Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đặc điểm tài nguyên nước ngọt và hiện trạng khai thác tài nguyên nước ngọt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.07 KB, 17 trang )

ĐỀ Tài :“Đặc điểm tài nguyên nước ngọt và
hiện trạng khai thác tài nguyên nước ngọt
ở Đồng Bằng Sông Cửu Long”
NHOM 7
Nguyễn Quốc Hậu B1207358 Tham gia 100%
Trần Ngọc Huyền B1309268 Tham gia 100%
Phùng Quốc Nguyên B1309299 Tham gia 100%
Nguyễn Hà Tâm B1309323 Tham gia 100%
1
MỤC LỤC
2.1.2.5 Thiếu nước sinh hoạt 9
3.1.3.7Xử lý nước rỉ rác thải bằng cỏ 14
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐBSCL: Đồng bằng Sông Cửu Long
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nước ngọt là một loại tài nguyên không thể thiếu đối với con người nói chung
và đặc biệt là người dân ĐBSCL nói riêng. Nguồn nước ngọt thường được sử dụng chủ yếu
vào sinh hoạt, chăn nuôi và trồng trọt. Tuy nhiên hiện nay các nguồn nước ngọt đang phải
đối mặt với nguy cơ bị nhiễm mặn trầm trọng bởi thời tiết ngày càng diễn biến thất thường
nhất là sự nóng lên của trái đất đã ảnh hưởng sâu sắc đến vùng ĐBSCL, kèm theo hạn hán
hay do các hoạt động sản xuất quá mức gây ra.
2
Mùa mưa năm 2014 có lượng mưa phân bố không đều và diễn biến phức tạp, lũ
thượng nguồn về sớm, rồi rút sớm. Vì vậy, những tháng đầu năm 2015 sẽ rất khó khăn vì
thiếu nước ngọt do tình tình hình thời tiết năm nay được dự báo sẽ rất thát thường.
Vì thế em xin chọn đề tài “Đặc điểm tài nguyên nước ngọt và hiện trạng khai thác tài
nguyên nước ngọt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long” để thấy được thực trạng tài nguyên nước
ngọt hiện nay từ đó tìm ra các giải pháp khai thác và sử dụng hợp lý tại ĐBSCL nhằm hạn
tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất ở ĐBSCL.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU


2.1 Mục tiêu chung:
Nghiên cứu về đặc điểm tài nguyên nước ngọt và thực trạng khai thác tài
nguyên nước ngọt tại một số tỉnh ở ĐBSCL đó đưa ra các giải pháp pháp khai thác và sử
dụng hợp lý tài nguyên nước ngọt tại ĐBSCL.
Mục tiêu cụ thể
2.2 Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu trạng khai thác tài nguyên nước ngọt tại một số tỉnh ở ĐBSCL.
Phân tích tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm tài nguyên nước ngọt
ở ĐBSCL.
Đề xuất những giải pháp cải thiện tài nguyên nước ngọt ở ĐBSCL.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Về không gian
Để nghiên cứu trạng khai thác tài nguyên nước ngọt ở ĐBSCL.
3.2 Về thời gian
Số liệu sử dụng cho đề tài là số liệu thứ cấp thu thập từ 2012 – 2014.
3.3 Đối tượng nghiên cứu
Tài nguyên nước ngọt và hiện trạng khai thác tài nguyên này ở ĐBSCL.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Cơ sở lý luận
4.1.1 Khái niệm tài nguyên nước
Nước được xem như một tài nguyên quí giá và cần thiết cho sự sống.
Nước chi phối nhiều hoạt động của con người, thực và động vật và vận hành của thiên nhiên.
Theo định nghĩa thông thường: “Nước là một chất lỏng thông dụng. Nước tinh khiết có công
thức cấu tạo gồm 2 nguyên tử hydro và một nguyên tử oxy, nước là một chất không màu,
không mùi, không vị. Dưới áp suất khí trời 1 atmosphere, nước sôi ở 100°C và đông đặc ở
0°C, nước có khối lượng riêng là 1000 kg/m3”. Khái niệm đơn giản về nước là như vậy,
nhưng đi sâu nghiên cứu, ta thấy nước có nhiều tính chất kỳ diệu bảo đảm cho sự sống được
tồn tại và phát triển.
4.1.2 Chức năng của nước
Nước là một thành phần chính của cơ thể và các cơ quan quan trọng. Nước

có 5 chức năng chính:
 Nuôi dưỡng tế bào: nước cung cấp, vận chuyển chất dinh dưỡng cần
thiết cho các tế bào, chẳng hạn như các khoáng chất, vitamin và glucose
 Chuyển hoá và tham gia các phản ừng trao đổi chất: nước là dung
môi hoà tan và vận chuyển các chất dinh dưỡng trong thức ăn mà cơ thể đã hấp thu.
3
 Đào thải các chất cặn bã: nước loại bỏ các độc tố mà các cơ quan,
tế bào từ chối đồng thời thông qua đường nước tiểu và phân.
 Ổn định nhiệt độ cơ thể:nước giúp cân bằng nhiệt độ cớ thể trong môi
trường nóng hoặc lạnh. Nước cho phép cơ thể giải phóng nhiệt khi nhiệt độ môi trường cao
hơn so với nhiệt độ cơ thể. Cơ thể bắt đầu đổ mồ hôi, và sự bay hơi của nước từ bề mặt da
rất hiệu quả làm mát cơ thể.
 Giảm ma sát: nước là một chất bôi trơn hiệu quả quanh khớp.
Nó cũng hoạt động như một bộ phận giảm xóc cho mắt, não, tuỷ sống. Nước là trung tâm
của cuộc sống. Điều này lý giải tại sao không ai có thể sống hơn 3 đến 5 ngày mà không
có bất kỳ lượng nước uống vào.
4.1.3 Vai trò của tài nguyên nước ngọt
•Nước là yếu tố hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển của sinh
giới. Không có nước sự sống lập tức bị rối loạn, ngưng lại và tiêu diệt.
•Nước chiếm thành phần chủ yếu trong cấu tạo cơ thể thực và động vật.
Con người, có khoảng 65 - 75% trọng lượng nước trong cơ thể, đặc biệt nước chiếm tới 95
%, trong huyết tương, cá có khoảng 80 % nước trong cơ thể, cây trên cạn có 50 – 70 %
nước, trong rong rêu và các loại thủy thực vật khác có 95 - 98 % là nước.
•Muốn có thực phẩm cho người và gia súc cần có nước: muốn có 1 tấn
lúa mì, cần 300 - 500 m3 nước, 1 tấn gạo cần tiêu thụ 1.500 - 2.000 m3 nước và để có 1 tấn
thịt trong chăn nuôi cần tốn 20.000 - 50.000 m3 nước.
•Lượng nước trên trái đất là một máy điều hòa nhiệt và làm cho cán cân
sinh thái được cân bằng. Sự sống thường tập trung ở các nguồn nước, phần lớn các nền văn
minh, các trung tâm kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội,
dân cư, đều nằm dọc theo các vùng tập trung nước.

