Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN QUÂN SỰ 3 - ẢNH HƯỞNG CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG QUÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.19 KB, 15 trang )

TIU LUN QUN S 3 - NH HNG
CA KHOA HC K THUT TRONG
QUN S
Trong cuộc sống hiện đại, khoa học kỹ thuật đóng vai trò then chốt và
có ảnh hởng sâu sắc, toàn diện tới mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Với sự
phát triển của lịch sử loài ngời, nhân loại đã từng bớc nâng cao trình độ khoa
học kỹ thuật. Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là những mốc son đánh
dấu sự phát triển về trí tuệ của nhân loại.
Nói đến sự ảnh hởng của khoa học kỹ thuật ta không thể không nhắc tới
một lĩnh vực đặc thù là lĩnh vực quân sự. Hoạt động quân sự là hoạt động
luôn diễn ra ở mọi quốc gia vì trên thế giới luôn luôn xảy ra những mâu
thuẫn và xung đột, do đó luôn có chiến tranh. Mặt khác khi có một bớc phát
triển hay thành tựu mới trong khoa học thì thành tựu đó luôn đợc ứng dụng
đầu tiên vào quốc phòng. Khoa học kỹ thuật tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh
vực quân sự : vũ khí trang thiết bị, tính chất, cơ cấu của lực lợng vũ trang và
cả nghệ thuật tác chiến, nghệ thuật quân sự
Lấy một ví dụ cụ thể là vũ khí trang bị trong chiến tranh, ta thấy các
giai đoạn phát triển về vũ khí gắn liền với những phát minh về khoa học và
kỹ thuật. Các giai đoạn đó bắt đầu từ vũ khí lạnh (gậy gộc, giáo mác, ) thô
sơ, đến khi phát minh ra thuốc súng (thế kỷ thứ X) và cuộc cách mạng Công
nghiệp thì vũ khí nóng cũng đồng thời ra đời với uy lực mạnh hơn nhiều lần.
Và khi khoa học phát triển lên một mức cao hơn nữa, với những thành tựu
trong lĩnh vực vật lý hạt nhân (khoảng giữa thế kỷ XX) thì một loại vũ khí
mới cũng xuất hiện. Đó là vũ khí nhiệt hạch với những khả năng công phá,
sát thơng cực kỳ khủng khiếp, có thể dẫn đến thảm hoạ mà hai quả bom
nguyên tử Mỹ ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki là ví dụ. Và
hiện nay, một loại vũ khí mới đang xuất hiện, đó là vũ khí công nghệ cao, và
gắn liền với nó tất nhiên phải là những thành tựu tiến bộ nhất của khoa học
hiện đại. Vì vậy ta có thể khẳng định khoa học kỹ thuật có vai trò hết sức to
lớn trong hoạt động quân sự.
Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt nớc trên thế


giới đã đề ra cơng lĩnh và chơng trình phát triển kinh tế, chính trị và quốc
phòng dựa vào tiến độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Tại Việt Nam , trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa Xã hội, thì việc đề ra chiến lợc phát
triển kỹ thuật quốc phòng có ý nghĩa quyết định với việc nâng cao sức mạnh
tổng hợp của quốc gia, tăng cờng thực hiện cạnh tranh cục diện với thế giới.
Vì vậy chúng ta cần phát huy khoa học kỹ thuật trong công cuộc hiện đại
hoá quốc phòng, tăng cờng khả năng quốc phòng của đất nớc.
Nh ta đã thấy vai trò và sự ảnh hởng của khoa học kỹ thuật đối với quân
sự nói chung là rất mạnh mẽ. Trong lĩnh vực riêng là lĩnh vực phòng không
thì vai trò ấy lại càng thể hiện rõ nét hơn nữa bởi nhiều lý do. Thứ nhất, do
đặc điểm riêng của hoạt động phòng không là phải đối phó với những phơng
tiện tiến công đờng không có tốc độ cực kỳ cao, thủ đoạn cực kỳ tinh vi. Thứ
hai, chính các phơng tiện tiến công đờng không này là những vũ khí rất tối
tân và đợc áp dụng những thành tựu tiến bộ nhất. Mặt khác, theo lý thuyết
quân sự của thế giới hiện nay, trong việc tác chiến không - bộ thì không quân
là lực lợng quyết định. Bởi các lý do đó mà vai trò của khoa học kỹ thuật đối
với lực lợng phòng không ngày càng trở nên quan trọng.
