Ministry of Agriculture & Rural Development
Báo cáo tiến độ
023/06VIE
Xử lý và tái chế nước và chất thải rắn từ ao nuôi cá vùng
đồng bằng sông Cửu Long để cải thiện đời sống
và giảm ô nhiễm nước
MS2: Báo cáo 6 tháng lần thứ nhất
Ngày 8 tháng 11 năm 2007
1
1. Thơng tin về Viện
Tên dự án
023/06VIE
Viện phía Việt Nam
Viện lúa đồng bằng sơng Cửu Long
Trưởng dự án phía Việt Nam
Ts.Cao văn Phụng
Tổ chức của Úc
Murdoch University
Nhân sự người Úc
Dr. Richard Bell
Ngày bắt đầu
Tháng tư 2007
Ngày kết thúc (theo văn bản)
Tháng hai 2010
Ngày kết thúc (xin điều chỉnh)
Tháng ba 2010
Báo cáo về khoảng thời gian
Tháng tư đến tháng mười 2007
Nhân viên cần liên hệ
Tại Úc: Nhóm trưởng
Tên
Chức vụ
Cơ quan
Richard Bell
Professor
Murdoch University
Điện thoại
Fax
Email
+61 8 93602370
+61 8 93104997
Điện thoại
Fax
Email
+61 8 93607566
Tại Úc: Administrative contact
Tên
Chức vụ
Cơ quan
Richard McCulloch
General Manager
Murdoch Link
Tại Việt Nam
Họ và tên
Chức vụ
Cơ quan
Cao văn Phụng
Trưởng bộ môn Khoa học Đất
Viện lúa đồn bằng sông Cửu
Long
Điện thoại
Fax
Email
+84 71 861452
+84 71 861457
1
2. Tóm tắt dự án
-
Kết quả điều tra việc sử dụng chất thải từ ao cá tra để canh tác lúa tại huyện Châu
Phú và Phú Tân của tỉnh An Giang cho thấy năng suất lúa được tăng lên 1 tấn/ha
bởi vì bùn đáy ao có hàm lượng khá cao đạm, lân kali, calcium và magnesium
cũng như các vi lượng..
-
Thí nghiệm chính qui cũng được thực hiện tại Viện lúa ĐBSCL dùng bùn đáy ao ở
3 mức 1, 2 và 3 tấn/ha có kết hợp với phân vơ cơ ở liều lượng 1/3 và 2/3 mức phân
vô cơ được khuyến cáo cho vụ Hè-Thu (60N-40P2O5-30K2O). Trong vụ đầu tiên
cho thấy năng suất lúa ở các nghiệm thức phân bón khác nhau không khác biệt
nhau. Điều này cho thấy việc sử dụng bùn đáy có thể tiết kiệm được 1/3 hoặc 2/3
lượng phân vơ cơ. Kết quả cịn chứng tỏ cho thấy bùn đáy ao có thể được tái sử
dụng cho canh tác lúa để làm giảm ô nhiễm nguồn nước sông rạch.
-
Vi khuẩn khử nitrate (Pseudomonas stutzeri) sau 2 ngày làm giảm nồng độ
ammonia, nitrite và nitrate trong nước thải từ 9 mg/L xuống dưới 1 mg/L (dòng
N1aN7a) và 0 mg/L (dòng N2aD3b); trong khi nồng độ ammonia của nghiệm thức
đối chứng chỉ giảm từ 9 xuống 7 mg/L.
3. Tóm tắt cơng việc thực hiện
-
Phiếu điều tra về tình hình cơ bản của các hộ nuôi cá cũng như không nuôi cá đã được
thiết lập sau khi bàn bạc cùng với các cán bộ của Trường Đại Học Cần Thơ và các
cán bộ khuyến ngư của TP. Cần Thơ và tỉnh An Giang. Tổng số có 240 phiếu điều tra
đã được thu thập qua phỏng vấn của nông dân ở 4 huyện (2 huyện/ tỉnh hoặc TP). Kết
quả bước đầu cho thấy tất cả các hộ được phỏng vấn đều rất quan tâm đến sự ơ nhiễm
nguồn nước mặt vì nó ảnh hưởng đến việc ni cá và cho sinh hoạt. Có khoảng 20%
số hộ cho rằng chất lượng nước hiện xấu đi. Nhận xét về chất lượng nguồn nước bao
gồm màu nước có màu xanh đen (do tảo phát triển khi nước bị phú dưỡng), mùi hôi
thối (do ammonia hoặc H2S), độ đục cao (có nhiều vật chất lơ lững), và bị ngứa ngáy
khi tiếp xúc với người. Hơn thế nữa chíng người nơng dân ni cá nhận xét thấy tỉ lệ
cá hao hụt do bệnh tăng cao khoảng 15% hiện nay so với trước đây chỉ vào khoảng
5%. Có khoảng 5% số hộ ni cá có ao lắng. và chỉ có 12% số hộ ni cá thực hành
việc tái sử dụngchất thải từ ao nuôi cho canh tác lúa trong khi các hộ ni cá cịn lại
đều thải trực tiếp ra sông, rạch. Nông dân nuôi cá trẻ hơn, giàu có hơn và học vấn cao
hơn nơng dân canh tác lúa. Tuy nhiên có khoảng 15% hộ ni cá là người từ nơi khác
di chuyển đến để mướn đất hoặc mua đất để làm ao nuôi cá. Nhu cầu tìm ra giải pháp
hữu hiệu và kinh tế nhất để kiểm sốt ơ nhiễm đang là vấn đề ưu tiên hàng đầu đối
với người dân nông thôn.