•Sự thay đổi cán cân phân phối nước hoặc sự phá hoại nguồn nước có
thể làm tàn lụi các vùng trù phú, biến các vùng đất màu mỡ thành các vùng khô cằn. Trong
những thập niên sắp tới, chiến tranh, xung đột giữa các quốc gia và các vùng khu vực có thể
do nguyên nhân tranh giành tài nguyên nước quí báu này.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
4.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập chủ yếu từ internet, báo chí, tạp chí, trang
web của tổng cục thống kê và một số các tài liệu có liên quan khác.
4.2.2 Phương pháp phân tích
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để mô tả hiện trạng về thực trạng
khai thác tài nguyên nước ngọt tại một số tỉnh ở ĐBSCL.
Sử dụng phương pháp tổng hợp thông tin về thực trạng khai thác tài
nguyên nước ngọt tại một số tỉnh ở ĐBSCL để đề xuất phương án sử dụng hợp lý tài nguyên
nước ngọt ở ĐBSCL trong tương lai.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, BIỂU HIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU Ở ĐBSCL ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGUỒN TÀI
NGUYÊN NƯỚC NGỌT Ở ĐBSCL
4
1. 1 Khái quát điều kiện tự nhiên ở ĐBSCL
1.1.1Vị trí địa lý
BSCL là khu vực nằm ở phần cuối của bán đảo Đông Dương, liền kề với vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam nên vùng có mối quan hệ hai chiều rất chặt chẽ và quan trọng.
Nằm giáp với Campuchia và cùng chung sông Mê Kông là điều kiện giao lưu hợp tác với
các nước trên bán đảo. Nằm ở vùng tận cùng Tây Nam của Tổ quốc có bờ biển dài 73,2km
và nhiều đảo, quần đảo như Thổ Chu, Phú Quốc là vùng đặc quyền kinh tế giáp biển Đông
và vịnh Thái Lan.
Vùng nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế
giữa Nam á và Đông Nam á cũng như với châu úc và các quần đảo khác trong Thái Bình
Dương. Vị trí này rất quan trọng trong giao lưu quốc tế.
Vùng bao gồm các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc

Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang với tổng diện tích
tự nhiên 39.734 chiếm 12,2 % diện tích tự nhiên của cả nước.
Trữ lượng khoáng sản không đáng kể. Đá vôi phân bố ở Hà Tiên, Kiên Lương dạng núi vách
đứng với trữ lượng 145 triệu tấn. Phục vụ sản xuất xi măng, vôi xây dựng; cát sỏi ở dọc
sông Vàm Cỏ, sông Mê Kông trữ lượng khoảng 10 triệu mét khối; than bùn ở U Minh, Cần
Thơ, Sóc Trăng, tứ giác Long Xuyên. Ngoài ra còn các khoáng sản khác như đá, suối
khoáng…
1.1.2 Đặc điểm địa hình, địa mạo
Vùng ĐBSCL của Việt Nam được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi
dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình
thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình
thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven
biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác
Long Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Địa hình của vùng tương
đối bằng phẳng, độ cao trung bình là 3 - 5m, có khu vực chỉ cao 0,5 - 1m so với mặt nước
biển.
1.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu ở ĐBSCL trong thời gian qua
1.2.1 Nhiệt độ
Gần đây Ngân Hàng Thế Giới cũng cảnh báo rằng Việt Nam sẽ là 1 trong 5
nước bị ảnh hưởng nặng nhất vì tình trạng biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao. Nếu
nước biển dâng cao thêm 1 mét thì một phần đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long sẽ bị
chìm ngập dưới nước ảnh hưởng khoảng 8 triệu dân cư.
Trên thực tế Việt Nam đã có những biểu hiện của BĐKH về các yếu tố khí hậu
cơ bản (nhiệt độ, lượng mưa ) cũng như các yếu tố thời tiết (bão, mưa lớn, hạn hán ).
Được biết trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình tại Việt Nam đã tăng 0,7°C, mực nước biển
dâng 20 cm. Trong thời gian, cùng với tình hình chung của Thế giới, Việt Nam đã và đang
chịu ảnh hưởng biến đổi khí hậu, thiên tai bão lụt hạn hán đã diễn ra với cường độ mạnh hơn
trước.
1.2.2Lượng mưa
Lượng mưa trung bình ở ĐBSCL biến động trong khoảng 1.400 - 2.200

mm/năm. Tỉnh có lượng mưa cao nhất là Cà Mau (trên 2.200 mm/năm), tỉnh có lượng mưa
5
thấp nhất là Đồng Tháp (xấp xỉ 1.400 mm/năm). Tuy nhiên, điểm có lượng mưa được ghi
nhận thấp nhất là Gò Công (Tiền Giang) chỉ vào khoảng 1.200 mm/năm với trung bình có
100 - 110 mm/năm. Đảo Phú Quốc (Kiên Giang) được ghi nhận như là nơi có lượng mưa
cao nhất vùng đồng bằng, lên đến 3.145 mm/năm với tổng số ngày mưa ghi nhận là 140
ngày mưa/năm. Trong các tháng mùa mưa, số liệu từ các trạm đo mưa cho thấy có khoảng
13 - 21 ngày mưa/tháng. Trong mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3, số ngày có mưa trong
tháng rất ít chỉ vào khoảng 0 - 6 ngày mưa. Theo dõi số liệu mưa nhiều năm ở khu vực
ĐBSCL, ta thấy tại Kiên Giang thường bắt đầu có mưa sớm vào tháng 4, sớm hơn các tỉnh
khác khoảng 15 - 20 ngày. Nếu so sánh với số liệu mưa ở các khu vực khác trong toàn quốc
ở Việt Nam thì mưa ở ĐBSCL ít bị biến động. (Trung tâm khí tượng thủy văn Quốc gia).
1.2.3Bão, áp thấp nhiệt đới
Cũng như năm 2012, mực nước ở các trạm thủy văn đầu nguồn sông Cửu
Long là Tân Châu, Châu Đốc đều thấp hơn hoặc tương đương mức báo động III, và thấp hơn
đỉnh lũ năm 2011, nhưng mực nước ở hạ nguồn, tại địa bàn tỉnh lại rất cao và kéo dài đến
cuối tháng 11. Đặc biệt là thời điểm giữa tháng 10, mực nước sông, rạch trong tỉnh vượt
đỉnh lũ năm 2012 và ở mức tương đương với đỉnh lũ năm 2011- năm được xem là năm lũ
lớn ở đồng bằng sông Cửu Long.
Trong ứng phó với lốc xoáy, gió mạnh, các huyện đã tổ chức chằng, chống
4.010 căn trong tổng số 8.362 căn nhà cần chằng, chống. Riêng huyện Mang Thít và thị xã
Bình Minh đã hỗ trợ 84,432 triệu đồng cho các xã mua dây kẽm cấp cho dân chằng, chống
nhà. Công tác này giúp giảm đáng kể số nhà bị hư hại do giông, lốc xảy ra. Chính quyền xã
và ngành chức năng phối hợp chặt chẽ, thực hiện nhanh chóng công tác khắc phục hậu quả
và hỗ trợ, giúp dân dựng lại nhà cửa, ổn định nơi ở và sản xuất. Ngành Lao động và thương
binh-xã hội đã hỗ trợ 622,209 triệu đồng cho những hộ bị thiệt hại.(Sở Nông Nghiệp và Phát
Triển Nông Thôn Tỉnh Vĩnh Long).
1.2.4Các yếu tố thời tiết cực đoan
ĐBSCL sẽ là vùng bị ảnh hưởng mạnh nhất, nước biển dâng cao hơn sẽ làm
cho nhiều vùng đồng bằng nước ngọt hiện nay trở thành vùng nước lợ, làm thay đổi chế độ