Tại Việt Nam phòng không đã đợc coi trọng ngay từ những ngày đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp. Lực lợng phòng không chiến đấu của bộ
đội binh chủng hợp thành đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi Điện Biên
Phủ (1954). Trong kháng chiến chống Mỹ, phòng không Việt Nam đã đánh
bại chiến tranh phá hoại bằng không quân của địch, bảo vệ miền Bắc, góp
phần giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong tơng lai, phòng không
phải đối phó với những cuộc tiến công đờng không bằng các phơng tiện vũ
khí hiện đại, luôn đợc cải tiến và hoàn thiện với các thủ đoạn mới, quy mô
rộng và có tính bất ngờ cao. Vì vậy, hơn lúc nào hết, mỗi ngời chiến sĩ phòng
không đều phải nêu cao tinh thần cảnh giác, phải tiếp thu, nắm vững khoa
học kỹ thuật để hoàn thành trách nhiệm nặng nề mà Tổ quốc đã giao phó.
*
* *

Để thấy đợc tác động mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật tới lĩnh vực
phòng không, trớc hết ta hãy điểm qua sự phát triển của các trang thiết bị, vũ
khí và khí tài phòng không. Đó là sự phát triển mang tính quy luật, nhằm đối
phó với các phơng tiện tiến công đờng không ngày càng hiện đại hơn, tinh vi
hơn.
Đặc điểm của phòng không, nh đã nói ở trên, là phải đối phó với những
vũ khí tiến công đờng không có vận tốc rất lớn. Đó là các loại máy bay chiến
đấu, máy bay ném bom, tên lửa chiến thuật và chiến lợc Vì vậy, nhiệm vụ
của lực lợng phòng không: đảm bảo giữ vững bầu trời Tổ quốc, bảo vệ các
mục tiêu quan trọng, phát hiện những dấu hiệu tiến công đờng không của
địch để kịp thời đánh trả và phòng chống là rất khó khăn. Do đó cần phải
đem những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học kỹ thuật áp dụng vào lĩnh
vực này nhằm xây dựng một lực lợng phòng không vững mạnh, đủ năng lực
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đó.
Trong lĩnh vực vũ khí nói chung và vũ khí phòng không nói riêng, các
tính năng của các loại vũ khí tăng mạnh nhờ những nghiên cứu về thuốc
phóng, động cơ, vật liệu chế tạo, điều khiển đờng đi, cải tiến hình dáng khí
động học Tác động ảnh hởng sâu sắc nhất của khoa học công nghệ tới vũ
khí là hoả lực và khả năng cơ động.
Trong các loại vũ khí phòng không thì pháo chiếm một vai trò quan
trọng. Với những sự cải tiến không ngừng thì sự kéo dài về tầm xa của chúng
so với mốc năm 1945 đợc biểu diễn trong biểu đồ sau:
0
5
10
15
20
25
30
35

40
Pháo dã chiến Pháo phản lực Pháo tên lửa
chống tăng
Năm 1945
Hiện nay
Tầm hoạt động của pháo những năm 1945 và hiện nay (tính theo km)
Cùng với việc nghiên cứu để tăng tầm bắn thì việc nâng cao tính cơ
động của các loại pháo phòng không cũng là một vấn đề đặt ra cần đợc giải
quyết. Xu hớng nghiên cứu là chế tạo pháo tự hành để nâng cao tính cơ động,
rút ngắn thời gian chuẩn bị bắn để nâng cao tốc độ bắn, do đó khả năng sát
thơng cũng đợc tăng theo. Cùng với những hớng cải tiến đó thì pháo còn đợc
giảm tối u kết cấu, thuận lợi cho việc vận chuyển, cất giữ và triển khai.
