Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Quan niệm "vô vi" của Trang Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.9 KB, 10 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần 1: mở đầu
Trang Tử sống vào thời Chiến Quốc. Ông sinh vào khoảng năm 360
TCN, 40 năm sau khi thời đại loạn bắt đầu, và 60 năm sau khi ông mất nó cũng
chấm dứt theo. Vậy ông đợc chứng kiến hầu hết những biến chuyển của thời đó.
Trang tử tên Chu, ngời đất Mông, là ngời học rộng; có viết một bộ sách gồm
trên mời vạn chữ, chủ yếu là ngụ ngôn, chỉ trích Khổng Mặc, làm sáng tỏ Lão
Tử. Văn cảu ông hay, lời lẽ có thứ tự, khéo tả tình; tuy hạng túc học đơng thời
cũng khó tự gỡ cho mình khi bị ông bài bác.
Theo T Mã Thiên, ông có làm một chức quan lại nhỏ ở quê nhà. Sau ông
ở ẩn, không chịu ra làm quan, chắc chắn có dạy học vì có một số bài chép
những lời ông nói với môn sinh. Ông ít đi, cũng nh Lão Tử và trái hẳn với Mạnh
Tử, Mặc Tử.
Ông giao du cũng ít, cơ hồ chỉ thân với một ngời là Huệ Thi, một triết gia lớn
hơn ông khoảng 10 tuổi. Trang Tử sống nghèo, theo sử ký T Mã Thiên thì một
vài lần ông đợc mời ra làm quan nhng ông không chấp nhận.
Trang Tử có một địa vị rất lớn trong lịch sử triết học Trung Quốc, ngang
hàng với Mạnh Tử và hơn cả Tuân Tử và Mặc Tử. Nhờ ông mà phần lớn t tởng
của Lão Tử mới đợc phổ biến mạnh mẽ. Theo Nguyễn Hiến Lê, ngời dịch Đạo
Đức Kinh thì tên Trang Tử gắn liền với Lão Tử và cả hai đều có công làm cho
dân tộc Trung Hoa bớt thực tế hơn, khoan dung khoáng đạt hơn, yêu tự do và
bình đẳng hơn. Không một triết gia nào, kể cả Lão Tử đề cao tự do và bình đẳng
một cách sâu sắc và nghệ thuật nh Trang Tử.
Ngay từ khi bắt đầu suy nghĩ về đề tài tiểu luận tôi đã nghĩ ngay đến đề
tài liên quan đến Trang Tử. Bởi Trang Tử có vẻ giống một nghệ sỹ hơn là một
nhà triết học. Đặc biệt ba chơng Tiêu dao du, Tề vật luận, Dỡng sinh chú là
những phần cống hiến quan trọng của Trang Tử cả trong triết học sử lẫn văn học
sử Trung Quốc (cả ba chơng này đều nằm trong tác phẩm Nam Hoa Kinh). Đi
sâu vào nghiên cứu Trang Tử, tôi muốn tìm hiểu kỹ về quan niệm Vô Vi của
ông bởi đây là quan niệm thông suốt, quán suyến nhân sinh quan của Trang Tử.
Phần 2: nội dung


1/ Thế nào là vô vi ?
Vô vi là khái niệm triết học do Lão Tử khởi xớng. Đó là phơng pháp sống
tự nhiên, thuần phác, không bị gò ép cỡng chế. Nội dung chủ yếu trong khái
niệm vô vi của Lão Tử là cách sống của con ngời trong sự hoà nhập với giới
tự nhiên, thuận theo tự nhiên, không can thiệp vào sự vậ hành của các vật khác,
chấp nhận và giải thích ứng với mọi hoàn cảnh.
Lão Tử phản đối hữu vi vì nh vậy là làm xáo trộn mọi trật tự, mọi hoà
hợp với tự nhiên của tạo hoá. Vô vi theo Lão Tử còn là sự tự do tuyệt đối,
không bị ràng buộc vào bất cứ ý tởng, dục vọng, đam mê nào cả; là đừng đánh
mất mình, là ngăn ngừa những việc làm của con ngời làm tổn hại đến bản tính
tự nhiên của vạn vật.
Nh đã nói ở trên, Trang Tử đã kế thừa t tởng của Lão Tử và đã thêm bớt
nhiều. Quan niệm "Vô vi" cảu Trang Tử đợc biểu hiện cụ thể hơn qua các vấn
đề sống, chết, tự do, hạnh phúc,.v.v.Trong đó Nam Hoa Kinh là một tác phẩm
phản ánh một cách đầy đủ t tởng của Trang Tử.
2/ "Vô vi" đợc thể hiện nh thế nào trong tác phẩm "Nam Hoa Kinh" của
Trang Tử?
"Nam Hoa Kinh" đợc đánh giá là một tác phẩm xuất sắc. Kim Thánh
Thán là một nhà phê bình đời Minh theo chủ nghĩa ấn tợng cho rằng, Trung
Hoa có sáu bộ tài tử th hay nhất : 1/Trang Tử, 2/Ly Tao của Khuất Nguyên,
3/Sử ký T Mã Thiên, 4/Tập thơ luật của Đỗ Phủ, 5/Thuỷ Hử của Thi Nại Am,
6/Tây Sơng Ký cảu Vơng Thực Phủ. Nh vật "Nam Hoa Kinh" đợc đứng đầu lục
tài tử. Ai cũng công nhậ Trang Chu(Trang Tử) vừa là một triết gia vừa là một
nghệ sỹ và vawn tài của ông đôi khi đợc ngời ta trọng hơn học thuyết cảu ông
nữa.
Tác phẩm "Nam Hoa Kinh" gồm có ba phần: Nội Thiên, Ngoại Thiên và
Tạp Thiên. Nhng theo dịch giả Nguyễn Hiến Lê thì Nội Thiên đúng là của
Trang Tử viết còn Nội Thiên và Tạp Thiên có thể là do ngời đời sau thêm vào.
2
Phần lớn quan niệm về nhân sinh quan "Vô vi" cảu Trang Tử đều ttaapj trung ở