thủy văn dòng chảy và gây áp lực đến 90% diện tích ngập nước. Vì theo dự báo, trong vài
chục năm tới, ĐBSCL nước biển sẽ dâng cao làm ngập lụt phần lớn ĐBSCL vốn đã bị ngập
lụt hàng năm, dẫn đến mất nhiều đất nông nghiệp. Sẽ có từ 15.000 – 20.000 đất thấp ven
biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng nước sông Mêkông giảm từ 2 – 24% trong mùa khô, tăng
từ 7- 15% vào mùa lũ. Hạn hán sẽ xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An
Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Thành phố Cần Thơ,
Hậu Giang, thời gian ngập lũ tại đây sẽ kéo dài hơn hiện nay. Việc tiêu thoát nước mùa mưa
lũ cũng khó khăn (Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn).
1.3.Đặc điểm tài nguyên nước ngọt của ĐBSCL
ĐBSCL lấy nước ngọt từ sông Mê Công và nước mưa. Cả hai nguồn này đều đặc
trưng theo mùa một cách rõ rệt. Lượng nước bình quân của sông Mê Công chảy qua ĐBSCL
hơn 460 tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phù sa. Chính lượng nước và khối
lượng phù sa đó trong quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo nên Đồng bằng ngày nay.
ĐBSCL có hệ thống sông kênh rạch lớn nhỏ đan xen, nên rất thuận lợi cung cấp nước
ngọt quanh năm. Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, sông Mê Công là nguồn nước mặt
6
duy nhất. Về mùa mưa, lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 2.400 mm ở vùng phía
Tây ĐBSCL đến 1.300 mm ở vùng trung tâm và 1.600 mm ở vùng phía Đông. Về mùa lũ,
thường xảy ra vào tháng 9, nước sông lớn gây ngập lụt.
Chế độ thuỷ văn của ĐBSCL có 3 đặc điểm nổi bật:
• Nước ngọt và lũ lụt vào mùa mưa chuyển tải phù sa, phù du, ấu trùng.
• Nước mặn vào mùa khô ở vùng ven biển.
• Nước chua phèn vào mùa mưa ở vùng đất phèn.
• ĐBSCL có trữ lượng nước ngầm không lớn. Sản lượng khai thác được
đánh giá ở mức 1 triệu m3/ngày đêm, chủ yếu phục vụ cấp nước sinh hoạt.
CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN NƯỚC NGỌT Ở ĐBSCL
2.1 Thực trạng thiếu nước ngọt ở ĐBSCL
Như chúng ta đã thấy tài nguyên nước có xu hướng suy thoái do tác động của con
người và biến đổi khí hậu toàn cầu. Về mùa khô ở ĐBSCL hầu như không có mưa, nguồn
nước chủ yếu do sông Mê Kông cung cấp, bình quân lưu lượng kiệt của sông Mê Kông chảy

về ĐBSCL khoảng 2000 m
3
/s. Trong giai đoạn tới, 5 nước trong lưu vực sông Mê Kông sẽ
đẩy mạnh phát triển kinh tế. Đây là những nước có nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước
nên nhu cầu dùng nước rất nhiều, bên cạnh đó thảm thực vật phía thượng nguồn đang bị suy
giảm nghiêm trọng. Ước tính lưu lượng chảy về ĐBSCL lúc đó chỉ còn khoảng 1000 m
3
/s,
nguy cơ hạn hán sẽ rất nghiêm trọng.
Điều này hoàn toàn phù hợp với dự báo của Tổ chức Quỹ bảo vệ thiên nhiên Thế giới
(WWF). Theo đánh giá của tổ chức này, trong số 5 dòng sông đang bị cạn kiệt ở châu Á,
ngoài các sông Dương Tử, Salween, Ganges và Indus, có cả sông Mê Kông đi qua Việt
Nam. Khu vực ĐBSCL có diện tích 39.313 km
2
, chiếm hơn 79% diện tích của tam giác châu
Mê Kông. Qua đó dễ dàng hình dung trong trường hợp sông Mê Kông bị cạn kiệt sẽ là thảm
họa cho cả khu vực.
Vấn đề thiếu hụt nguồn nước ngọt sẽ tác động hết sức tiêu cực đến mọi mặt đời sống
kinh tế xã hội. Riêng đối với ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc thiếu nguồn
nước sẽ gây ra những khó khăn tổn thất lớn ở những vấn đề chính như sau:
Vấn đề thiếu hụt nguồn nước ngọt sẽ tác động hết sức tiêu cực đến mọi mặt đời sống
kinh tế xã hội. Riêng đối với ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc thiếu nguồn
nước sẽ gây ra những khó khăn tổn thất lớn ở những vấn đề chính như sau:
• Thiếu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, trồng cây ăn quả và dân sinh;
• Thiếu nguồn nước ngọt phục vụ cho nuôi thủy sản;
• Theo dự báo trong những năm tới, mực nước biển sẽ ngày một dâng cao, khả
năng xâm nhập mặn sẽ rất lớn. Lưu lượng nước thượng nguồn về bị giảm sút sẽ không đủ
lưu lượng đẩy mặn, nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào nội địa, thực tế có những năm ở một số
sông mặn xâm nhập sâu đến gần 90 km như ở Mộc Hoá (Long An) (có lúc độ mặn lên tới
4‰) gây khó khăn lớn tới sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.

7
Tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), dân số tăng nhanh, trong khi nước biển lấn
sâu vào đất liền dẫn đến việc ngày càng thiếu nước ngọt phục vụ sinh hoạt. Một số nhà
chuyên môn dự báo tình trạng trên sẽ khiến khu vực này thiếu ít khoảng 1,7 triệu m³
nước/ngày kể từ năm 2030
Tại hội thảo “Hạ tầng nước và thách thức của biến đổi khí hậu”, diễn ra trong 3 ngày
(từ 19 đến 21-11/2014) ở Cần Thơ, ông Lê Văn Tuấn, Cố vấn trưởng của Bộ Xây dựng, cho
biết nếu không tính hai huyện đảo Phú Quốc và Kiên Hải của Kiên Giang thì khu vực Tây
Nam sông Hậu (gồm 7 tỉnh/thành: Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Hậu Giang,
Sóc Trăng và Bạc Liêu) sẽ thiếu ít nhất 800.000 m³ nước sinh hoạt/ngày kể từ năm 2020.
Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của Công ty cổ phần nước và môi trường Việt Nam
(VIWASE), cho thấy đến năm 2030 khu vực này thiếu ít nhất 1,7 triệu m³ nước sạch/ngày để
phục vụ cho sinh hoạt của người dân nơi đây.
Theo WIWASE, ngoài chịu tác động của biến đổi khí hậu làm nước biển dâng dẫn
đến nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền, thì gia tăng dân số cũng là nguyên nhân khiến tình
trạng thiếu nước ngọt phục vụ cho sinh hoạt diễn ra nghiêm trọng hơn
VD:Tại tỉnh Hậu Giang, theo thông tin từ Sở NN&PTNT, có khoảng gần
10.000 ha diện tích trồng lúa tại thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ đang bị ảnh hưởng
bởi nắng nóng kéo dài. Nếu tình hình thời tiết không thay đổi, trong khoảng một tháng nữa,
tại các xã Hòa An, Hòa Mỹ, Tân Long, Phương Bình hơn 40 tuyến kênh cấp 2, 3 sẽ bị
thiếu nước cục bộ và có thể ảnh hưởng đến 9.700 ha đất trồng lúa.
Các xã thuộc huyện Bình Đại (Bến Tre) như: Thới Thuận, Thừa Đức, Thạnh
Phước nằm trong vùng nước mặn nên áp lực thiếu nước sinh hoạt của bà con trong mùa khô
rất gay gắt. Tuy tỉnh đã có hệ thống dẫn nước thô từ cống đập Ba Lai nhưng chỉ đến được xã
Thạnh Phước. Nguồn kinh phí hàng năm của Trung tâm nước sạch cũng không đủ để đầu tư
hệ thống xử lý nước sạch cho các vùng trên. Do vậy ngoài việc sử dụng nước ngầm, bà con
tại đây còn phải mua nước để sử dụng.
2.1.1 Nguồn nước ngọt trên lưu vực sông cạn dần
2.1.2 Hậu quả của vấn đền thiếu nước ngọt
2.1.2.1 Thiếu nước cho lúa