Nếu ở thời điểm đầu lịch sử chế tạo pháo nói chung mà tiêu biểu là
những khẩu thần công thì độ rộng nòng pháo càng lớn, uy lực của vũ khí đó
càng cao. Tất nhiên là đờng kính nòng pháo không thể tăng đến vô hạn vì
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh: khả năng chịu đựng của vật liệu, độ
chính xác và giới hạn của công nghệ chế tạo Nhng hiện nay với công nghệ
tiên tiến hơn hẳn thì đờng kính nòng pháo không cần phải là rất lớn, mà điểm
mấu chốt là việc tăng độ tích hợp của các vật liệu chế tạo nên nòng pháo, đạn
pháo. Do đó tuy đờng kính nòng pháo tuy không lớn nhng khả năng hoả lực
lại tăng lên.
Mặt khác, độ chính xác trong việc điều khiển, vận hành các cỗ pháo
cũng rất quan trọng để có thể tiêu diệt mục tiêu. Nếu ngày xa việc sử dụng
pháo chỉ gói gọn trong các thao tác đơn giản: nhồi thuốc nổ, lấy góc bắn,
châm bùi nhùi để bắn thì hiện nay, các phơng tiện pháo còn đợc trang bị
nhiều thiết bị phụ trợ khác nh: radar, các thiết bị máy tính để xử lý số liệu,
máy đo cự ly, máy hỏi để tránh bắn phải máy bay quân nhà Các cỗ pháo tự
hành có khả năng cơ động lớn do đó việc di chuyển trận địa đòi hỏi ít thời
gian hơn, nâng cao hiệu suất chiến đấu lên nhiều lần.
Ví dụ: pháo tự hành M109 của Mỹ, nặng 55 tấn, trang bị động cơ 1500

mã lực, khi di chuyển đạt đến tốc độ 60-70 km/h, có thể bắn xa đến 50km,
với tốc độ bắn 12 phát/phút. Pháo tự hành Herter của Nga nhoài 2 nòng pháo
155mm, 1 nòng 30mm còn có thiết bị khác nh: thiết bị truyền hình để tăng
khả năng chính xác khi bắn, thiết bị ảnh nhiệt để quan sát, 1 giá phóng tên
lửa chống tăng. Do vậy mà loại pháo này có thể sẵn sàng chiến đấu trong
mọi địa hình, mọi điều kiện thời tiết.
*
* *
Bên cạnh các loại pháo phòng không thì một vũ khí khác là tên lửa
phòng không cũng ngày càng mở rộng khả năng chiến đấu. Tên lửa trở nên
đa năng hơn, có thể vừa chống máy bay vừa chống tên lửa chiến thuật. Việc
phóng tên lửa có thể đợc thực hiện ở nhiều địa hình, hoàn cảnh khác nhau:
phóng trên mặt đất, trên biển, trên không; có thể phóng nghiêng hoặc thẳng
đứng. Cũng giống nh pháo, tên lửa cũng đợc tăng khả năng cơ động, rút ngắn
thời gian chuẩn bị bắn, nâng cao độ chính xác Tuy ra đời sau pháo phòng
không nhng tên lửa đã chứng tỏ đợc sức mạnh của mình trong nhiệm vụ bảo
vệ vùng trời, đánh trả các phơng tiện tiến công đờng không.
Nhờ những cải tiến về nhiên liệu phóng mà tầm xa của các loại tên lửa
đợc tăng lên rõ rệt. Ngày nay tên lửa thờng sử dụng nhiên liệu rắn hoặc
tuabin phản lực, đợc ghép nối từ nhiều tầng để tăng cự ly phóng. Đầu đạn tên
lửa có thể là thuốc nổ thông thờng hoặc đầu đạn hạt nhân. Hệ thống điều
khiển dẫn đờng sẽ đảm bảo cho tên lửa bay đúng hớng và tới đích chính xác.
Các loại tên lửa ngày nay thờng dùng các hệ thống dẫn đờng nh: radar, tia
hồng ngoại, tia laser Một số loại kháclại có khả năng tự tìm mục tiêu nh
tên lửa tầm nhiệt, tên lửa chống radar, Nhờ có những tính năng đó mà hiệu
suất cuả tên lửa đợc nâng cao.