-
Kết quả điều tra về phương cách của nông dân để xử lý chất thải từ ao nuôi đẫ kết
thúc vào mùa khô năm 2007 tại 2 địa điểm là TP cần Thơ và tỉnh An Giang. Hầu hết
các chất thải (rắn và lỏng) được bơm trực tiếp xuống nguồn nước (sông hoặc kênh
rạch). Trong trường hợp các hộ nuôi cá ở gần sơng lớn như sơng Tiền hoặc sơng Hậu
thì ơ nhiễm khơng thành vấn đề vì chất thải hầu như bị pha loảng do khối lượng nước
rất lớn so với các hộ nuôi cá ở các kênh rạch nhỏ nơi cuối nguồn nước cấp. Trong một
vài trường hợp thì chất thải được xả ra ruộng lúa của các hộ xung quanh. Vấn đề về
quản lý được đặt ra chủ yếu do lượng đạm rất cao trong chất thải làm cho lúa bị đổ
2
ngã, nhiều sâu bệnh và kết quả là năng suất lúa bị giảm sút. Tuy nhiên trong một vài
trường hợp nếu biết cách sử dụng chất thải kết hợp với cân bằng lượng phân vơ cơ
bón cho lúa thì có thể làm cho năng suất lúa gia tăng.
-
Trong mùa khô năm 2007, chúng tôi đã tiến hành điều tra về “ Ảnh hưởng của chất
thải từ ao nuôi cá trên năng suất lúa ở tỉnh An Giang”. Chúng tôi chọn 32 ruộng lúa
để thu mẫu năng suất trong đó có 16 ruộng có nhận chất thải từ ao ni cá tra và 16
ruộng cùng tại khu vực nhưng hoàn toàn khơng có nhận chất thải từ ao ni cá tra.
Kết quả cho thấy ruộng có nhận chất thải từ ao nuôi cá cho năng suất cao hơn từ 0,81,0 tấn/ha. Điều này có lẻ do hàm lượng dinh dưỡng trong chất thải từ ao nuôi các tra
khá cao đặc biệt là đạm, lân và kali hửu dụng cũng như là các chất trung lượng và vi
lượng.
-
Một thí nghiệm chính qui trên đồng ruộng nhằm chứng tỏ lợi ích của việc sử dụng
bùn đáy ao trong cânh tác lúa được thực hiện tại khu thí nghiệm của Viện lúa vào
mùa mưa năm 2007. Tổng cộng có 3 liều lượng bùn đáy ao được sử dụng là 1,2 và 3
tấn/ha được kết hợp với phân vô cơ ở các mức 1/3 và 2/3 của công thức khuyến cáo
về phân vô cơ (60N-40P2O5-30K2O); trong đó nghiệm thức 100% phân vơ cơ dùng
làm đối chứng dương. Kết quả thí nghiệm cho thấy năng suất ở các nghiệm thức
không khác biệt nhau về mặt thống kê. Điều này chứng tỏ rằng việc sử dụng bùn đáy
ao có thể giúp cho nơng dân tiết kiệm được chi phí trong sản xuất lúa bằng cách giảm
lượng phân vơ cơ bón cho lúa.
-
Kết quả phân tích mẫu nước của một số ao nuôi cá tra cho thấy lượng đạm hoà tan và
chất rắn lơ lững khá cao trong khi đó vi khuẩn coliform vẫn cịn ở mức cho phép theo
thơng tư số 02/2006 của Bộ Thuỷ sản.