Nội Thiên.
Trớc hết, "Vô vi" là thảnh thơi, tự tại(Tiêu dao du). Đó là cách sống
thuận thiên tính không tuỳ thuộc vào cái gì, không lập công, không cầu danh,
quên mình đi Thuận thiên tức là thuận theo trời đất. Trang Tử đã diễn giải ý
này nh sau: Biển Bắc có con cá gọi là cá Côn, mình dài không biết mấy ngàn
dặm. Nó biến thành con chim gọi là chim Bằng, lng rộng không biết mấy ngàn
dặm, khi tung cánh nó nh đám mây trên trời. Biển Bắc động thì nó dời về Biển
Nam gọi là Ao Trời. Tề Hai là sách ghi lại những chuyện quái dị. Sách đó bảo
khi con chim Bằng dời xuống Biển Nam, nó đập nớc tung toé lên ba ngàn dặm
rồi nơng gió lốc cuốn lên cao chín vạn dặm. Nó xuống Biển Nam vào tháng sáu
lúc gió nổi lên.
Bằng hình ảnh ngụ ngôn hết sức sống động và khoáng đạt Trang Tử đã
diễn đạt ý thuận thiên cảu ngời quân tử. Con chim Bằng tợng trng cho trí lực
lớn, có thể đội trời đạp đất. Và nó đã mạnh còn mạnh hơn vì nó đã biết thuận
thiên tính, biết dời về Biển Nam khi Biển Bắc động.
Thuận thiên tính còn đợc diễn đạt sâu sắc và nghệ thuật hơn trong đoạn
văn sau: Nớc không sâu thì không chở đợc thuyền lớn. Đổ một chén nớc
xuống một chỗ lõm ở trớc sân thì thả một cọng cỏ xuống làm thuyền đợc, nếu
thả cái chén đó xuống thì chén đó chạm đất, không nổi đợc, vì nớc nông mà
thuyền lớn. Lớp không khí mà không dày thì không đỡ đợc những cánh chim
lớn. Cho nên con chim Bằng phải bay cao lên chín vạn dặm để có lớp không khí
dày đỡ nó ở dới, rồi lng nó mới đội trời xanh, không hề bị cản trở, mà bay
xuống Biển Nam đợc.
Con ve sầu và con chim cu cời con chim Bằng rằng: chúng tao bay lên
cây du, cây phợng, có lúc bay không khí mà rớt xuống đất. Hà tất phải bay cao
chín vạn dặm để xuống phơng Nam?.
Trang Tử muốn diễn đạt cái lớn_nhỏ, lớn nh chén nớc, nh chỗ lõm trớc
nhà, nh cọng cỏ, nh con chim Bằng, nh con ve sầu và con chim cu. Tất cả đều
3
rất biết tự đắc với thân phận và nhiệm vụ của mình. Cái đó há chẳng phải là

