Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Nâng cao thu nhập của nông dân Hải Phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 209 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC KINH T QUC DN





PHM MINH C




NÂNG CAO THU NHậP
CủA NÔNG DÂN HảI PHòNG HIệN NAY



Chuyờn ngnh: Kinh t chớnh tr
Mó s: 62310102


LUậN áN TIếN Sĩ KINH Tế


NGI HNG DN KHOA HC:
GS.TS. MAI NGC CNG




H Ni thỏng 05 nm 2015


i

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các tư liệu,
số liệu sử dụng trong luận án là trung thực có nguồn gốc rõ ràng. Những kết
luận khoa học của luận án chưa từng công bố trong bất kỳ công trình khác.

Hà Nội ngày tháng năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN ÁN



Phạm Minh Đức
ii
MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG BIỂU vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH vi
MỞ ĐẦU 0
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về thu nhập của nông dân 4
1.1.1. Những nghiên cứu về bản chất phạm trù thu nhập của người lao động
trong lý thuyết cổ điển và C. Mác. 4
1.1.2. Các lý thuyết hiện đại về thu nhập 5
1.1.3. Những vấn đề chưa được nghiên cứu hay khoảng trống của chủ đề 16

1.1.4. Câu hỏi nghiên cứu 18
1.2. Phương pháp nghiên cứu 19
1.2.1. Về phương pháp tiếp cận. 19
1.2.2. Khung nghiên cứu, phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu. 20
1.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu và tính toán trong luận án 27
1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả đầu ra 27
1.3.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu về yếu tố đầu vào 31
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 33
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THU
NHẬP CỦA NÔNG DÂN TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY 34
2.1. Khái quát lịch sử tư tưởng về thu nhập của người lao động. 34
2.1.1. Những nghiên cứu về thu nhập của người lao động từ A.Smith đến C.Mác
[9]. 34
2.1.2. Các lý thuyết hiện đại về thu nhập. 39
2.2. Thu nhập của nông dân hiện nay: khái niệm, đặc điểm, nhân tố ảnh
hưởng và tầm quan trọng. 42
iii
2.2.1. Khái niệm thu nhập của nông dân trong bối cảnh hiện nay. 42
2.2.2. Các bộ phận cấu thành thu nhập của nông hộ hiện nay. 44
2.2.3. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ. 46
2.2.4. Ý nghĩa của việc nâng cao thu nhập của người nông dân trong bối cảnh
CNH, HĐH 55
2.3. Thực tiễn về nâng cao thu nhập của nông dân và kinh nghiệm cho
Hải Phòng 57
2.3.1. Thực tiễn nâng cao thu nhập cho nông dân của một số nước trên thế giới. 57
2.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Hải Phòng. 66
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THU NHẬP CỦA NÔNG DÂN TRÊN 69
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG HIỆN NAY 69
3.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội liên quan đến thu nhập của
nông dân Hải Phòng. 69

3.1.1. Điều kiện tự nhiên của Hải Phòng 69
3.1.2 Tình hình phát triển kinh tế của Hải phòng 71
3.1.3. Tình hình lao động dân số, lao động việc làm của Hải Phòng. 75
3.1.4. Tình trạng thu nhập của người dân Hải Phòng 80
3.1.5. Đời sống của người dân nông thôn Hải Phòng 82
3.2. Phân tích thu nhập của hộ nông dân Hải Phòng qua điều tra khảo sát 85
3.2.1. Thu nhập bình quân của hộ nông dân Hải Phòng qua điều tra khảo sát 85
3.2.2. Thu nhập bình quân của nông hộ theo các yếu tố sản xuất và tác động của
phát triển kinh tế thị trường, CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế những
năm 2010-2012. 90
3.2.3. Phân tích thu nhập theo năm nhóm phân vị của nông dân Hải Phòng qua
tài liệu điều tra 102
3.3. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế về thu nhập của nông
dân Hải Phòng hiện nay. 104
3.3.1. Những thành tựu chủ yếu. 104
3.3.2. Hạn chế trong việc tăng thu nhập của nông dân Hải Phòng hiện nay 113
iv
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế. 115
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO THU NHẬP
CỦA NÔNG DÂN Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG NHỮNG NĂM TỚI 130
4.1. Quan điểm và phương hướng nâng cao thu nhập của nông dân Hải
Phòng những năm tới 130
4.1.1. Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của Hải Phòng những năm tới 130
4.1.2. Quan điểm nâng cao thu nhập đối với nông dân Hải Phòng những năm tới138
4.1.3. Phương hướng nâng cao thu nhập của nông dân Hải Phòng những năm tới 141
4.2. Giải pháp nâng cao thu nhập của nông dân Hải Phòng những năm tới 142
4.2.1. Tạo nhiều việc làm, tạo nhiều sinh kế mới cho nông dân 142
4.2.2. Tăng cường cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm làm giàu các yếu tố
sản xuất của nông dân. 151
4.2.3 Hoàn thiện môi trường chính sách, tăng cường vai trò nhà nước trong tổ

chức quản lý và phối hợp thực hiện các chủ trương chính sách phát triển
nông nghiệp nông thôn trên địa bàn thành phố nhằm hỗ trợ, tạo cơ hội
nông dân trên địa bàn Hải Phòng có được những việc làm mới, sinh kế
mới với thu nhập cao hơn. 153
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 161
KẾT LUẬN 162
CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 0
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 0
PHỤ LỤC
v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Công nghiệp nông thôn CNNT
Chủ nghĩa tư bản CNTB
Chương trình Đồng hành cùng Doanh nghiệp dành cho các Hộ
gia đình nông nghiệp
FHSP
Chương trình bất động sản khu công nghiệp nông thôn RIEP
Chương trình xúc tiến du lịch trang trại FTPP
Đạo luật Phát triển Nguồn thu nhập nông thôn RISDA
Đạo luật phát triển nguồn thu nhập nông thôn RISDW
Đầu tư trưc tiếp nước ngoài FDI
Điểm trung bình ĐTB
Hoạt động sản xuất HĐSX

Khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu kinh tế KCN, CCN, KKT
Khu vực xúc tiến công nghiệp nông thôn RIPZ
Lý thuyết kinh tế mới của lao động di cư NELM
Nông nghiệp nông thôn NN, NT
Nông thôn mới NTM
Nông thôn-thành thị NT-TT
Quy hoạch, kế hoạch và công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn QH, KH và
CNHNT
Tiểu thủ công nghiệp TTCN
Tổng sản phẩm quốc dân GDP
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Ủy ban nhân dân UBND
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thay đổi trong Chương trình Chính sách CNH nông thôn 1960-2000 63
Bảng 2.2: Các gói hỗ trợ của Chính phủ dành cho chương trình RIEP do Cục
Bất động sản phân loại (theo số liệu năm 1999) 65
Bảng 3.1: Dân số và lao động ở Hải Phòng giai đoạn 2005-2013 75
Bảng 3.2: Dân số trên 15 tuổi tham gia thị trường lao động ở Hải Phòng 76
Bảng 3.3: Dân số trên 15 tuổi tham gia hoạt động kinh tế đã qua đào tạo ở Hải
Phòng 2011-2013 77
Bảng 3.4: Dân số từ 15 tuổi trở lên đang làm việc chia theo nghề nghiệp 77
Bảng 3.5: Cơ cấu hộ trong khu vực nông thôn Hải Phòng năm 2011 78
Bảng 3.6: Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo nguồn thu của Hải
Phòng giai đoạn 2006 - 2010 81
Bảng 3.7: Thu nhập bình quân 1 nhân khẩu/tháng chia theo 5 nhóm thu nhập
của Hải Phòng 82
Bảng 3.8: Số hộ có nhà ở chia theo loại nhà đang ở năm 2011 ở Hải Phòng 83
Bảng 3.9: Tình trạng sở hữu tài sản của các hộ gia đình ở Hải Phòng năm 2011 84
Bảng 3.10: Quy mô thu nhập bình quân Hộ một năm giai đoạn 2010-2012 85

Bảng 3.11: Thu nhập bình quân nhân khẩu một năm giai đoạn 2010-2012 86
Bảng 3.12: Cơ cấu nguồn thu nhập bình quân của Hộ một năm giai đoạn 2010-2012 87
Bảng 3.13: Sự đóng góp của các nguồn vào thu nhập bình quân năm của hộ giai
đoạn 2010-2012 87
Bảng 3.14: Tốc độ gia tăng thu nhập bình quân năm của hộ nông dân Hải Phòng
giai đoạn 2010-2012 theo năm nguồn thu 88
Bảng 3.15: Chi tiết tốc độ gia tăng thu nhập bình quân năm của Hộ nông dân
Hải Phòng theo từng ngành nghề và nguồn thu nhập giai đoạn 2010-2012 . 89
Bảng 3.16: Thu nhập của hộ thuần nông và hộ hỗn hợp 90
Bảng 3.17: Thu nhập của hộ theo quy mô nhân khẩu 92
Bảng 3.18: Thu nhập bình quân một khẩu một năm của hộ tối đa 4 nhân khẩu và
tối thiểu 5 nhân khẩu 92
Bảng 3.19: Thu nhập bình quân của hộ theo quy mô lao động 93
vii
Bảng 3.20: Thu nhập bình quân một lao động một năm của hộ có tối đa 2 lao
động và tối thiểu 3 lao đồng. 93
Bảng 3.21: Thu nhập bình quân hộ theo đất đai sản xuất và phục vụ sản xuất
năm 2012 94
Bảng 3.22: Thu nhập theo quy mô vốn sản xuất của hộ 95
Bảng 3.23: Bảng thu nhập của các hộ có vốn lưu động trên và dưới mức 20 triệu
năm 2012 95
Bảng 3.24: Thu nhập của hộ có và không tiếp cận được tín dụng 96
Bảng 3.25: Thu nhập bình quân nông hộ theo trình độ học vấn 97
Bảng 3.26: Thu nhập bình quân nông hộ theo tiêu chí có và không tham gia các
khóa bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ sản xuất 99
Bảng 3.27: Tác động từ tình trạng di cư lao động đến biến đổi thu nhập của nông hộ 101
Bảng 3.28: Thu nhập theo 5 nhóm phân vị của nông dân Hải Phòng 2010-2012 102
Bảng 3.29: So sánh cơ cấu thu nhập bình quân hộ của nhóm 1 nhóm 3 và nhóm 5 103
Bảng 3.30: So sánh chênh lệch thu nhập của nông dân Hải Phòng và cả nước 105
Bảng 3.31: Cơ cấu chi tiêu bình quân của các hộ gia định hai năm 2011-2012 107

Bảng 3.32: Tỷ lệ tích lũy của nông hộ 108
Bảng 3.33: Đánh giá của đối tượng điều tra về những biến đổi trong cuộc sống
của họ ở khu vực nông thôn Hải Phòng 112
Bảng 3.34: So sánh thu nhập bình quân đầu người 1 tháng của nông dân Hải
phòng và cả nước 114
Bảng 3.35. Tình hình nguồn lực theo điều tra khảo sát 118
Bảng 3.36: Đánh giá của đội ngũ cán bộ quản lý về môi trường luật pháp và tổ
chức quản lý nhằm nâng cao thu nhập cho người nông dân ở Hải
Phòng( cho điểm từ 1 đến 5, trong đó 5 là tốt nhất) 121
Bảng 4.1: Dự báo một sô chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội Hải Phòng đến 2020 135
Bảng 4.2: Cơ cấu hộ của nông hộ khu vực nông thôn Hải Phòng giai đoạn
2006-2014 137
Bảng 4.3: Dự báo cơ cấu hộ trong khu vực nông thôn đến năm 2020 138
Bảng 4.4: Dự kiến tương lai nguồn thu nhập chính của nông dân Hải Phòng 139

viii
DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ, HỘP


HÌNH:
Hình 1.1: Đường cong Lorenz 30
Hình 3.1: Thời gian làm việc bình quân/tuần của lao động từ 15 tuổi trở lên trên
địa bàn thành phố Hải Phòng năm 2011. 79
Hình 3.2: Tỷ trọng lao động chia theo nhóm giờ làm việc trong tuần ở khu vực
nông thôn Hải Phòng năm 2011 80
Hình 3.3: Tỷ lệ hộ nghèo ở Hải Phòng giai đoạn 2006-2012 82
Hình 3.4: Đường cong Loren về thu nhập của nông dân Hải Phòng (2012). 106

SƠ ĐỒ:


Sơ đồ 1.1: Khung phân tích thu nhập của nông hộ 21

HỘP:
Hộp 2.1: Cấu thành thu nhập của nông hộ 45
Hộp 2.2:. Các chính sách hỗ trợ phát triển và tăng thu nhập nông hộ 52







MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thu nhập của người lao động nói chung, của nông dân nói riêng là một trong
những phạm trù mà khoa học kinh tế chính trị luôn quan tâm. Bởi lẽ việc nâng cao
thu nhập cho người lao động không những phản ánh sự phát triển của lực lượng sản
xuất mà còn đảm bảo hoàn thiện quan hệ phân phối, một khâu của quan hệ sản xuất
xã hội.
Là phạm trù kinh tế, thu nhập mang tính lịch sử, nó luôn biến đổi theo sự phát
triển của lịch sử phát triển kinh tế xã hội. Trong điều kiện hiện nay, khi mà sự phát
triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) trở thành xu hướng tất yếu của các nước đang phát triển như
Việt Nam, thu nhập của người lao động nói chung, của nông dân nói riêng cũng có
sự biến đổi. Các lý thuyết thu nhập đã chỉ ra cơ cấu thu nhập của nông dân đa dạng
hơn, các nguồn hình thành thu nhập của nông dân cũng có sự biến đổi theo hướng
tăng thu nhập từ lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp, giảm tỷ lệ thu nhập từ nông
nghiệp; đồng thời thu nhập của nông hộ từ nguồn chuyển khoản do người thân tham
gia vào thị trường lao động trong nước và quốc tế gửi về cũng như từ sự trợ giúp

của chính phủ cũng tăng lên. Chính sự biến đổi cơ cấu nguồn thu nhập này đã tác
động đến sự thay đổi thu nhập của nông dân rất mạnh mẽ.
Sự biến đổi thu nhập của nông dân như trên cũng đúng với thực tiễn nước ta,
trong đó có nông dân Hải Phòng. Trong những năm vừa qua, Hải Phòng có tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá cao, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ,
đời sống vật chất và tinh thần của dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong khi
khu vực công nghiệp, dịch vụ phát triển nhanh thì khu vực nông nghiệp, nông thôn
và nông dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù là một thành phố phát triển khá
sớm, có lợi thế cảng biển, nhưng việc làm, thu nhập và đời sống của người nông dân
Hải Phòng vẫn nằm trong tình trạng khó khăn chung của người nông dân cả nước.
Năm 2010, mức thu nhập bình quân của người dân Hải Phòng là 1,694 ngàn đồng
/người/tháng. Nông dân Hải Phòng chủ yếu ở nhóm 20% thu nhập thấp nhất với số
1

tiền là 510 ngàn đồng/người tháng [7]. Đó là mức thu nhập khá thấp so với một
thành phố có lợi thế cảng biển và có ngành công nghiệp phát triển sớm như Hải
Phòng. Điều này là bất cập để thực hiện quyết tâm của Thành phố đưa Hải Phòng
trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Mặc dù những năm qua, thành phố Hải Phòng đã có nhiều biện pháp phát triển
nông nghiệp, nông thôn, nông dân nhằm cải thiện thu nhập và đời sống nông dân,
song những thành tựu mạng lại còn rất chậm. Nông dân vẫn còn trong tình trạng
khó khăn do tình trạng thiếu vốn sản xuất, do tiến bộ kỹ thuật chưa được áp dụng
rộng rãi, việc đa dạng hóa sinh kế, đa dạng hóa phát triển ngành nghề trong thôn
thôn còn chưa mạnh, các chính sách khuyến nông phát huy chưa mạnh, công tác tổ
chức và quản lý sản xuất nông nghiệp, phối hợp thực hiện của các ban ngành còn
nhiều hạn chế, chưa hỗ trợ tốt cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của nông dân.
Về phía nông dân, tình trạng tiếp cận giáo dục, đào tạo thấp, nguồn vật lực, tài lực
còn nhiều khó khăn. Tất cả những điều đó hạn chế đến tốc độ tăng thu nhập cũng
như đa dạng hóa nguồn thu của nông dân. Chính vì thế việc nghiên cứu Nâng cao
thu nhập của nông dân Hải Phòng hiện nay là có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận

và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Làm rõ nội hàm của phạm trù thu nhập của nông dân, những nhân tố tác
động đến thu nhập của nông dân; những tiêu chí được sử dụng để đánh giá thu
nhập của nông dân.
- Khái quát kinh nghiệm một số nước trên thế giới và một số tỉnh thành phố
nước ta trong việc nâng cao thu nhập của nông dân, rút ra những khuyến nghị cho
thành phố Hải Phòng.
- Phân tích, đánh giá tình hình thu nhập của nông dân thành phố Hải Phòng,
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế về thu nhập của nông dân
hiện nay.
- Khuyến nghị phương hướng và các giải pháp nâng cao thu nhập đối với
nông dân trên địa bàn Hải Phòng những năm tới.
2

3. Giả định nghiên cứu:
Luận án này dựa trên hai giả định:
Thứ nhất, trong bối cảnh hiện nay, khi mà CNH, HĐH ngày càng mạnh,
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng tăng thì thu
nhập của nông dân ngày càng được đa dạng với các bộ phận cấu thành như i) thu
nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp; ii) thu nhập phi sản xuất nông nghiệp
trong nông thôn; iii) thu nhập từ phục vụ các khu công nghiệp và xuất khẩu lao
động; iv) các khoản thu nhập từ trợ giúp của chính phủ và cộng đồng; v) các
khoản thu nhập khác; quy mô thu nhập sẽ tăng lên, tỷ trọng thu nhập sẽ biến đổi
theo hướng thu từ sản xuất nông nghiệp giảm xuống, thu nhập từ phi sản xuất
nông nghiệp, phục vụ các khu công nghiệp và xuất khẩu lao động tăng lên.
Thứ hai, trong bối cảnh đó, việc nâng cao thu nhập của hộ nông dân sẽ thực
hiện được khi nông dân biết đa dạng hóa việc làm, đa dang hóa sinh kế gắn với
sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ; tăng cường năng lực các yếu tố sản xuất
của nông dân, trong một môi trường luật pháp, cơ chế chính sách, tổ chức quản

lý của nhà nước ngày càng hoàn thiện.
Toàn bộ nghiên cứu của các chương của luận án kể từ nghiên cứu lý thuyết, đến
phân tích thực trạng và khuyến nghị quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao thu
nhập đối với các hộ nông dân đều dựa trên hai giả định này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Là thu nhập của nông dân trong bối cảnh hiện nay dưới tác
động của các nhân tố khách quan và chủ quan đến thu nhập.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi về nội dung: Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu về hệ thống lý luận cũng
như thực tiễn về vấn đề thu nhập đối với hộ nông dân. Cụ thể như: Khái niệm, đặc
điểm và nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân trong bối cảnh hiện nay;
Tiêu chí đánh giá về thu nhập của nông dân trong bối cảnh hiện nay; Thực trạng thu
nhập và những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân ở Hải Phòng hiện
nay; Những giải pháp chủ yếu tăng thu nhập đối với nông dân ở Hải Phòng trong
những năm tới.
3

Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thu
nhập của nông dân trong bối cảnh hiện nay và lấy số liệu minh chứng từ khảo sát tại
thành phố Hải Phòng.
Phạm vi về thời gian: Dữ liệu nghiên cứu của đề tài là các số liệu sơ cấp và
thứ cấp liên quan thu nhập của người nông dân Hải Phòng giai đoạn 2006-2013.
5. Kết cấu luận án
Luận án gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo các bảng
phụ lục và 4 chương.
4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về thu nhập của nông dân
1.1.1. Những nghiên cứu về bản chất phạm trù thu nhập của người lao
động trong lý thuyết cổ điển và C. Mác.
Trong lịch sử tư tưởng kinh tế, các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển, các nhà
kinh tế chính trị tiểu tư sản, xã hội chủ nghĩa không tưởng và C.Mác đã đặt nền
móng và từng bước tiến sâu vào vạch rõ nguồn gốc và bản chất của các khoản thu
nhập. Ở đây chúng ta chỉ tập trung nghiên cứu lý thuyết thu nhập của người lao
động làm thuê.
1.1.1.1.Tư tưởng thu nhập của người lao động của các nhà kinh tế học cổ điển
Các nhà kinh tế học Cổ điển mà đại biểu như: Adam Smith (1723-1790),
David Ricardo (1772-1823), Jean Charles Leonard Simonde de Sismondi (1773 –
1842) có chung một quan điểm là trong điều kiện của xã hội tư bản, người lao động
là người làm thuê, họ nhận được một số tiền từ phía chủ sau khi đã làm việc cho chủ
với một thời gian nhất định. Số tiền đó được gọi là tiền lương. Họ xác định cơ sở
của lượng tiền lương là giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người
công nhân làm thuê và giáo dục, nuôi dưỡng con cái anh ta để có thể đưa ra thay thế
trên thị trường lao động.
Nhìn chung, tư tưởng về tiền lương (thu nhập) của người công nhân là tiền
công của lao động, hay nói cách khác, thu nhập của công nhân có nguồn gốc là từ
việc làm. Đó là tiền công của người lao động làm việc cho chủ.[ 9]
1.1.1.2 Tư tưởng tiền lương của Các Mác (1818 - 1883).
Trong tác phẩm Tư bản C.Mác chỉ rõ, công nhân làm việc cho các nhà tư bản
trong một thời gian nào đó, sản xuất ra một lượng hàng hoá nào đó, thì nhận được
một số tiền trả công nhất định. Tiền công đó chính là tiền lương. Tiền lương không
phải là giá trị hay là giá cả của lao động. Vì lao động không phải là hàng hoá và
5

không phải là đối tượng mua bán. Cái mà công nhân bán cho nhà tư bản chính là
sức lao động. Do đó tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức

lao động. Từ việc giải thích đó C.Mác khẳng định bản chất của tiền lương dưới chủ
nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài
thành giá trị hay giá cả lao động.
Mác cũng chỉ rõ giá trị sức lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt nuôi
sống người công nhân và gia đình anh ta. Nó bao gồm cả những yếu tố vật chất và
yếu tố tinh thần lịch sử. Vì vậy khi xác định tiền lương phải xác định các yếu tố sau:
giá trị tư liệu sinh hoạt nuôi sống người công nhân và gia đình anh ta; nhu cầu về
tinh thần, lịch sử, dân tộc; chi phí học tập, nâng cao trình độ; chi phí nuôi sống
người công nhân khi về hưu.
1.1.2. Các lý thuyết hiện đại về thu nhập
1.1.2.1. Những vấn đề bản chất của thu nhập và phân phối thu nhập trong các
lý thuyết kinh tế học hiện đại.
Khác với các nhà kinh tế học cổ điển và C. Mác, các nhà kinh tế học hiện đại
không đi vào giải thích bản chất của thu nhập mà họ quan tâm đến chính sách thu
nhập. Họ coi chính sách thu nhập như là một công cụ chủ yếu của kinh tế vĩ mô,
nhà nước điều tiết thu nhập và giải quyết vấn đề công bằng xã hội, một trong những
mục tiêu mà bất cứ một nền kinh tế nào cũng phải đạt tới. Chính vì thế, nội dung cốt
lõi của chính sách thu nhập là vấn đề phân phối thu nhập. Các vấn đề xung quanh
việc phân phối thu nhập thuộc loại gây nhiều tranh cãi nhất trong tất cả các loại hình
kinh tế học. Có ý kiến cho rằng thu nhập cao là kết quả của sức mạnh độc quyền
của các doanh nghiệp lớn. Một số khác cho rằng tiền công và lợi nhuận chỉ là kết
quả hoạt động của thị trường có tính cạnh tranh. Hoặc dù thế nào đi chăng nữa,
chính phủ nên sử dụng quyền lực của mình để phân phối lại thu nhập từ người giàu
sang người nghèo bằng công cụ thuế và chuyển khoản. Những tư tưởng này có thể
tìm thấy ở trong các tác phẩm của John Bates Clark, Alfred Monshall, Pigou,
P.A.Samuelson [ 9].
6