-
Thí nghiệm để xử lý nước thải từ ao nuôi cá tra bằng vi khuẩn khử nitrate bao gồm 8
chủng và 1 dòng vi khuẩn Pseudomonas stuzeri được phân lập từ ao cá ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Kết quả cho thấy hàm lượng ammonium trong nước có xử lý
bằng vi khuẩn giảm rất nhanh từ 10mg/L ở ngày đầu thí nghiệm xuống 0mg/L ở ngày
thứ 4. Trong khi đó nghiệm thức xử lý bằng hố chất BKC và lơ đối chứng âm thì
hàm lượng ammonia vẫn cịn ở mức 2mg/L ở ngày thứ 4. Nồng độ nitrite ở lô đối
chứng tăng lên đến 3mg/L ở ngày thứ 2 trong khi các nghiệm thức khác duy trì nồng
độ nitrite ở mức dưới 0,5mg/L. Riêng nitrate chỉ hiện diện ở nghiệm thức đối chứng
vào ngày thứ 4. Có thể kết luận rằng vi khuẩn khử đạm và BKC có khả năng khử
nitrite và nitrate trong nước thải; tuy nhiên cần có những nghiên cứu sâu xa hơn nữa
để xác định phương thức làm mất ammonium trong nước thải.
4. Giới thiệu & nền tảng
Ni thuỷ sản trong ao là ngành cơng nghiệp chính ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên,
nước thải và bùn đáy ao đang gây ô nhiễm cho sông rạch và phương hại đến chất lượng nước
dùng cho sinh hoạt và làm nguy cơ cho chính ngành ni trồng thuỷ sản trong tương lai. Điều
cần thiết rõ ràng và cấp bách là phải có chiến lược để làm giảm lượng chất thải từ ao nuôi cá
thải vào sông rạch và như vậy ngành ni thuỷ sản trong ao có thể tiếp tục hổ trợ việc đa
dạng hoá nguồn thu nhập ở đồng bằng sông Cửu Long đồng thời đáp ứng đúng với tiêu
chuẩn cho phép của Bộ Thuỷ Sản về nước thải về thuỷ sản năm 2006.
Nước trong ao nuôi thường xuyên được thay đổi với số lượng lớn. Hiện nước thải phần lớn
được thải vào sông, kênh hay rạch, nhưng điều này làm ô nhiễm nghiêm trọng cho nước ở
cuối nguồn do đa số ao ni nằm về phía thượng nguồn. Để giảm ô nhiễm nguồn nước, luật
Môi Trường ban hành năm 1995 nghiêm cấm việc thải trực tiếp nước thải chưa qua xử lý vào
3
sông rạch. Người vi phạm sẽ bị phạt hoặc cơ sở sản xuất bị đóng cửa cho đến khi họ khắc
phục được. Thêm vào đó việc sên ao vét bùn hàng năm là cần thiết để phòng bệnh cho cá.
Bùn đáy ao có khoảng 35% chất rắn hửu cơ. Việc thải bùn vào sông rạch cũng bị nghiêm
cấm theo luật định. Tuy vậy, dường như ít có ai chấp hành luật lệ. Chấp hành đúng theo luật
mà khơng tính đến hiệu quả kinh tế của việc xử lý và tái chế sẽ gây ảnh hưởng khó khăn cho
ngành ni thuỷ sản. Điều cực kỳ cần thiết là phải đề ra chiến lược hửu hiệu cho người ni
cá để họ có thể xử lý nước và chất thải rắn đạt tiêu chuẩn mà khơng cần chi phí cao.
Trong khi việc nguồn nước bị ô nhiễm do chất thải từ ao nuôi cá thì ai cũng biết lại dường
như ít có chứng cớ được thu thập và công bố. Đặc biệt là dường như thiếu các số liệu cơ bản
đẻ chứng minh sự suy giảm về chất lượng nước. Hơn thế nữa, ít có số liệu quan trắc về chất
lượng nước ở sông rạch nhỏ nơi mà sự ô nhiễm rất hiển nhiên. Vậy thì điều chưa rõ là thơng
số nào về chất lượng nước không đạt theo tiêu chuẩn cho nước mặt của Việt Nam, thường
xun có bao nhiêu lần khơng đạt theo tiêu chuẩn, xảy ra ở đau và yếu tố nào là tủi ro nhất.
Theo nguyên tắc đầu tiên thì dường như mùa khơ là ơ nhiễm nghiêm trọng nhất khi mà
lượng nước q ít khơng đủ để pha loảng và rửa đi chất thải và đặc biệt là nơi sơng rạch nhỏ
dịng chảy bị cản bởi cống, đập và các lồi thực vật thuỷ sinh.