Hạn hán gây thiếu nước ngọt → ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp, giảm năng
suất trồng trọt
Để có nước phục vụ cho việc canh tác nông nghiệp, người dân phải tốn nhiều chi phí
từ 5 - 10 triệu đồng/ha cho việc bơm nước vào ruộng
người trồng lúa mất mùa vì thiếu nước ngọt
Ở Bạc Liêu, diện tích trồng lúa tăng quá nhanh nên không đủ nguồn nước ngọt cung
cấp vì hệ thống kênh dẫn nước bị bồi lắng nhiều năm
Nhiều người trồng lúa mất mùa vì thiếu nước ngọt
VD: Ở Long An, hai huyện Cần Đước và Cần Giuộc tiếp giáp ra biển thiếu nước ngọt
sản xuất lúa Hè Thu rất khó khăn, năng suất bấp bênh, bà con tích cực đào ao trữ nước mưa
trồng màu vụ Hè Thu
2.1.2.2 Thiếu nước cho hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày
2.1.2.3 Nguy cơ cháy rừng ca
8
Vườn Quốc gia U Minh Hạ hiện đang phải đối mặt với nguy cơ cháy rừng ở mức cao.
Phần lớn diện tích rừng đã bị khô hạn, các thảm thực vật sát mặt đất đã không còn đủ độ ẩm
để duy trì sự sống
Toàn bộ diện tích rừng tràm ở Cà Mau đã khô hạn, trong đó gần 34.000 ha rừng tràm
đang đối mặt với nguy cơ cháy cao, các con kênh trữ nước ngọt dần cạn kiệt, dẫn đến tình
trạng thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nước phục vụ chữa cháy rừng tra
Tại An Giang, toàn bộ hơn 10.000ha rừng thuộc địa bàn 2 huyện Tịnh Biên và Tri
Tôn đang được đặt trong tình trạng bảo vệ, phòng chống cháy nghiêm ngặt
2.1.2.4 Thiếu nước nuôi trồng thủy sản
Ảnh hưởng trực tiếp từ việc giảm mưa trong mùa khô, đồng thời cùng với sự tăng
nhiệt độ không khí làm tăng lượng nước bốc hơi tại các khu vực nuôi trồng thủy sản dẫn đến
làm tăng độ mặn trong nước
2.1.2.5 Thiếu nước sinh hoạt
Người dân không có nước sử dụng. Những hộ nghèo phải lấy nước mặn trực tiếp từ
các kênh mương, sông để nấu ăn
Để có nước ngọt, người dân sử dụng nhiều biện pháp, trữ nước, xin phép khoan nước

ngầm để dùng hoặc ngay cả khoan giếng trai phép
Dịch bệnh bùng phát
2.2. Nguyên nhân gây thiếu nước ngọt trầm trọng ở ĐBSCL
2.2.1. Nguyên nhân tự nhiên
Tình trạng suy kiệt nguồn nước trong hệ thống sông ngòi ở Đồng bằng sông
Cửu Long đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng từ những nguyên nhân khách quan do diễn
biến theo quy luật tự nhiên của tài nguyên nước, do điều kiện khí hậu, thủy văn.
Biến đổi khí hậu là nguyên nhân trực tiếp quan trọng gây suy giảm, cạn kiệt
nguồn nước.
Thực tế cho thấy, nước chịu tác động sớm nhất của biến đổi khí hậu, nguồn
nước mùa khô có xu hướng suy giảm, cạn kiệt nguồn nước kéo dài hơn, tồi tệ hơn, nhiều
khu vực nước ngọt cũng sẽ bị xâm nhập mặn, ô nhiễm gia tăng do dòng chảy không còn khả
năng tự làm sạch, khả năng chống chọi với thiên tai, trong đó có hạn hán sẽ tạo ra thách thức
lớn đối với bảo đảm an ninh về nước và phát triển xanh, bền vững của vùng.
2.2.2 . Các nguyên nhân kinh tế - xã hội
2.2.2 .1. Từ sự khai thác quá mức ở thượng nguồn sông Mekong
Việc khai thác, sử dụng nước tại các quốc gia ở thượng nguồn sông Mê Kông
đã có tác động lớn đến Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, ở thượng nguồn phần lưu vực
thuộc Trung Quốc, việc xây dựng nhiều hồ chứa thủy điện đã gây những biến động phi tự
nhiên, làm suy giảm, cạn kiệt nguồn nước, ảnh hưởng bất lợi tới nguồn nước chảy về Việt
Nam, gây những quan ngại lớn cho các nước ở hạ du nói chung và Đồng bằng sông Cửu
Long nói riêng.
Việc khai thác quá mức nguồn nước, đặc biệt là việc xây dựng các công trình
hồ chứa thủy lợi, nhất là thủy điện kiểu đường dẫn, kiểu các công trình đập chặn hoàn toàn
dòng chảy sông với việc quy hoạch, xây dựng và quản lý vận hành bất hợp lý cũng là
nguyên nhân làm suy giảm rõ rệt số lượng và chất lượng nước.
9
Ở nhiều hồ chứa, việc tích nước, xả nước vào những thời kỳ nhất định thường chưa tuân thủ
đúng quy trình vận hành, thậm chí ở một số hồ trong những thời kỳ dài vi phạm nghiêm
trọng việc vận hành bảo đảm nguồn nước tối thiểu cho hạ lưu. Nguyên nhân chính là do