thuận thiên tính sao.
"Vô vi" còn là sự độc lập, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì, chỉ biết
mình: Ông Vinh tử nớc Tống cời họ. Dù là cả nớc khen ông ông cũng không
mừng, cả nớc chê ông ông cũng không buồn, vì ông biết phân biệt nội và ngoại,
vinh và nhục. Ngời nh ông thật hiếm ở đời, nhng ông chỉ biết tự thủ( tự giữ
mình) thôi chứ cha thích nghi với vật mà thành bậc đại.
Ông liệt tử cỡi gió mà bay, thật nhẹ nhàng, khoan khoái mời lăm ngày rồi
về. Có phúc lớn nh ông thật hiếm ở đời, tuy khỏi phải đi nhng ông vẫn phụ
thuộc vào cái gì đó(tức là phải đợi cho gió nổi lên). Đến nh hạng ngời làm chủ
các chính đạo của trời đất, chế ngự đợc lục khí để giao du trong vũ trụ vô biên
thì còn tuỳ thuộc vào cái gì nữa đâu? Cho nên ngời ta bảo bậc chí nhân thì
quên mình, bậc thần nhân thì lập công, bậc thánh nhân thì không lu danh.
Sự "Vô vi" đồng nghĩa với sự hoàn toàn tự do, không phụ thuộc vào bất
cứ một điều gì, không can thiệp vào sự vận hành cảu các vật khác. Quan niệm
này của Trang Tử là sự kế thừa của Lão Tử nhng ông còn tiến xa hơn Lão Tử ở
chỗ ông tự quên mình đi, hoà mình vào sự biến đổi tuần hoàn của thiên nhiên
tạo vật nh thân nhân ở núi Cô Dạ: Trên núi Cô Dạ xa xôi, có thân nhân ở, dạ
họ trong trắng nh băng tuyết, họ đẹp đẽ, mềm mại nh gái trinh. Họ không ăn
ngủ cốc, chỉ hít gió uống sơng mà sống, họ cỡi mây và rồng bay đi chơi khắp
ngoài cõi bốn bể. Họ định thần mà làm cho vạn vật không bị bệnh tật, mùa
màng năm nào cũng trúng. Thần nhân trên núi Cô Dạ có thể nói là đạt đạo
Đạo không làm gì nhng không gì không làm.
Quan niệm "Vô vi" trong triết lý nhân sinh quan của Trang Tử còn thể
hiện ở chơng Tề vật luận_Đây đợc coi là một chơng quan trọng nhất, chứa
nhiều t tởng độc đáo nhất cảu bộ sách. Trang Tử chủ chơng coi mọi vật nh
nhau, ngang nhau, không gì hơn, không gì kém, không gì xấu, không gì tốt vì
vậy nên không làm gì cả. Đây là một khái niệm Vô vi tuyệt đối.
Trang Tử quan niệm vật nào cũng là vật khác và cũng là chính nó. Phân
biệt vật và mình thì không thấy đợc lẽ đó, hoà đồng với vật thì thấy đợc, cho
4

nên mới bảo cái kia là từ cái này mà ra, mà cái này cũng từ cái kia mà ra. Mình
là ngời khác, ngời khác cũng là mình. Từ quan niệm mọi vật ngang nhau này,
Trang Tử cũng đa ra một khái niệm tơng đối nh sau: So với một cái cực nhỏ thì
đầu chiếc lông mùa thu là cực lớn; so với một cái cực lớn thì núi Thái Sơn là cực
nhỏ. Loài ngời ăn thịt dê, thịt bò lại cho là cây, cỏ mới là ngon, loài ngời cho
Mao Trờng, Lệ Cơ là đẹp, nhng loài chim cá thấy hai nàng đó thì bỏ trốn; vậy là
không có chinh vi và chính sắc nghĩa là không có gì làm tiêu chuẩn bất di
bất dịch cho khẩu vị, sắc đẹp cả, không có gì tuyệt đối cả. Hơn nữa mọi vật đều
biến thiên, một việc lúc này cho là khổ, lúc khác cho là vui, lúc này cho là phải,
lúc khác lại cho là trái. Nàng Lệ Cơ phải xa cha mẹ thì khóc mớt, nhng về nhà
chồng rồi thì lại thấy sung sớng và ân hận rằng trớc kia đã khóc. Cho nên chỉ
ngời phàm mới lao khổ vì sự thị phi, còn thánh nhân thì đạt đợc cái tinh khiết
của cái nhất, nó bao quát đợc mọi biến hoá của mọi thời đại và mọi vật.
Tuy nhiên, Trang Tử cho rằng mọi vật nh nhau, mọi nhời nh nhau nhng
lại phân biệt đại trí và tiểu trí: Đại trí thì bao quát, tiểu trí thì phân biệt những
cái nhỏ nhặt; lời nói sâu sắc thì sáng rõ, lời nói thô thiển thì buồn, tế toác. Khi
ngủ thì tinh thần hôn mê, khi tỉnh dậy thì thân thể cử động. Tiếp xúc với ngời
khác thì tự nhiên dựng tâm mu mô. Do đó mà sinh ra do dự, giả dối, ẩn ý. Hơi
lo sợ thì sinh ra xao xuyến, u t, quá lo sợ thì sinh ra trì độ, mất hồn. Khi ngời ta
hành động thì nhắm ngời khác nh để bắn con mồi, rồi thì bất động để nhận định
sự thắng lợi của mình. Do đó, khi lực mỗi ngày một suy đi nh sinh vật mùa thu,
mùa đông; chìm đắm trong thói xấu, ngột ngạt, ngày càng già tệ, hậu quả là tinh
thần nh chết dần, không sao lấy lại đợc sinh khí nữa.
Mừng giận, vui buồn, lo lắng, ân hận, phản phúc, sợ sệt, phóng túng,
biếng nhác, kinh cuồng, ngạo mạn, tất cả những cái đó tự nó phát sinh ra nh âm
nhạc phát ra từ ống rỗng(ống sáo) hoặc nấm từ hơi đất (ẩm ớt) mà ra. Ngày đêm
nối tiếp nhau, ai biết đợc từ đâu mà có? Hỡi ơi, hỡi ơi, bao giờ ta hiểu đợc lẽ
sinh hoá trong vũ trụ.
5

×