Một số loại tên lửa và hệ thống diều khiển
Sự xuất hiện của tên lửa mang đầu đạn hạt nhân làm cho máy bay
không còn là phơng tiện mang vũ khí hạt nhân duy nhất nữa. Mặt khác, do
tốc độ bay của tên lửa rất lớn (thờng tính bằng đơn vị vận tốc âm thanh) nên

việc phòng chống tấn công bằng tên lửa trở nên khó khăn. Vì vậy, trong điều
kiện kỹ thuật cao thì tác chiến tên lửa sẽ trở thành cuộc giao chiến đầu tiên,
có ảnh hởng dến toàn bộ quá trình chiến tranh. Thực tế trong cuộc chiến
tranh vùng Vịnh và các cuộc không kích nhằm vào Nam T của Mỹ và NATO,
tên lửa đợc sử dụng nh một phơng tiện tấn công chính, nhằm đạt đợc những u
thế trên chiến trờng.
*
* *
Một loại khí tài không thể thiếu trong phòng không là RADAR. Radar
là từ viết tắt của tiếng Anh (Radio Detection and Ranging), có nghĩa là ph-
ơng tiện dùng sóng vô tuyến điện để phát hiện và xác định vị trí mục tiêu.
Việc phát minh ra radar là một trong những thành tựu khoa học và kỹ thuật
vĩ đại nhất trong thời đại ngày nay. Radar đã đợc ứng dụng vào rất nhiều
ngành kỹ thuật và đời sống khác nhau.
Khi đợc áp dụng trong kỹ thuật quân sự, do radar có thể phát hiện ra
máy bay ở cự ly rất xa, trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào, tính toán đợc tốc
độ, hớng bay và các đặc điểm của máy bay để chị thị cho các đơn vị hoả lực
có thể bám sát và tiêu diệt.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai đã xuất hiện nhiều đài radar có
công dụng khác nhau, và chúng đã góp phần đắc lực vào việc tiêu diệt máy
bay đối phơng, bảo vệ không phận. Khi kỹ thuật tên lửa và vũ khí tiến công
đờng không ngày càng phát triển thì vai trò của radar càng trở nên quan
trọng. Trong các vũ khí, khí tài quân sự nói chung và trong phòng không nói
riêng không thể không trang bị radar nhằm xác định mục tiêu và điều khiển
hoả lực chính xác hơn.
Khi xảy ra chiến tranh vùng Vịnh, nhờ các u thế về vũ khí công nghệ
cao mà Mỹ và liên quân đã vô hiệu hoá hệ thống radar phòng không của
Irắc, từ đó làm rối loạn hệ thống chỉ huy, làm mất hiệu lực hệ thống phòng
không, khiến cho Irắc phải thất bại, mặc dù lực lợng quân sụ của Irắc rất
mạnh.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, bộ đội radar Việt Nam đã làm chủ
đợc bầu trời Tổ quốc, phát hiện từ xa các hoạt động trên không của địch, báo
động kịp thời cho các lực lợng phòng không sẵn sàng đánh trả. Nhờ sự phối
hợp tác chiến đó mà chúng ta đã làm nên một trận Điện Biên Phủ trên không,
đập tan uy thế của không lực Hoa Kỳ. Trong điều kiện nớc ta hiện nay bộ đội
radar phòng không có nhiệm vụ quan trọng là quản lý chặt chẽ bầu trời đất
nớc, không để Tổ quốc bị bất ngờ khi địch xâm phạm bầu trời hoặc tập kích
đờng không.
Một đài radar dùng trong đẫn đờng
Sự phát triển của công nghệ vi điện tử và máy tính đã tạo nên một bớc
phát triển của radar. Các loại radar hiện nay có những tính năng rất u việt: cự
ly phát hiện mục tiêu đợc mở rộng, độ phân giải mục tiêu cao, thiết bị gọn
nhẹ, các số liệu đợc xử lý và hiển thị bằng kỹ thuật số, nhiều khâu xử ký tín
hiệu đợc tự động hoá nên tạo thuận lợi cho ngời sử dụng.
Ngoài những ứng dụng trong quân sự, radar còn đợc sử dụng để làm các
công việc khác nh: quản lý, dẫn đờng cho máy bay dân sự tại các sân bay, lập
bản đồ, dự báo khí tợng thuỷ văn, đo vận tốc các phơng tiện trong việc quản
lý giao thông
*
* *
Qua thực tiễn các cuộc chiến tranh nh chiến tranh Việt Nam, chiến
tranh vùng Vịnh và gần đây nhất là các cuộc không kích của Mỹ và NATO
xuống Nam T, ta có thể rút ra: trong chiến tranh kỹ thuật cao thì tấn công đ-
ờng không mang vai trò chủ đạo. Do đó mà vũ khí trang bị trên không có đợc
các nớc quan tâm nghiên cứu và phát triển không ngừng.