1.1.2.2. Những nghiên cứu về xu thế đa dạng hóa việc làm của nông dân trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, nghiên cứu ngoài nước về xu thế đa dạng hóa việc làm của nông dân.
Thực tiễn cho thấy tác phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm biến đổi cơ cấu lao động và cơ cấu ngành
nghề trong nền kinh tế nói chung, đối với khu vực nông thôn và đối tượng nông dân
nói riêng. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra xu hướng này dưới các
cách tiếp cận khác nhau.
Trong “Lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở các nước Châu Á gió mùa”, Harry T.
Oshima chỉ ra rằng khu vực nông nghiệp làm việc theo mùa vụ, thời gian nông nhàn
lớn. Trong điều kiện đó, con đường tăng trưởng kinh tế, do đó cũng để tăng thu
nhập cho nông dân ở các nước này là cần tạo thêm việc làm cho khu vực nông thôn.
Việc tạo ra việc làm tại chỗ là phù hợp với nhu cầu lao động nông nghiệp biến đổi
theo mùa vụ, vừa tăng thêm thu nhập cho nông dân là con đường tăng trưởng bền
vững của các nước Châu Á gió mùa [23].
Lewis W.A. (1955) lại tiếp cận theo hướng khác. Trong “Lý thuyết tăng
trưởng kinh tế” ông đã nghiên cứu tình trạng lao động, việc làm và thu nhập ở các
nước đang phát triển. Ông chỉ ra rằng lao động khu vực nông nghiệp có thu nhập
nhấp, ở khu vực công nghiệp có thu nhập cao hơn. Do đó với một mức tiền lương
cao hơn thì dễ thu hút sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang làm
việc. Từ đó, chuyển việc làm từ nông nghiệp sang việc làm trong khu vực công
nghiệp, theo ông là một xu hướng biến đổi tấy yếu đối với khu vực nông thôn dưới
tác động của phát triển công nghiệp [91].
Torado M.P. đã phân tích lý do người lao động thực hiện di cư tìm việc làm
với thu nhập cao hơn trong quá trình phát triển kinh tế. Nói cách khác, theo phân
tích của Torado M.P. trong quá trình phát triển kinh tế, nhiều người sẽ rời bỏ việc
làm nông nghiệp với thu nhập thấp trước đây để chuyển sang làm ở những ngành
nghề có thu nhập cao hơn nơi đô thị [114].
7

Thứ hai, những nghiên cứu trong nước về xu thế đa dạng hóa việc làm của

nông dân.
Nghiên cứu về đa dạng hóa việc làm trong khu vực nông thôn do tác động của
CNH, HĐH, sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế cũng được
nhiều tác giả trong nước chú ý.
Triệu Đức Hạnh trong phần thực hiện lý do nghiên cứu của đề tài luận án
khẳng định, khu vực nông thôn tập trung đại bộ phận lao động của đất nước, tuy
nhiên lao động ở khu vực này lại đang ở trong tình trạng thiếu việc làm bởi những
năm 2004-2006 khi mà tốc độ tăng trưởng bình quân ngành nông nghiệp là 5,4%
nhưng hệ số co giãn việc làm so với 1% tăng trưởng kinh tế của nông thôn chỉ là
0,43, nghĩa là mỗi năm khu vực nông nghiệp chỉ tạo thêm được số việc làm mới
bằng 2,3% lực lượng lao động. Nói cách khác, theo nhận định của Triệu Đức Hạnh
thì mỗi năm trong khu vực nông thôn có gần 1 triệu lao động tăng thêm không tìm
được việc làm từ ngành nông nghiệp. Dó đó vấn đề tạo thêm việc làm cho nông dân
là một yêu cầu bức xúc [22].
Nguyễn Văn Đại nhấn mạnh trong nghiên cứu của mình là khu vực nông thôn
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào về số lượng nhưng kém về chất lượng, tính
đến năm 2012 Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều chủ trương, chính
sách nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này. Trong giai đoạn tới, để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa khu vực nông thôn thì các biện pháp
thúc đẩy hiệu quả hoạt động đào tạo nghề cho lao động ở khu vực này là điều có ý
nghĩa cấp thiết [15].
Phạm Lan Hương đã chỉ ra trong quá trình CNH, HĐH cơ cấu kinh tế nông
thôn đang dịch chuyển theo hướng giảm tỷ trọng các ngành sản xuất nông nghiệp,
tăng tỷ trọng ngành sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ. Trong nội bộ
ngành nông nghiệp, cơ cấu sản xuất cũng chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng các
ngành sản xuất trồng trọt, tăng giá trị sản xuất các ngành chăn nuôi và thủy sản,
chuyển dịch từ phương thức sản xuất phân tán sang sản xuất tập trung và sản xuất
hàng hóa. Sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất tất yếu ảnh hưởng đến cơ cấu ngành
8


nghề của lao động. Nhiều lao động làm nông nghiệp trước đây phải thực hiện
chuyển đổi nghề, hoặc phải làm nhiều nghề để đảm bảo thu nhập là điều tất yếu
[29]. Nghiên cứu này có nhiều điểm tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Đình
Phan và các cộng sự khi đề cập đến xu hướng tất yếu của chuyển đổi ngành nghề
trong khu vực nông thôn Việt Nam [37].
Bạch Thị Lan Anh [1] và Nguyễn Thị Thu Hường [30] đã chỉ ra phát triển các
làng nghề sẽ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm
nghèo, thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại cũng như thực hiện mục tiêu ly
nông bất ly hương ở nông thôn. Làng nghề ở Việt Nam trong đó một bộ phận quan
trọng là làng nghề thủ công truyền thống với sản phẩm đặc trưng là hàng thủ công
mỹ nghệ tinh xảo. Các sản phẩm này vừa mang giá trị kinh tế vừa hàm chứa nghệ
thuật văn hóa dân tộc. Phát triển làng nghề nói chung và làng nghề truyền thống nói
riêng không những có vai trò quan trọng trong đa dạng hóa việc làm và thu nhập,
mà còn mang ý nghĩa là giữ gìn, quảng bá bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Mai Ngọc Cường, Lê Quốc Hội, Mai Ngọc Anh đã chỉ ra nguyên nhân của
việc lao động nông thôn di cư ra 4 thành phố lớn (Hà Nội, Đồng Nai, TP Hồ Chí
Minh và Đà Nẵng) để tìm việc làm với mức thu nhập cao hơn. Đó là việc lao động
di cư ra thành phố tìm việc làm không chỉ góp phần cải thiện thu nhập và đời sống
của gia đình có lao động di cư làm việc nơi đô thị mà còn tác động tích cực đến sự
phát triển của nền kinh tế Việt Nam [10].
Việc di cư tìm việc làm cũng rất đa dạng đối với lao động trước đây làm nông
nghiệp ở khu vực nông thôn, Lưu Bích Ngọc trong nghiên cứu của mình đã cho
thấy xu hướng ngày càng gia tăng của nhóm lao động di cư làm việc trong khu vực
phi chính thức ở hai thành phố lớn của Việt Nam. Bùi Sỹ Tuấn chỉ ra rằng, mặc dù
có sự gia tăng về tỷ lệ xuất khẩu lao động trong thời gian qua [47]. Tuy nhiên, theo
Lưu Bích Ngọc, phần lớn lực lượng lao động đi xuất khẩu lao động của Việt Nam
xuất thân từ nông dân – những lao động "3 không” (không nghề, không ngoại ngữ,
không tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động), nên dẫn đến tình trạng vi phạm
9