chưa có quy trình vận hành liên hồ chứa phân bổ nguồn nước cho các nhu cầu trong mùa
khô.
2.2.2.2 . Nhu cầu sử dụng nước ngọt ngày càng lớn
Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, sự gia tăng dân số,
quá trình đô thị hóa đòi hỏi nhu cầu nước cho sản xuất và dân sinh ngày càng tăng cả về số
lượng và chất lượng, nhưng phát triển cũng ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng, trữ lượng
nguồn nước. Nhu cầu về nước ngày càng tăng dẫn đến việc khai thác sử dụng tài nguyên
nước ngày càng nhiều. Nhu cầu dùng nước do tăng dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa…
Điều đó cho thấy, nguy cơ thiếu nước là rõ ràng và ở mức nghiêm trọng.
Do tập quán, thói quen sản xuất, canh tác nông nghiệp sử dụng nhiều nước, lại
thiếu các biện pháp hợp lý giữ, trữ nước trong mùa mưa lũ để dùng dần trong mùa khô nên
thường xuyên phải đối phó với tình trạng thiếu nước vào mùa khô ở nhiều nơi. Việc sử dụng
nước thiếu quy hoạch, chưa hiệu quả, chưa hợp lý, chưa tiết kiệm trong khi nhu cầu dùng
nước ngày một tăng nhanh do phát triển kinh tế - xã hội, chất thải gây ô nhiễm các nguồn
nước càng làm giảm rõ rệt khả năng đáp ứng nhu cầu nước sạch vào mùa khô.
Bên cạnh đó, tăng trưởng dân số nhanh dẫn đến gia tăng nhu cầu về nước, lại
không chú ý đúng mức đến bảo vệ môi trường, xử lý nước thải, chất thải các loại tạo nên các
nguồn ô nhiễm lớn, thường xuyên làm ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng nguồn nước, làm
cạn kiệt nguồn nước sạch.
2.2.2.3 . Chất thải gây ô nhiễm trầm trọng môi trường nước
Thủ phạm gây ô nhiễm chính là nguồn nước thải khổng lồ chưa được xử lý
hoặc xử lý không đạt yêu cầu không ngừng đổ vào các sông, hồ từ các đô thị, cơ sở công
nghiệp, khu công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt, làng nghề, bệnh viện, từ khai thác khoáng
sản, khiến nhiều con sông đang dần trở thành con sông "chết".
Các dòng sông ở nông thôn cũng đang ô nhiễm ngày càng trầm trọng hơn,
nguyên nhân chính là mọi chất thải đều được người dân thải trực tiếp ra sông, đặc biệt là túi
ni lông - một chất thải khó phân hủy trong môi trường tự nhiên.
Ngoài ra, còn có chất thải từ các khu chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản, chất
thải khu giết mổ, chế biến thực phẩm; và hoạt động lưu thông với khí thải và các chất thải
hóa chất cặn sau sử dụng.

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ HƯỚNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN NƯƠC NGỌT
Ở ĐBSCL
3.1 Các giải pháp cấp bách
3.1.1 Giảm thiểu tác động từ thượng nguồn sông Mê Công
Trên cơ sở nhận định tình hình khu vực và bối cảnh hiện tại, bà Trần Thị Thanh
Thủy, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (Tổ chức phi chính phủ hoạt động nhằm bảo vệ
môi trường) cho rằng các giải pháp ứng phó của Việt Nam có thể thực hiện gồm việc duy trì
và tăng cường hợp tác Mekong thông qua Ủy hội sông Mekong quốc tế. Cho đến thời điểm
hiện tại, khuôn khổ hợp tác tốt nhất để trao đổi, đàm phán và tìm kiếm sự đồng thuận trong
10
vấn đề phát triển lưu vực là thông qua Hiệp định về hợp tác phát triển bền vững lưu vực
sông Mekong.
Đồng thời, Trung tâm đầu tư vào việc nâng cao năng lực tổ chức cho Ủy ban sông
Mekong Việt Nam, với đầy đủ nguồn lực để thực hiện các chương trình, dự án nghiên cứu
giám sát tác động, tìm kiếm giải pháp nhằm tham vấn kịp thời cho Chính phủ trong hoạch
định chính sách và hợp tác với các quốc gia trong lưu vực.
Việt Nam cần tạo sự đồng thuận trong việc định hướng mô hình phát triển của lưu
vực Mekong trong cộng đồng ASEAN. Theo đó cần hướng đến mô hình phát triển giảm
thiểu phát thải, giảm thiểu tiêu thụ năng lượng, sử dụng khôn khéo tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra, cần khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ
trong nghiên cứu, phổ biến thông tin, thúc đẩy hợp tác, đối thoại ở cấp quốc gia và khu vực,
nhằm tạo sự ủng hộ, đồng thuận của xã hội trong bảo vệ lợi ích chung của người dân trong
lưu vực nói chung và Việt Nam nói riêng.
Đặc biệt là cần tăng cường hợp tác với cộng đồng các nhà tài trợ và đối tác phát triển
như Lào, Campuchia nhằm hỗ trợ nước bạn tìm kiếm các giải pháp phát triển tối ưu, bền
vững, phù hợp với tinh thần hợp tác giữa các quốc gia trong lưu vực. Với kinh nghiệm về
tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, Việt Nam có thể giúp các nước bạn sử dụng
nguồn lực quốc tế một cách hiệu quả, áp dụng các mô hình tốt và tránh những hậu quả tiêu
cực có thể vấp phải trong quá trình phát triển.
Việc sử dụng một cách hiệu quả các chương trình, dự án đầu tư và hỗ trợ phát triển

cũng là một giải pháp quan trọng. Với vị trí nhà đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam nên tìm
hiểu và áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong quá trình triển khai các hoạt động dự án của
mình ở các nước bạn, nhằm giảm thiểu các hệ quả môi trường-xã hội. Chính phủ cũng nên
có các công cụ quản lý hữu hiệu, đảm bảo giám sát các dòng đầu tư, có cơ chế khuyến khích
các doanh nghiệp áp dụng các chuẩn mực tốt trong đầu tư nước ngoài.
“Tùy vào từng kịch bản mà Việt Nam có cách ứng phó thích hợp. Song điều quan
trọng nhất là cần có sự đồng nhất trong hợp tác phát triển giữa các quốc gia để đảm bảo lưu
vực hạ Mekong không bị đe dọa,” bà Thủy nhấn mạnh.
3.1.2 Gấp rút triển khai các biện pháp chống xâm nhập mặn
Các địa phương tại ĐBSCL đang ráo riết triển khai nhiều biện pháp chống hạn, xâm
nhập mặn đang bắt đầu vào cao điểm.
Theo Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Bến Tre, độ mặn 4 ‰ đã xâm nhập
cách các cửa sông Hàm Luông, Cổ Chiên, Cửa Đại khoảng 20-25km. Cụ thể, trên sông Cửa
Đại, tại Bình Đại độ mặn đã lên đến từ 21-24‰; Giao Hòa 1-3 ‰; Long Hòa từ 0,5 ‰-2‰.
Đặc biệt, nước mặn theo kênh Giao Hòa – An Hóa xâm nhập vào sông Ba Lai (vùng
ngọt hóa Bắc Bến Tre). Trên sông Hàm Luông tại An Thuận, độ mặn từ 20-23‰; Mỹ Hóa từ
0,1- 1,5‰. Trên sông Cổ Chiên tại Bến Trại độ mặn đo được từ 20-23‰; Hương Mỹ 4-6‰,
Thành Thới B 0,6-2‰… Các địa phương trong tỉnh Bến Tre đang khẩn trương thực hiện các
công trình chống hạn, mặn, dẫn nước từ vùng ngọt hóa phục vụ cho sản xuất và đời sống của
người dân các địa phương ven biển. Riêng UBND huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre đề nghị
tỉnh hỗ trợ kinh phí khẩn cấp xây dựng 22 công trình ngăn mặn; bảo vệ hàng ngàn héc-ta đất
sản xuất cây ăn trái đặc sản, hoa kiểng, cây giống tại các xã Phú Sơn, Vĩnh Thành, Long
Thới… Ước tính, khi các công trình này hoàn thành, đưa vào sử dụng sẽ giảm thiệt hại cho
11
người dân gần 50 tỉ đồng trong mùa khô năm 2012. Huyện Mỏ Cày Bắc đề nghị hỗ trợ 7
công trình chống mặn, bảo vệ vùng sản xuất 1.700ha tại các xã Phước Mỹ Trung, Tân Phú
Tây…
Nhờ chủ động hoàn chỉnh hệ thống cống đập ngăn mặn, xuống giống sớm vụ lúa
đông xuân, đến nay 60.000 ha lúa tại các huyện An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh
Thượng (vùng bán đảo Cà Mau) của tỉnh Kiên Giang đã thu hoạch dứt điểm, an toàn. Hiện