Trong các loại vũ khí không quân thì máy bay chiến đấu là nòng cốt,
trình độ của máy bay chiến đấu thể hiện thực lực không chiến và trình độ
khoa học kỹ thuật của một quốc gia. Các loại máy bay cũng không ngừng đ-
ợc cải tiến, áp dụng những công nghệ khoa học tiên tiến nhất. Hai quốc gia
đi đầu trong công nghệ chế tạo máy bay là Mỹ và Nga. Có thể kể đến những

loại máy bay chiến đấu tiêu biểu : F-16, F-22, F-117 của Mỹ, MIG-29, SU-
37 của Nga Trang thiết bị và vũ khí trên máy bay đợc chế tạo với công
nghệ cao để thuận lợi cho việc tấn công và tránh các phơng tiện phòng không
của đối phơng.
Máy bay F-117A
Sự ra đời và phát triển của máy bay quân sự gắn liền với sự phát triển
của kỹ thuật hàng không. Máy bay quân sự hiện đại đợc ứng dụng những
thành tựu khoa học kỹ thuật mới nhất, trong các lĩnh vực: vật liệu, điều
khiển, dẫn đờng vô tuyến, vi xử lý, laser Việc bay ở tốc độ cao không còn là
điều khó khăn nh trớc đây, các máy bay quân sự hiện nay có thể đạt đến vận
tốcgấp tới 2 lần vận tốc của âm thanh. Độ cao hoạt động của máy bay cũng
đợc nâng lên tới khoảng 35-38 km, mặt khác khả năng bay thấp để tránh bị
radar phát hiện cũng đợc cải thiện đáng kể. Cùng với việc phát triển các tính
năng của máy bay, các vũ khí và trang bị trên máy bay cũng đợc nghiên cứu
chế tạo cho phù hợp với điều kiện trên không. Vũ khí đợc dùng chủ yếu là
tên lửa và bom , ngoài ra còn có các phơng tiện khác nh: radar, hệ thống dẫn
đờng tự động, hệ thống lái tự động
Xu hớng hiện nay trong chế tạo máy bay là tăng khả năng tàng hình,
chống lại sự phát hiện của radar mà máy bay F-117A là điển hình. Các vật
liệu có tính chất hấp thụ hoặc tán xạ sóng radar đang đợc nghiên cứu để phủ
trên thân máy bay cho mục đích trên.
Máy bay F-15 đợc trang bị tên lửa không đối đất
Nếu nhìn nhận tên lửa dới góc độ một phơng tiện tiến công đờng không
ta thấy so với máy bay, tên lửa có nhiều tính năng u việt hơn. Công nghệ chế
tạo tên lửa không phức tạp bằng công nghệ chế tạo máy bay, tên lửa có thể sử
dụng ở nhiều phơng tiện, địa hình khác nhau nên có tính linh hoạt và đa dạng
hơn. Do diện phản xạ sóng radar nhỏ nên cũng khó bị phát hiện hơn so với
máy bay. Tầm xa của tên lửa đã đạt đến mức độ vợt đại châu, có thể lên tới
10000 km đối với loại tên lửa đờng đạn, mặt khác các loại tên lửa hành trình
lại có khả năng bay thấp (khoảng 20 60 m) nên việc phát hiện bằng radar

rất khó khăn. Một số loại tên lửa đợc dẫn đờng bằng laser nên độ chính xác
rất cao, một số loại khác lại có khả năng tự động tìm và diệt mục tiêu. Những
điểm vợt trội trên làm cho tên lửa trở thành một lực lợng đột kích đờng
không quan trọng với chiến thuật sử dụng đa dạng. Tuy nhiên bên cạnh
những điểm mạnh, tên lửa còn bộc lộ nhiều nhợc điểm: tên lửa đờng đạn có
giá thành chế tạo cao, quỹ đạo chuyển động khó thay đổi nên dễ bị đánh
chặn; còn tên lửa hành trình do tốc độ bay thấp, thời gian bay lâu nên dễ bị
tiêu diệt bởi vũ khí bộ binh và pháo phòng không cỡ nhỏ.