kỷ luật và phải về nước trước thời hạn tương đối cao của lao động xuất khẩu người
Việt Nam [35].
1.1.2.3.Nghiên cứu về nguồn hình thành thu nhập của nông dân trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, những nghiên cứu ngoài nước về nguồn hình thành thu nhập của
nông hộ.
Do đa dạng hóa việc làm đối với khu vực nông thôn nên thu nhập của nông
dân cũng được hình thành từ nhiều nguồn. Trong thập niên 70 của thế kỷ 20, Saul
H. Harold và T. Shapiro đã chỉ ra tiền công lao động, tiền lương, trợ cấp từ chính
phủ hình thành nên tổng thu nhập của người dân Hoa Kỳ [108]. Pantazis cho rằng
ngoài những khoản tiền có được từ sự tham gia vào thị trường lao động, những
khoản tiền từ cho thuê tài sản, chuyển khoản (trợ giúp) của chính phủ, thu nhập của
người dân còn bao gồm các khoản hỗ trợ từ gia đình, người thân… Nói cách khác,
theo quan điểm của Pantazis, thu nhập của hộ gia đình được xác định bởi các khoản
thu từ lương, từ việc làm tự tạo, từ cho thuê tài sản, đến các khoản chuyển khoản
mà họ là đối tượng thụ hưởng [100].
Theo Davis-Brown, K và Salamon, trước sức ép từ sự biến đổi xã hội trong
điều kiện CNH, HĐH đất nước, để có thêm thu nhập, nông dân không chỉ thực hiện
các hoạt động sản xuất nông nghiệp mà còn tiến hành các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp [66]. Thực tế chứng minh các hoạt động phi nông nghiệp đóng góp từ
20-70% thu nhập của nông hộ đối với các gia đình nông dân ở các quốc gia có nền
kinh tế chuyển đổi [54], [59], [67], [68], [116], [119]. Nói cách khác, để có được
thu nhập đảm bảo chi tiêu cho đời sống thì nông dân ngoài thời gian làm nông
nghiệp, còn tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, và dịch vụ
khác[60];[90]. Một cách tổng quát, các nghiên cứu đã chỉ ra thu nhập của nông dân
được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau:
1) Thu từ hoạt động nông nghiệp: Thu nhập từ hoạt động nông nghiệp của
nông dân phụ thuộc vào khả năng tham gia làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp của

10
họ. Việc tham gia các hoạt động nông nghiệp của nông dân phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên, thời tiết [64], vào tình trạng sức khỏe [77], vào trình độ công nghệ mà
nông dân sử dụng trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh tế [76], các chính
sách mà chính quyền trung ương, chính quyền địa phương thực hiện để giúp người
dân tiếp cận tốt hơn tới thị trường lao động [89]. Khi những điều kiện này thuận lợi,
thu nhập của nông dân sẽ cao. Còn nếu một trong những yếu tố này chịu tác động
xấu thì thu nhập của nông dân sẽ bị tác động tiêu cực.
2) Thu từ việc làm phi nông nghiệp: hoạt động kinh tế phi nông nghiệp giữ
một vai trò quan trọng trong đảm bảo thu nhập cho các gia đình sống ở khu vực
nông thôn ở các nước đang phát triển, đặc biệt là với những nông hộ ít đất hoặc mất
đất do quá trình công nghiệp hóa [82], [111]. Việc làm phi nông nghiệp trong nông
thôn rất đa dạng và khác nhau giữa các vùng, các quốc gia. Ngành nghề phi nông
nghiệp trong nông thôn liên quan đến các hoạt động kinh tế phi mùa vụ thông qua
các hoạt động sản xuất ngành nghề thủ công truyền thống, hoạt động sản xuất dịch
vụ, vận tải, thương mại, Steven và Peter chỉ ra rằng những lao động thực hiện các
hoạt động kinh tế phi nông nghiệp với vốn đầu tư lớn thường có thu nhập cao hơn
hơn so với những lao động thực hiện các hoạt động phi nông nghiệp với vốn đầu tư
nhỏ hơn [110].
3) Thu từ các khoản trợ giúp của người thân: Các khoản tiền trợ giúp của
người thân có thể được hình thành từ việc thành viên trong gia đình thực hiện di cư
gửi tiền về cho người thân ở quê nhà. Mathias và Hein đã sử dụng lý thuyết kinh tế
mới của lao động di cư (NELM) để nghiên cứu về lý do di cư tìm việc làm của
người lao động. Nghiên cứu này khẳng định những người lao động có trình độ tay
nghề tốt nhưng đang làm việc ở những nơi có mức thu nhập thấp có xu hướng di cư
đến những nơi mà họ có thể có được mức nhu nhập cao hơn. Những cá nhân hoặc
hộ gia đình thực hiện di cư không chỉ có được thêm thu nhập mà còn kích thích tăng
thu nhập cho những hộ gia đình khác [93]. Priya cho rằng di cư trong nước cần
được thúc đẩy để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, góp phần tăng trưởng
kinh tế của các quốc gia đang phát triển bởi so với di cư quốc tế, di cư trong nước