tại, tỉnh Kiên Giang cho đóng hệ thống hơn 20 cống đập ngăn mặn để bảo vệ lúa đông xuân
tại vùng Tứ Giác Long Xuyên. Tỉnh An Giang đầu tư hơn 12 tỉ đồng, gấp rút thực hiện các
công trình chống hạn, mặn, bảo vệ vùng sản xuất lúa ở các huyện Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh
Biên…
3.1.3 Hạn chế ô nhiễm nguồn nước
3.1.3.1Biện pháp giảm thiểu ô nhiễm do rác thải.
Tuy đã có những quy định rất cụ thể về việc thải rác đối với các phương tiện thủy khi
hoạt động trên tuyến nhưng việc thực hiện các quy định này mới chỉ áp dụng triệt để đối với
các tàu lớn và tàu nước ngoài tới khu vực. Trong thời gian tới, kiến nghị một số giải pháp
sau:
Nghiên cứu lựa chọn địa điểm để xây dựng một trung tâm chứa và xử lý rác
thải riêng cho các hoạt động giao thông vận tải thủy.
Bắt buộc các tàu nhỏ có số nhân viên từ 3 người trở lên phải áp dụng những
biện pháp quản lý rác thải bao gồm việc thu gom và phân loại như quy định của phụ
lục V của Marpol.
Cấm đốt rác trên tàu khi tàu đang chạy, neo đậu hay nằm cầu trên toàn tuyến
để hạn chế ô nhiễm không khí do khí thải và bay bụi từ việc đốt.
Áp dụng biện pháp tính phí “không phân biệt” – Bất cứ tàu nào ghé cảng đều
phải trả phí thu gom rác dù có tạo ra rác hay không và đưa ra quy trình thông báo sử
dụng thiết bị tiếp nhận rác của cảng. Muốn vậy thì cần phải thay đổi cách tính cảng
phí để tích hợp loại phí thu gom rác vào và phải đầu tư các thiết bị tiếp nhận các loại
rác khác nhau để thực thi công việc một cách linh hoạt và hiệu quả.
3.1.3.2Biện pháp giảm thiểu ô nhiễm do nước thải và nước dằn tàu.
Chúng ta cũng đã có những quy định chi tiết về việc thải nước thải theo công ước
Marpol đối với tàu chạy tuyến quốc tế hoặc theo quy định của quốc gia và thành phố Hồ Chí
Minh với tất cả các tàu trong đó cấm thải nước thải xuống sông và vùng nước của cảng mà
phải giữ lại trên tàu hoặc đưa vào thiết bị tiếp nhận. Tuy nhiên, việc xử lý nước thải thu gom
từ các tàu hiện chưa được thực hiện triệt để. Cần phải xây dựng một trung tâm chứa và xử lý
nước thải từ tàu cho toàn tuyến, vị trí của trung tâm này phải được chọn lựa đảm bảo tính
kinh tế trong việc thu gom và vận chuyển nước thải từ các tàu tới trung tâm và phải chọn

được các phương pháp xử lý thích hợp, phù hợp với năng lực đầu tư của chính quyền và đáp
ứng được các tiêu chuẩn về môi trường.
Nước dằn tàu có thể có những tác hại tới môi trường. Để phòng ngừa tác động của
nước dằn tàu, cần quy định bắt buộc các tàu phải thải nước dằn vào thiết bị tiếp nhận trên bờ
12
trừ khi chúng được kiểm tra và cho thấy không lẫn dầu và có các chỉ số sinh học đáp ứng
được tiêu chuẩn của công ước quốc tế về quản lý nước dằn và cặn bùn tàu. Các tàu phải có
quy trình thải nước dằn và phải báo cho chính quyền cảng biết trước khi tiến hành thải nước
dằn.
3.1.3.3Biện pháp giảm thiểu ô nhiễm do hàng độc hại.
Hàng hóa độc hại chở trên tàu bao gồm hai nhóm chính là chất độc lỏng chở xô và
chất có hại đóng trong bao gói. Các biện pháp kiến nghị bao gồm:
Tàu chở loại hàng này phải có giấy chứng nhận phù hợp đặc biệt, phải báo trước cho
chính quyền cảng về thời gian tàu tới cảng và phải có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm
dân sự đối với sự cố gây ô nhiễm với mức tương đương với công ước LLMC.
Cấm thải cặn hàng và nước có lẫn hàng lỏng độc hại xuống sông trên tuyến và vùng
nước của cảng. Khi cần thải cặn hàng hoặc nước lẫn hàng bắt buộc phải sử dụng các thiết bị
tiếp nhận từ trên bờ. Đơn vị làm dịch vụ thu gom chất thải của loại hàng này phải có đủ năng
lực và có giấy phép của cơ quan chức năn.
Hàng độc hại chở trong bao gói phải có đầy đủ ký mã hiệu thể hiện đầy đủ đặc tính
của hàng. Các thông tin về hàng gồm danh mục, số lượng và vị trí xếp trên tàu phải được gửi
cho chính quyền cảng trước khi tàu tới khu vực đón trả hoa tiêu tại Vũng Tàu.
Cấm vứt bỏ, đốt rác, vật liệu bao gói, chèn lót có lẫn hàng độc hại khi tàu di chuyển,
neo đậu hay nằm cầu trên toàn tuyến. Cặn hàng và các vật liệu chèn lót, bao gói có lẫn hàng
phải được thu gom và báo cho chính quyền cảng biết để được đưa đi xử lý theo đúng quy
trình và quy định của pháp luật về môi trường.
3.1.3.4Biện pháp giảm thiểu ô nhiễm do dầu.
Do lượng dầu thông qua các cảng trên tuyến TP.Hồ Chí Minh- Vũng Tàu là rất lớn,
cộng với số lượng tàu lưu thông trên tuyến cũng cao nhất nước nên nguy cơ gây ô nhiễm dầu
là lớn nhất và cần phải đặc biệt ưu tiên phòng chống.