Một vũ khí khác dùng trên máy bay là các loại bom. Cùng với sự phát
triển khoa học kỹ thuật thì ngày nay việc ném bom không còn chỉ sử dụng
phơng pháp thả rơi tự do nh trớc. Các loại bom hiện đại có thể điều khiển đợc
nhờ ứng dụng về laser hoặc truyền hình.
Cấu tạo của một loại bom điều khiển đợc
Tuy nhiên giá thành của các loại bom này lại rất cao (chi phí cao gấp
khoảng từ 50 100 lần so với bom không điều khiển) nên cha đợc sử dụng
rộng rãi.
*
* *
Những thành tựu của lĩnh vực quân sự nói chung và trong phòng không
nói riêng là nhờ vào sự phát triển của khoa học, đặc biệt là trong các lĩnh
vực: vật lý, công nghệ vật liệu, điện, điện tử, tin học, hoá học, sinh học
Một trong các thành tựu nổi bật của khoa học áp dụng trong quân sự là
kỹ thuật số và việc số hoá các trang thiết bị chiến tranh. Từ đó nảy sinh ra
nhiều khái niệm mới nh: chiến tranh thông tin, chiến trờng số hoá, bộ đội số
hoá Kỹ thuật số đợc đánh giá nh một bớc nhảy vọt trong công nghệ thông
tin. Sự khó khăn trong lu trữ, bảo mật hay thông tin liên lạc khi biểu diễn
thông tin một cách liên tục theo công nghệ analog đã đợc giải quyết nhờ
công nghệ số hoá (digital).
Kỹ thuật số là kỹ thuật biểu diễn những đại lợng biến thiên liên tục theo
thời gian bằng hai đại lợng cơ bản là 0 và 1. Nhờ vậy mà thông tin đợc xử lý,

truyền dẫn và mã hoá một cách dễ dàng hơn. Trong việc xử lý thông tin, ta
chỉ cần dùng 2 trạng thái cơ bản nên thời gian xử lý giảm, điều đó thể hiện
qua sự xuất hiện và phát triển vuợt bậc của máy tính điện tử. Trong truyền
dẫn công việc kiểm tra, kiểm soát và sửa lỗi không còn khó khăn nh khi
dùng tín hiệu tơng tự. Việc mã hoá để giữ bí mật thông tin đợc đảm bảo. Một
đặc điểm vô cùng quan trọng của số hoá trong quân sự là khả năng chống
nhiễu của tín hiệu số, do đó tránh đợc việc kẻ thù sử dụng nhiễu phá để vô
hiệu khả năng thông tin.
Nhờ ứng dụng kỹ thuật số vào kỹ thuật radar mà việc truyền số liệu đợc
thực hiện t động, làm đơn giản hoá thao tác của ngời sử dụng. Tín hiệu đợc
số hoá nên các công việc xử lý tín hiệu: khuyếch đại, lọc nhiễu đuợc thực
hiện với chất lợng cao hơn, làm tăng độ tin cậy của radar khi làm việc.
Các thành tựu trong công nghệ vi điện tử cũng có ảnh hởng quan trọng
đến lĩnh vực quân sự. Để thực hiện cùng một chức năng, nếu dùng các mạch
điện bán dẫn chiếm một không gian lớn thì kích thớc của vũ khí, khí tài quân
sự cũng lớn theo. Nhng nếu dùng các vi mạch tích hợp thì việc giảm kích th-
ớc, tăng khả năng của các loại vũ khí là điều hoàn toàn có thể thực hiện đợc.
Nhờ việc vi mạch hoá các thiết bị điều khiển mà ta có đợc những bộ óc điện
tử của các loại vũ khí thông minh. Trong các đài radar phòng không, việc sử
dụng vi mạch điện tử làm giảm kích thớc của đài, tăng khả năng nhận biết
mục tiêu. Do đó mà các đài radar dễ nguỵ trang và cơ động hơn, tránh đợc
những đòn tấn công của địch nhằm huỷ diệt hệ thống radar . Các tên lửa
phòng không nhờ sử dụng kỹ thuật vi điện tử trong chế tạo đã giảm đợc khối
lợng để tăng tầm bắn, mà việc điều khiển cũng trở nên dễ dàng. Việc sử
dụng các bộ óc điện tử trong tên lửa làm ra đời một loại vũ khí mới: vũ khí
phóng rồi quên, vì sau khi phóng ta không cần phải điều khiển mà chính tên
lửa sẽ tự động tìm và xử lý thông tin để tiêu diệt mục tiêu.