11
không đòi hỏi cao về kỹ năng lao động, mọi lao động đều có thể di cư tìm việc làm
với thu nhập tốt hơn, và dành dụm một khoản tiền để gửi về tạo điều kiện nâng cao
thu nhập của gia đình [102]. Dean Yang và Hwajung Choi, Thomas, Richard,
Adams and Page đều cho rằng, di cư quốc tế và nguồn tiền gửi về nước xuất cư
ngày càng gia tăng vào cuối thể kỷ 20 đầu thế kỷ 21 [70], [113], [105]. Ioana và
Nikolaus khẳng định lao động di cư có trình độ càng cao thì khoản tiền gửi về gia
đình càng nhiều [83].
4) Thu từ các khoản trợ giúp từ chính phủ và các tổ chức: Armando và các
cộng sự khẳng định trợ giúp xã hội là những khoản tiền chuyển cho đối tượng thụ
hưởng mà không dựa trên sự đóng góp của họ nhằm thực hiện mục tiêu cải thiện thu
nhập cho những đối tượng yếu thế này [58]. Các khoản trợ giúp này có thể tồn tại
dưới hình thức trợ giúp có điều kiện hoặc trợ giúp không điều kiện [107]. Khoản
tiền trợ giúp này góp phần ổn định thu nhập của người dân trước những cú sốc kinh
tế, nâng cao tình trạng sức khỏe, học vấn tạo điều kiện nâng cao năng suất và thu
nhập cho nhóm đối tượng này.
Thứ hai, những nghiên cứu trong nước về các nguồn hình thành thu nhập nông dân.
Dưới sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, các nguồn hình thành thu
nhập của nông hộ trở nên đa dạng hơn và tổng thu nhập của gia đình nông dân do
đó cũng cao lên [11].
Dựa trên quan điểm quốc tế khi xác định các nguồn hình thành thu nhập, các
học giả trong nước khi xác định thu nhập của nông dân cũng dựa trên hai nguồn
hình thành cơ bản: (i) nội sinh và (ii) ngoại sinh [4], [27], [44], [48]. Những nghiên
cứu này thể hiện sự đồng thuận về quan điểm, đó là trong tổng thu nhập của nông
hộ thì nguồn ngoại sinh chiếm tỷ trọng thấp, nguồn nội sinh chiếm tỷ trọng cao.
Khi so sánh đóng góp từ các nguồn vào tổng thu nhập của nông hộ, Bạch Thị
Lan Anh và Mai Ngọc Anh đều chung nhận định hoạt động kinh tế phi nông nghiệp
có đóng góp cao hơn so với hoạt động kinh tế nông nghiệp vào tổng thu nhập của
nông hộ. Các khoản trợ giúp của người thân trong tổng thu nhập của nông hộ chủ
yếu đến từ việc thành viên trong gia đình di cư tìm việc làm gửi về [1], [4].

12
Những trợ giúp còn đến từ các nguồn còn lại khác mang ý nghĩa tinh thần
nhiều hơn [2], [4], 49]. Các tác giả đều nhất trí, rằng việc mở rộng mạng lưới bao
phủ của trợ giúp xã hội cũng như nâng cao chất lượng các khoản trợ giúp là điều
cần được Đảng và Chính phủ Việt Nam ưu tiên thực hiện trong giai đoạn tới để đảm
bảo mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho những đối tượng yếu thế. Nhận
định này một lần nữa được khẳng định trong nghiên cứu của Phan Thị Kim Oanh và
cộng sự [36]. Nghiên cứu này chỉ ra trong giai đoạn 2007-2009 khi thực hiện nghị
định 67/2007/NĐ-CP, mức chuẩn mà đối tượng của trợ giúp thường xuyên nhận
được hàng tháng là 120.000 đồng/người/tháng. Mức hỗ trợ này mới bằng 17,14%
thu nhập bình quân chung cả nước, 84,21% thu nhập bình quân của 20% hộ có thu
nhập ở mức thấp nhất và tương đương với 70,6% chi tiêu của nhóm hộ có thu nhập
thấp nhất. Từ năm 2010 việc sử dụng nghị định 13/2010/NĐ-CP để chi trả mức trợ
giúp hàng tháng cho đối tượng của trợ giúp thường xuyên. Theo nghị định này mức
chuẩn hàng tháng mà mỗi đối tượng thuộc diện này được hưởng là 180.000
đồng/người/tháng. Nếu mang so sánh với các chỉ số trên thì mặc dù có cải thiện
nhưng trên thực tế, các đối tượng của chương trình chưa đạt được mức sống tối
thiểu với nguồn tiền mà họ nhận được [36].
1.1.2.4. Nghiên cứu về sự biến đổi thu nhập của nông dân trong bối cảnh phát
triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đã có nhiều nghiên cứu về quá trình CNH, HĐH và tác động của nó đến biến
đổi thu nhập của nông dân. Purma C. Samanta nghiên cứu về công nghiệp hóa và
chỉ ra rằng đây là một thuật ngữ liên quan đến quá trình phát triển của các quốc gia
ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 [103]. Nói đến công
nghiệp hóa là nói đến sự chuyển đổi từ một nền kinh tế nông nghiệp hoạt động theo
hình thức tự cung tự cấp sang một nền kinh tế sản xuất dựa trên máy móc công nghệ
[84]. Công nghiệp hóa theo quan điểm của Mumo Nzau liên quan đến sự tham gia
của các nhà máy công nghiệp trong các hoạt động sản xuất tư liệu sản xuất cũng
như chế biến nguyên liệu thô thành thành phẩm [98]. Weiss J. cho rằng đây là một
quá trình mà các hoạt động sản xuất sử dụng công nghệ trong tổng số hoạt động

13
kinh tế tăng lên [117]. Theo Goode công nghiệp hóa phải gắn liền với những cải
tiến của công nghệ trong công nghiệp [79].
Anand Venkatesh và Chandan Jain chỉ ra quá trình công nghiệp hóa nông thôn
thúc đẩy: (i) sự phát triển của các ngành công nghiệp trong khu vực nông thôn và
(ii) sự liên kết của các ngành công nghiệp với các làng nghề. Tác động của quá trình
công nghiệp hóa nông thôn làm tăng thu nhập bình quân đầu người và giảm nghèo ở
khu vực nông thôn [57]. Theo Raphael Barel công nghiệp hóa nông thôn là một
công cụ cho việc tạo ra công ăn việc làm mới cho lực lượng lao động thất nghiệp và
cho người lao động thiếu việc làm trong ngành nông nghiệp [104].
Ảnh hưởng của công nghiệp hóa đến biến đổi việc làm nông thôn có tác động
trực tiếp đến các nguồn hình thành thu nhập của nông dân được lý giải ở nhiều khía
cạnh khác nhau:
(i) Thu nhập từ hoạt động nông nghiệp trong tổng thu nhập của nông hộ sẽ gia
tăng dưới tác động của công nghiệp hóa, bởi quá trình này tạo điều kiện để nông
dân áp dụng những thành tựu từ công nghệ sinh học và máy móc hiện đại vào sản
xuất, làm tăng sản lượng và thu nhập [115], [72].
(ii) Thu nhập từ hoạt động kinh tế phi nông nghiệp của nông dân trở nên đa
dạng hơn, bởi mối quan hệ tương hỗ giữa hai hình thức nghề nghiệp này trong quá
trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn. Steven và Peter cho rằng khi nông
nghiệp phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao sẽ thúc đẩy sự hình
thành và phát triển của các nhà máy sản xuất chế biến hàng nông sản. Ngược lại, sự
phát triển của các cơ sở sản xuất công nghiệp không chỉ khuyến khích sự phát triển
của ngành nông nghiệp mà còn tạo điều kiện phát triển các hoạt động kinh tế phi
nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Các hình thức sản xuất tiểu thủ công nghiệp,
ngành nghề truyền thống trong nông thôn phát triển mạnh dưới tác động của CNH,
HĐH cũng tạo cơ hội mạnh mẽ cho tăng thu nhập của nông dân [110].
(iii) Sự phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp (KCN, CCN) làm
giảm quỹ đất cho sản xuất nông nghiệp, tác động đến việc chuyển đổi nghề của lao
động nông nghiệp. Cùng với quá trình chuyển đổi nghề thì tình trạng di cư tìm việc

