dài theo quy
định (thường là 15 năm). Khi đủ các điều kiện theo quy định, người lao động
và gia đình họ thường được hưởng trợ cấp BHXH trong một thời kỳ dài. Số
thu trong năm thường không chi hết trong năm đó, quỹ BHXH dài hạn luôn
có số dư và số tiền tạm thời nhàn rỗi đó thường được dùng để đầu tư tăng
trưởng quỹ.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Vấn đề chi trả các chế độ BHXH
2.1 Vai trò của công tác chi trả các chế độ BHXH
Chi trả BHXH là việc cơ quan BHXH trích ra một khoản tiền theo quy
định từ quỹ BHXH để chi trả cho người lao động và gia đình họ khi họ bị

giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc
làm và có đủ các điều kiện quy định.
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, chi trả các chế độ BHXH
luôn được coi là trọng tâm của công tác chi trả BHXH. Bởi lẽ việc chi trả các
chế độ BHXH này liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhóm đối tượng
nhạy cảm nhất trong xã hội. Đa số họ đều là những người đã cống hiến rất
nhiều cho đất nước trong khi đang công tác. Và sau cả cuộc đời làm việc, họ
sống chủ yếu dựa vào khoản tiền trợ cấp BHXH. Vì vậy, công tác chi trả các
chế độ BHXH có một vai trò rất quan trọng; ngoài việc nó chính là hoạt động
cụ thể, thiết thực nhất nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, nó còn
thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sự cống hiến của họ cho xã hội.
Ngoài ra công tác chi trả các chế độ BHXH còn có các vai trò khác, cụ thể
như:
- Chi trả BHXH là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ
BHXH. Vì vậy, tổ chức chi trả BHXH chính là thực hiện các chế độ BHXH,
đảm bảo cho chính sách BHXH của quốc gia được thực thi; đáp ứng được nhu
cầu, nguyện vọng của người lao động và mục đích của chính sách BHXH, của
Nhà nước. Bởi suy cho cùng, mục đích cuối cùng của bất kỳ một Nhà nước
nào khi thực hiện chính sách BHXH cũng là chi trả, trợ cấp cho người lao
động khi họ gặp phải những sự kiện bảo hiểm, góp phần đảm bảo cuộc sống
cho người lao động và gia đình họ.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Công tác chi trả các chế độ BHXH không những có ý nghĩa về mặt
vật chất mà nó còn có ý nghĩa về mặt tinh thần. Vì việc chi trả các chế độ
BHXH là chi trả cho những rủi ro, những sự kiện bảo hiểm xảy ra với người
lao động và gây ra khó khăn nhất định đối với người lao động từ đó giúp họ
vượt qua được khó khăn và an tâm trong cuộc sống.
- Chi trả các chế độ BHXH có thể được chi trả một lần hoặc được tiến
hành thường xuyên vì vậy nó góp phần đảm bảo cuộc sống cho người lao

động và gia đình họ khi gặp khó khăn. Đồng thời quá trình thụ hưởng thường
liên quan chặt chẽ với quá trình đóng góp trước đó. Vì vậy việc thực hiện chi
trả các chế độ BHXH có tác dụng rất lớn đối với cả người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước. Người lao động được hưởng trợ cấp BHXH sẽ an
tâm hơn trong cuộc sống từ đó tích cực lao động sáng tạo nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, tạo thêm nhiều sản phẩm cho người sử dụng
lao động, làm tăng của cải cho xã hội, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Còn người lao động khi được hưởng trợ cấp BHXH sẽ có được cuộc sống ấm
no, ổn định, càng thêm tin tưởng vào chính sách BHXH của Nhà nước.
- Chi trả các chế độ BHXH chính là nội dung và cũng là mục đích hoạt
động của quỹ BHXH. Nó còn đảm bảo cho quỹ BHXH được cân đối, có thu
thì phải có chi.
Với những vai trò quan trọng như vậy, công tác chi trả các chế độ
BHXH cần phải được tiến hành một cách cẩn trọng, chặt chẽ, đúng quy định
của pháp luật. Nhưng đồng thời cũng cần phải đảm bảo cho quỹ BHXH
không bị thâm hụt, muốn vậy việc chi trả trợ cấp cũng cần phải dựa trên
những cơ sở khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng địa
phương, từng quốc gia.
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.2 Cơ sở xác định mức chi trả các chế độ BHXH
Thứ nhất: những nhu cầu tối thiểu cần thiết. Bởi vì mục tiêu của BHXH
là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường
hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Vì vậy để xác định mức trợ cấp
BHXH hợp lý thì đầu tiên cần dựa vào các nhu cầu tối thiểu cần thiết để làm
căn cứ. Mức trợ cấp phải đảm bảo được các nhu cầu: nhu cầu về ăn, ở, đi lại,
nhu cầu khám chữa bệnh...Đối với mỗi chế độ khác nhau thì phải chú trọng
những nhu cầu khác nhau. Ví dụ như chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp thì cần quan tâm đến những nhu cầu: chăm sóc y
tế, dinh dưỡng và những nhu cầu cơ bản khác. Đối với chế độ hưu trí cần

quan tâm đến những nhu cầu: ăn ở, đi lại, khám chữa bệnh, giải trí.... Đối với
chế độ tử tuất thì phải để ý đến những nhu cầu: mai táng phí cho người qua
đời, hỗ trợ cho thân nhân người lao động.
Thứ hai: tính chất công việc và đặc điểm nơi làm việc. Đây là hai yếu
tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ cũng như mức độ suy giảm khả năng
lao động của người lao động. Vì vậy, khi xác định mức chi trả căn cứ vào tính
chất công việc (bình thường, nặng nhọc, độc hại...); đặc điểm và môi trường
nơi làm việc ( thành thị hay vùng sâu vùng xa, không khí bình thường hay ô
nhiễm độc hại...) để có thể đưa ra mức trợ cấp hợp lý.
Thứ ba: Mức đóng và thời gian đóng BHXH. Đây là một trong những
cơ sở quan trọng nhất để xác định mức trợ cấp BHXH. Nó thể hiện trách
nhiệm của người lao động trong việc tham gia BHXH và từ đó có thể xác
định mức trợ cấp hợp lý theo nguyên tắc “có đóng – có hưởng, đóng ít -
hưởng ít, đóng nhiều - hưởng nhiều” của BHXH. Đồng thời cũng nhằm đảm
bảo cân đối thu – chi cho quỹ BHXH, cơ chế tài chính BHXH được bảo đảm.
Thứ tư: Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Bởi vì khi kinh tế xã
hội càng phát triển thì đời sống vật chất và tinh thần của người dân càng cao,
GVHD: PGS.TS - Nguyễn Văn Định

×