Bởi sự u việt của kỹ thuật vi điện tử nên sự cao thấp về tính năng của vũ
khí có liên quan chặt chẽ tới mức độ vận dụng kỹ thuật vi điện tử trong vũ
khí đó. Cùng với việc từng bớc hiện đại hoá vũ khí thì tỷ lệ sử dụng kỹ thuật

vi điện tử ngày càng tăng.
Đi cùng với việc số hoá thông tin, những nghiên cứu trong lĩnh vực
viễn thông cùng góp phần nâng cao khả năng tác chiến cho vũ khĩ, khí tài.
Công nghệ trải phổ, công nghệ đa truy nhập ứng dụng trong điều khiển làm
giảm tác động của nhiễu phá, đảm bảo an toàn thông tin. Sự xuất hiện của vệ
tinh làm cho việc định vị mục tiêu trở nên dễ dàng. Hệ thống định vị toàn
cầu GPS (Global Positioning System) có thể xác định chính xác vị trí của
một vật thể trên mặt đất với sai số khoảng 1m. Hệ thống cáp quang với băng
thông cực lớn cũng phục vụ cho sự thông suốt liên lạc. Trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng máy tính Internet đợc mở rộng rất nhanh, nối liền hàng
triệu máy tính lại với nhau.
*
* *
Dân tộc ta đã trải qua lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nớc và giữ nớc.
Một dân tộc bao phen đứng lên chống sự nô dịch và thống trị của ngoại bang
đã khẳng định là một dân tộc có sức sống kiên cờng, mạnh mẽ. Giầu truyền
thống yêu nớc, bất khuất chống xâm lăng, cần cù sáng tạo thông minh và lạc
quan; giầu tình nhân ái, đoàn kết; có ý chí tự lực tự cờng không ngừng vơn
lên những giá trị truyền thống này của dân tộc ta đã đợc hun đúc, kết tinh,
tạo nên một Việt nam hôm nay, với xu thế phát triển và vị thế quan trọng
trong khu vực và trên thế giới.
Trải qua các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, nghệ thuật quân sự của
chúng ta đã phát triển những bớc dài, trong đó phải kể đến vai trò của khoa
học kỹ thuật công nghệ. Mặc dù ở mọi thời đại dân tộc ta, nếu so sánh về lực
lợng, về các loại vũ khí trang bị với các nớc xâm lợc, thì chúng ta luôn thua
kém về mọi mặt, nhng bù lại, chiến tranh của ta luôn là những cuộc chiến
tranh chính nghĩa bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chống sự đô hộ để đợc tự do,
đồng thời dân tộc ta cũng là một dân tộc có truyền thống đấu tranh chống
ngoại xâm, cha bao giờ chịu khuất phục trớc kẻ thù cho dù kể thù có mạnh
đến đâu. Truyền thống đánh giặc giữ nớc của dân tộc ta đợc kết tinh qua

hàng ngàn năm lịch sử luôn phải chống lại những kẻ thù có u thế về trang bị
vũ khí và phơng tiện chiến tranh nên đã hình thành nên cách đánh hết sức
độc đáo: lấy ít thắng nhiều, lấy nhỏ thắng lớn, buộc địch phải đánh theo cách
đánh của ta.
Đế quốc Mỹ là một bằng chứng cụ thể. Đó là một cờng quốc về Kinh tế
lẫn quân sự mà cả thế giới kính nể.
Đế quốc Mỹ xâm lợc đất nớc ta, cùng với nhiều loại vũ khí, trang bị
hiện đại, đặc biệt là các loại vũ khí tấn công đờng không, nh máy bay B52,
Máy bay trinh sát, các loại Ra đa, các loại bom, các loại tên lửa, Pháo cao
xạ tơng đối hiện đại.