Cần thẩm định và triển khai ngay kế hoạch khẩn cấp ứng phó sự cố dầu tràn như đề
xuất của Chi cục bảo vệ môi trường thành phố Hồ Chí Minh.
Tăng cường hệ thống báo hiệu an toàn hàng hải trên toàn tuyến, đưa vào sử dụng hệ
thống VTS đã lắp đặt để tăng độ an toàn lưu thông tàu thuyền trên tuyến. Kiểm tra giám sát
chặt chẽ của các phương tiện thủy, đặc biệt là các phương tiện thủy nội địa về việc lưu
thông, neo đậu, an toàn trang thiết bị và con người điều khiển phương tiện.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho một đơn vị hạt nhân trên tuyến để có đủ năng
lực xử lý sự cố tràn dầu ở cấp độ cấp II.
Các tàu chở dầu khi vào các cảng trên tuyến bắt buộc phải có đủ các giấy chứng nhận
an toàn theo quy định và phải có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với ô
nhiễm dầu với mức tương đương với công ước LLMC.
3.1.3.5 Biện pháp sử dụng phao quây và lực lượng trực ứng cứu phòng ngừa dầu tràn ra từ
các tàu có thể thực hiện theo hai giai đoạn:
13
Giai đoạn một: áp dụng cho tất cả các tàu dầu khi bơm nhận, trả hàng cũng như cho
tất cả các tàu khi nhận nhiên liệu tại cầu hay ở nơi neo, đậu phao.
Giai đoạn hai: áp dụng cho tất cả các tàu khi nằm cầu hay neo đậu trên tuyến
Các tàu phải duy trì các kế hoạch ứng cứu sự cố đến khi công tác bơm nhận,
trả dầu kết thúc.
Khi có sự cố tràn dầu cần áp dụng các quy trình như đề xuất của Chi cục bảo
vệ môi trường thành phố.
3.1.3.6 Giải pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí.
Nguồn gây ô nhiễm không khí từ các phương tiện thủy chủ yếu là khí thải của động
cơ, sự bay hơi của dầu chứa trên tàu và việc thải các chất gây suy giảm tầng ôzôn khi sửa
chữa tàu. Căn cứ vào kinh nghiệm của các nước và điều kiện thực tế tại khu vực, đề án kiến
nghị các biện pháp cụ thể sau:
Do Việt nam chưa tham gia phụ lục VI của Marpol nên chưa thể công bố tuyến TP.
Hồ Chí Minh – Vũng tàu là vùng “Kiểm soát khí thải đặc biệt”, tuy nhiên trong thời gian
trước mắt có thể áp dụng các biện pháp tương tự như:
Qui định các tàu vào, ra khu vực phải đảm bảo chất lượng khí thải đáp ứng

quy định tương tự phụ lục VI của Marpol khi thải ra môi trường. Để đáp ứng yêu cầu này,
chủ tàu sẽ phải thay thế loại dầu đốt có nồng độ sunphua thấp hơn hoặc phải lắp đặt thiết bị
lọc khí thải cho tàu.
Giới hạn tốc độ của các tàu chạy trên tuyến để hạn chế lượng khí thải.
Cấm đốt rác trên tàu khi hoạt động trên tuyến.
Khuyến khích các chủ tàu sử dụng nhiên liệu có nồng độ sunphua thấp thông
qua cảng phí khuyến khích theo kinh nghiệm của Phần Lan: Những tàu thải NOx dưới
10g/kW.hr sẽ được nhận mức phí giảm, mức giảm này bắt đầu từ 1% ở nồng độ 9g
NOx/kW.hr và tăng tuyến tính lên tới 8% ở nồng độ 1g NOx/kW.hr. Những tàu sử dụng
nhiên liệu có dứơi 0,5% sun phua sẽ nhận được mức giảm phí 4% và những tàu thải ít NOx
hơn hay dùng nhiên liệu có nồng độ sunphua thấp hơn nữa cũng sẽ nhận được mức giảm
cộng thêm. Mức giảm tối đa cho cảng phí là 20%.
Đối với các cảng mới, khuyến khích đầu tư hệ thống cung cấp điện bờ cho tàu
khi nằm bờ.
Đối với các cảng nhận, trả dầu, hóa chất lỏng chở xô: khuyến khích sử dụng
hệ thống nối kín tàu-kho để hạn chế lượng hơi hàng thoát ra ngoài môi trường khi làm hàng.
3.1.3.7Xử lý nước rỉ rác thải bằng cỏ
Phương pháp xử lý nước rỉ rác ngay tại bãi chôn lấp bằng các loại cây thực vật như dầu mè,
cỏ vetiver, cỏ voi và cỏ signal, không những giải quyết được bài toán ô nhiễm môi trường,
mà còn tiết kiệm chi phí vừa được TS Ngô Hoàng Văn (Hội Nước và Môi trường nước
thuộc Liên hiệp các Hội khoa học - kỹ thuật TP Hồ Chí Minh) nghiên cứu thành công.
14
Giải quyết nạn ô nhiễm môi trường
Hiện nay, tại nhiều bãi chôn lấp rác ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí
Minh, lượng nước rỉ rác do không kịp xử lý là rất lớn, gây ô nhiễm môi trường. Việc chuyên
chở nước rỉ rác còn gây ô nhiễm cho các nơi xe đi qua, chi phí chuyên chở tốn kém, chưa kể
có khi các xe này còn xả "trộm" gây ô nhiễm môi trường sống của người dân.
Từ thực tế đó, TS Ngô Hoàng Văn đã thực hiện đề tài: "Nghiên cứu xử lý nước rỉ rác
bằng công nghệ cánh đồng tưới và cánh đồng lọc". Theo TS Ngô Hoàng Văn, TP Hồ Chí
Minh nên tận dụng diện tích đất tại bãi chôn lấp để trồng cây có giá trị kinh tế cao như cỏ