14
làm cũng gia tăng, theo quan điểm của Ioana Schiopu và Nikolaus Siegfried, việc di
cư tìm việc làm tạo điều kiện nâng cao thu nhập của gia đình ở quê nhà thông qua
các khoản tiền gửi từ nhóm đối tượng di cư tìm việc làm [83].
(iv) Cùng với những rủi ro do tự nhiên, thời tiết, biến đổi khí hậu, sự phát
triển công nghiệp, của kinh tế thị trường gắn với tình trạng khủng hoảng, thất
nghiệp, phân hóa giàu nghèo cũng ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân. Điều đó
đòi hỏi sự trợ giúp từ Ngân sách nhà nước (NSNN) cũng tăng lên. Những khoản trợ
giúp này ở nhiều nước, như các nước trong khối liên minh Châu Âu hiện nay trở
thành công cụ chính bảo trợ cho sự phát triển nông nghiệp và tài trợ cho nông dân.
Vì vậy, thu nhập từ các khoản trợ giúp trực tiếp bằng tiền mà nông dân nhận được
do đó cũng tăng lên trong cơ cấu thu nhập của nông hộ [74].
1.1.2.5. Những cong trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
của nông hộ trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ nhất, những nghiên cứu ngoài nước về các yếu tố ảnh hưởng đến thu
nhập của nông hộ:
1) Nghiên cứu về môi trường luật pháp và cơ chế chính sách: Các học giả quốc
tế, trong những nghiên cứu của mình dù không trực tiếp cũng gián tiếp khẳng định
môi trường luật pháp và cơ chế chính sách đều tác động đến biến đổi thu nhập của
nông dân. Nhiều nghiên cứu thể hiện ý tưởng NSNN là cần thiết để hỗ trợ những đối
tượng yếu thế gia tăng thu nhập cũng như đạt được một cuộc sống tốt hơn. UNIDO
chỉ ra chính sách phát triển nông nghiệp là cần thiết để nâng cao thu nhập cho nông
dân nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo cho nhóm đối tượng này [115].
2) Nghiên cứu về mức độ dồi dào của các yếu tố sản xuất: Alfonso Peter và
các cộng sự, Jean-Jacques và Alexandra đã chỉ ra rằng các yếu tố đầu vào của sản
xuất như quy mô quỹ đất, vốn và công nghệ được sử dụng có mối quan hệ tích cực
với thu nhập mà nông dân có được [56], [82]. Alain và các cộng sự


cho rằng thu
nhập còn chịu tác động bởi trình độ, kỹ năng của người lao động [55].
15
3) Quy mô hộ: Nghiên cứu Mohsin và các cộng sự đã chỉ ra mối quan hệ
ngược chiều giữa hộ có đông nhân khẩu ăn theo với khả năng tích lũy [96].
Thứ hai, những nghiên cứu trong nước về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
của nông hộ:
Nguyễn Thị Nhung đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, thu nhập
thấp của người dân ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam thành hai nhóm. (i) Nhóm nguyên
nhân chủ quan, đó là sự yếu kém về trình độ dân trí, hạn chế về kinh nghiệm làm
ăn, không biết cách sản xuất, đông con, thiếu khả năng lao động, thiếu vốn và hạn
chế về công nghệ liên quan đến bản thân người nghèo. Ngoài ra, trình độ và năng
lực hạn chế của đội ngũ cán bộ quản lý cũng là những yếu tố chủ quan tác động đến
sự biến đổi thu nhập của người dân ở khu vực này. (ii) Nhóm nguyên nhân khách
quan, liên quan đến điều kiện khí hậu thời tiết, sự hạn chế về hạ tầng kỹ thuật phục
vụ sản xuất nông nghiệp, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm đã tác động đến tình
trạng nghèo đói của người dân [31]. Những nghiên cứu này có nhiều điểm tương
đồng như nghiên cứu của Mai Ngọc Anh mặc dù cách phân chia yếu tố tác động
đến thu nhập của nông hộ là khác nhau giữa hai tác giả này [4]. Trong quyển sách
Tách biệt xã hội về kinh tế đối với nông dân Việt Nam, Mai Ngọc Anh đã đã chỉ ra
các yếu tố tác động đến thu nhập của nông dân ở nước ta, đó là (i) năng lực nội tại
của lao động nông dân, (ii) sự hỗ trợ của các tổ chức, hiệp hội, (iii) chính sách của
Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm cho nông dân và (iv) từ
sự hỗ trợ của chính phủ, các tổ chức NGOs, NPOs, (v) từ sự trợ giúp của bạn bè,
người thân [4]. Quan điểm về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ của
Nguyễn Thị Nhung và Mai Ngọc Anh do đó có vẻ đầy đủ hơn quan điểm của Trần
Quốc Nghi và các cộng sự bởi nghiên cứu của Trần Quốc Nghi chỉ xét những yếu tố
có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ như: (i) Số nhân khẩu, (ii) Kinh nghiệm của chủ
hộ, (iii) Trình độ học vấn của chủ hộ, (iv) Các hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập của
hộ và (v) Độ tuổi trung bình của các lao động trong hộ [4], [31], [33].

Nguyễn Thị Lệ Thúy và các cộng sự (2013) khi đưa ra các khuyến nghị nhằm
nâng cao thu nhập của nông hộ đã nhấn mạnh đến việc nhà nước cần tiếp tục các

×