Vũ khí tiến công đờng không tuy có nhiều u việt song cũng còn tồn tại
những mặt yếu không thể khắc phục hết đợc, không có giải pháp kỹ thuật
nào mà lại không có biện các pháp để đối phó khắc phục chống lại. Vỏ quýt
dầy đã có móng tay nhọn đó là quy luật khách quan. Thực tế đã cho thấy
trong điều kiện cha có nền công nghệ tiên tiến nhiều ngành công nghiệp mũi
nhọn còn kém phát triển, để chống lại có thể thực hiện nhiều biện pháp đối
phó, từ quyết tâm chiến đấu, phơng thức sử dụng lực lợng, sử dụng phơng
tiện và cách đánh mu trí, sáng tạo kết hợp các loại vũ khí thô sơ với tơng đối
hiện đại và hiện đại để làm mất hiệu lực và đánh bại các phơng tiện tiến công
đờng không của Mỹ. Làm nên một Điện Biên Phủ trên không tại Thủ đô Hà
nội, trong toàn cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, lực lọng Phòng không
đã tiêu diệt đợc hơn 3.000 chiếc Máy bay các loại và nhiều loại vũ khí trang
bị khác.
Ngày nay chúng ta cũng không ngừng nghiên cứu về địch, về các loại
phơng tiện phòng không, kịp thời theo sát nắm bắt và làm chủ khoa học công
nghệ hiện đại, dự báo khả năng phát triển của khoa học công nghệ để chủ
động có phơng án đối phó. Không ngừng cải tiến và nâng cấp vũ khí theo h-
ớng số hoá, tự động hoá các khâu điều khiển làm cho vũ khí trở nên đa năng
hơn.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, xây dựng và

phát triển hệ thống phòng không nhân dân trên cơ sở phát huy truyền thống
của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ trớc đây. Đó là
truyền thống kết hợp giữa vũ khí thô sơ với vũ khí tơng đối hiện đại để đánh
thắng các loại vũ khí hiện đại nhất của địch.
Tiếp thu nghệ thuật chiến đấu cảu các dân tộc khác trên thế giới, đặc
biệt là qua cuộc chiến tranh vùng vịnh và các cuộc tiến công của Mỹ và
NATO vào Nam T, rút ra những kinh ngiệm cho riêng mình để sẵn sàng đối
phó với các lực lợng thù địch cho dù chúng có âm mu xảo quyệt đến đâu.
*
* *
Chúng ta đã biết khả năng ứng dụng của khoa học kỹ thuật trong quân
sự nói riêng và trong lĩnh vực phòng không nói chung là rất to lớn. Do đó để
nâng cao chất lợng của lực lợng phòng không Việt Nam chúng ta phải lu ý
đến những vấn đề sau:
Từng bớc hiện đại hoá cơ sở vật chất trong lực lợng phòng không để
theo kịp sự phát triển không ngừng của kỹ thuật, công nghệ của thế giới.
Do các phơng tiện chiến tranh ngày càng hiện đại nên mỗi ngời quân
nhân đều phải tự trang bị vốn tri thức, hiểu biết nhất định để theo kịp với tình
hình mới.
Xây dựng đờng lối nghệ thuật quân sự tiên tiến dựa trên sức mạnh của
con ngời. Đó là con ngời đợc giác ngộ, có quyết tâm, có hiểu biết về khoa
học kỹ thuật quân sự, có lòng yêu nớc nồng nàn, sắn sàng hy sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc.
*
* *
Nh vậy, khi khoa học công nghệ càng phát triển thì kĩ thuật quân sự
cũng phát triển theo. Việc nắm bắt kịp thời các thanh tựu khoa học kỹ thuật
để áp dụng trong quốc phòng nói chung và trong lĩnh vực phòng không nói
riêng trở nên hết sức cấp thiết.
Việc phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ sẽ làm thay đổi bộ mặt

chiến tranh trong tơng lai. Tuy nhiên các loại vũ khí công nghệ cao không
phải là bất khả chiến bại khi nằm trong tay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà tình hình thế giới còn nhiều biến động
phức tạp, trớc sự phát triển nh vũ bão của khoa học và kỹ thuật và hoàn cảnh
thực tế của đất nớc, chúng ta - những sinh viên của trờng đại học Bách khoa,
trờng đại học kỹ thuật hàng đầu của quốc gia cần phát huy truyền thống dân
tộc, nỗ lực học tập để làm chủ khoa học kỹ thuật, góp phần tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

×