vetiver, cỏ voi, cỏ signal hoặc cây dầu mè. Cách làm này vừa giúp tận dụng được đất của các
bãi chôn lấp rác để làm kinh tế, vừa kết hợp tận dụng xử lý nước rỉ rác để làm nguồn nước
tưới dinh dưỡng cho cây nên giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường.
TS Ngô Hoàng Văn cho biết, nước rỉ rác là chất lỏng thấm qua các lớp chất thải rắn
mang theo các chất hòa tan hoặc các chất lơ lửng. Thành phần nước rỉ rác có chứa nồng độ
pH, COD, BOD, a-xít, kim loại nặng rất cao. Còn cỏ vetiver có bộ rễ chứa nhiều vi khuẩn
và nấm, có khả năng xử lý chất thải gây ô nhiễm cho môi trường. Cụ thể, vi khuẩn cố định
đạm có tác dụng chuyển hóa ni-tơ tự do thành ni-tơ sinh học; vi khuẩn điều hòa sự sinh
trưởng của cây có thể điều hòa được các chất như auxin, gibbrrellins, ethylene, a-xít là
những chất hữu cơ ảnh hưởng đến quá trình sinh lý của cây dù ở nồng độ thấp; nấm phân
giải phốt-pho; nấm rễ Nhờ vậy mà cây có thể mọc nhanh trên những vùng đất nghèo dinh
dưỡng hoặc đất bị nhiễm độc kim loại nặng trong những điều kiện khắc nghiệt như hạn hán,
sương muối, nước mặn, nước có hóa chất, độc chất. Tương tự, cây dầu mè cũng có thể sinh
trưởng và phát triển trong môi trường ô nhiễm. Loại cây này đã được trồng thử nghiệm cải
tạo môi trường bị nhiễm độc đi-ô-xin tại Huế và Cần Thơ.
Chi phí rẻ, lợi ích kinh tế cao
Ðể thực hiện nghiên cứu của mình, TS Ngô Hoàng Văn cùng nhóm cộng tác đã trồng
thực nghiệm cỏ vetiver, cỏ voi và cây dầu mè tại bãi chôn lấp rác Ðông Thạnh (TP Hồ Chí
Minh) và sử dụng nước rỉ rác của bãi chôn lấp rác này để tưới. Kết quả cho thấy các loại cây
và cỏ này phát triển bình thường. Nguồn nước rỉ rác đậm đặc có nồng độ các chất ô nhiễm
cao sau khi được pha loãng với tỷ lệ 10% để tưới vào cây đã được cây hấp thụ và xử lý bằng
phương pháp phát triển tự nhiên cho ra chất lượng nước thải đạt tiêu chuẩn loại A.
TS Ngô Hoàng Văn cho biết, kết quả thu được qua bộ rễ, phản ứng đồng hóa của thực
vật có thể xử lý các chất ô nhiễm có trong nước. Ngoài ra, qua bộ lá, thực vật còn có thể xử
lý được khí thải, mùi hôi và khí CO2 có trong nước thải. Các nhà khoa học đã dùng nước rỉ
rác pha loãng ở nồng độ 10% để tưới cho khu trồng cỏ vetiver rộng gần 100m2, khu trồng
dầu mè rộng khoảng 150m2, kết quả cho thấy NH3, phốt-pho và mùi hôi đều được xử lý rất
tốt và đơn giản.
Ðặc biệt chi phí xử lý chỉ khoảng 8.000 đồng/m3 nước rỉ rác, rẻ hơn gấp mười lần chi
phí xử lý hiện tại. Ðáng chú ý là ngoài tác dụng xử lý rác, những loại cây này có giá trị kinh

tế cao như: cây dầu mè dùng để sản xuất dầu đi-ê-den sinh học hoặc thuốc trị bệnh; cỏ
vetiver có thể tận thu để sản xuất giấy; cỏ signal làm thức ăn cho cá và gia súc
Từ những kết quả ứng dụng thu được, đề tài vừa được Sở Khoa học và Công nghệ TP
Hồ Chí Minh nghiệm thu và đánh giá cao
3.2 Hướng khai thác tài nguyên nước ở ĐBSCL
15
Công tác quản lý tài nguyên hướng tới làm rõ tiềm năng, trữ lượng, giá trị các nguồn
tài nguyên nước của vùng, từ đó bảo đảm khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, hiệu quả và
bền vững đi đôi với bảo vệ, phục hồi và tái tạo các nguồn tài nguyên để thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn công tác quản lý, sử dụng tài nguyên ở ĐBSCL
hiện nay đã và đang đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi phải có cách tiếp cận hệ thống từ nâng
cao nhận thức, đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật đến tổ chức thực hiện để khắc phục
những bất cập, yếu kém của công tác này, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Để đảm bảo nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh, hiện nay tất
cả các địa phương ở ĐBSCL cần triển khai công tác phòng chống hạn, xâm nhập mặn. Theo
số liệu điều tra, tính đến thời điểm này thiệt hại do hạn và xâm nhập mặn chưa ảnh hưởng
lớn. Tuy nhiên, diễn biến thời tiết những tháng tới nếu không có mưa diện rộng cần phải
đảm bảo đủ nguồn nước tưới cho lúa, hoa màu, cây ăn trái và nước sinh hoạt.
Nếu từ nay đến cuối tháng 5 vẫn chưa vào mưa chính vụ, cần có kế hoạch chủ động sản
xuất, bố trí mùa vụ hợp lý. Các địa phương cần chủ động chuẩn bị chống hạn. Cần tiếp tục
có kế hoạch chống hạn cho diện tích đang canh tác. Bố trí vụ Hè Thu cần thận trọng, tham
khảo các dự báo tiếp theo.
Lâu dài cần có chiến lược chủ động chống hạn, cấp nước ngọt cho các vùng xa nguồn
ngọt ven biển, trong đó đặc biệt chú ý nâng cấp các kênh chuyển nước ngọt và làm các trạm
bơm
lấy nước ngọt ven các cửa sông (tận dụng dòng nước ngọt xuất hiện khi triều xuống).
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Vấn đề thiếu nguồn nước ngót do xâm nhập mặn, ô nhiễm và biến đổi khí hậu
ở ĐBSCL và những hệ lụy của nó là hiện hữu và có thể trở thành thảm họa trong tương lai
gần. Do đó, song song với việc nghiên cứu dòng chảy lũ, kiểm soát lũ cho hệ thống sông

ở ĐBSCL, vấn đề nghiên cứu dòng chảy kiệt và các giải pháp khoa học công nghệ tương
ứng đã đến lúc cần phải được chú trọng, đầu tư một cách đúng mức. Vì vậy, ngay từ bây giờ
Nhà nước cần có một chương trình lớn nghiên cứu về vấn đề này làm cơ sở khoa học, tìm ra
phương án công trình hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo của quá trình đầu
tư xây dựng công trình.
Đây là những vấn đề mang tính chiến lược, liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước do đó cần phải được nghiên cứu xem xét một cách khoa
học và có bài bản, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến giải pháp công trình bởi vì nó
không chỉ đảm bảo những nhiệm vụ như cấp nước nông nghiệp, dân sinh, công nghiệp mà
còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thoát lũ, giao thông thủy, đảm bảo cân bằng môi
trường sinh thái cho cả khu vực.
Để đảm bảo nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh, hiện nay tất
cả các địa phương ở ĐBSCL cần triển khai công tác phòng chống hạn, xâm nhập mặn. Theo
số liệu điều tra, tính đến thời điểm này thiệt hại do hạn và xâm nhập mặn chưa ảnh hưởng
lớn. Tuy nhiên, diễn biến thời tiết những tháng tới nếu không có mưa diện rộng cần phải
đảm bảo đủ nguồn nước tưới cho lúa, hoa màu, cây ăn trái và nước sinh hoạt.
Nếu từ nay đến cuối tháng 5 vẫn chưa vào mưa chính vụ, cần có kế hoạch chủ động
sản xuất, bố trí mùa vụ hợp lý. Các địa phương cần chủ động chuẩn bị chống hạn. Cần tiếp
16
tục có kế hoạch chống hạn cho diện tích đang canh tác. Bố trí vụ Hè Thu cần thận trọng,
tham khảo các dự báo tiếp theo.
Lâu dài cần có chiến lược chủ động chống hạn, cấp nước ngọt cho các vùng xa nguồn
ngọt ven biển, trong đó đặc biệt chú ý nâng cấp các kênh chuyển nước ngọt và làm các trạm
bơm lấy nước ngọt ven các cửa sông (tận dụng dòng nước ngọt xuất hiện khi triều xuống).
17

×