Đồng bằng sơng Cửu Long sản xuất khoảng 400.000 tấn cá da trơn mỗi năm (năm 2007 ước
khoảng 1 triệu tấn). Hầu hết cá da trơn được xuất sang thị trường Mỹ, hiện thị trường EU
đang tăng lên và cả Nhật Bản. Cá phi lê xuất khẩu phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực
phẩm của các nước này. Sự khác nhau lớn nhất về khả năng kiểm soát đầu vào của các nhà
sản xuất là nguồn nước dùng để nuôi cá đuợc lấy từ kênh rạch. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của
sự tích tụ từ các ao ni thâm canh, sự suy giảm về chất lượng nước sông rạch do chất thải
làm hạn chế sức sản xuất và việc mở rộng thêm ao nuôi do sự phát tán các vi khuẩn gây bệnh
và các loài ký sinh trên cá ở hạ nguồn . Điều này củng có thể gây tác động xấu đến trên sức
khoẻ của các hộ gia đình dùng một lượng đáng kể nguồn nước bị ô nhiễm này.
Thách thức đặt ra cho dự án này là phải bảo vệ ngành ni cá trong ao do đó là nguồn đa
dạng hố thu nhập cho người nơng dân ở đồng bằng sông Cửu Long bằng cách xử lý nước và
bùn đáy ao, trong khi đó phải bảo vệ mơi trường và cư dân trong vùng tránh ô nhiễm nguồn
nước.
Dự kiến đầu ra theo hướng gia tăng tính cạnh tranh của người sản xuất cá trong ao vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Thêm vào đó các kỹ thuật mới sẽ cải thiện việc quản lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên bằn gcách giảm ô nhiễm nguồn nước do việc kiểm soát nước thải và bùn
đáy ao vào sông rạch. Mục tiêu chung của dự án là gia tăng tính bền vững của việc sản xuất
cá tra trong ao và chất lượng nước vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mục tiêu cụ thể của dự
án là:
•
Đề ra các chiến lược xử lý hữu hiệu nước thải và bùn đáy ao trước khi thải ra sơng để
làm giảm ơ nhiễm nguồn nước;
•
Đề ra chiến lược tái chế và tái sử dụng nước và bùn đáy ao kể cả việc xử lý trên đất
và cả cho những việc sử dụng cuối cùng hợp lý hơn;
•
Gia tăng thu nhập của các hộ nuôi cá bằng cách khuyến khíach đa dạng hố trong sản
xuất và thị trường cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Đối tượng của dự án là nuôi cá trong ao chứ không phải nuôi cá bè hoặc nuôi tôm. Nghề nuôi
cá bè kém quan trọng hơn do chi phí sản xuất tăng và rủi ro cao hơn ni cá trong ao được
kiểm sốt. Các nghiên cứu khác về nuôi tôm đã được khảo sát ở vùng nước lợ (Bé, 1997).
Nuôi tôm sú cũng là một mối hiểm hoạ về tác động lên môi trường, đặc biệt là cần phải nêu
4
lên các vấn đề về mơi trường có tác động đến sự bền vững của ngànhh sản xuất đó cho dù về
kinh tế nó là thuận lợi.
Ni cá trong ao dược thực hiện theo 3 nhóm chính ở vùng đồng bằng sông Cửu Long: nông
dân dùng hệ thống VAC để xử lý nước thải và bùn đáy ao; nông dân sản xuất nhỏ vừa có ao
ni cá vừa canh tác lúa nhưng khơng kết hợp 2 loại hình này vào trong hệ thống; các hộ
nuôi cá chuyên nghiệp họ tận dụng tất cả đất để làm ao nuôi cá. Hệ thống VAC đã thực hiện
việc tái chế nước thải và bùn đáy ao để thu hồi nguồn dưỡng chất. Bằng cách làm như vậy
mức độ ô nhiễm do nước thải có lẻ được giảm thiểu. Tuy nhiên; dường như ít có minh chứng
về lợi ích của hệ thống VAC trên chất lượng nước ở cuối nguồn. Dự án này sẽ đánh gá tác
động của hệ thống VAC trên chất lượng nước ở khu vực hạ lưu và nếu cần thiết phải có các
cải tiến nhằm tái chế nước thải và bùn đáy nhằm đạt mức tiêu chuẩn nước thải. Nhóm sản
xuất thứ hai bao gồm các tiểu nơng vừa có ao ni cá, vừa có ruộng và vườn cây ăn quả và
trồng rau. Dự án này liên quan đặc biệt đến hai đối tượng này do họ có đủ đất để dùng cho xử
lý nước thải và bùn đáy ao, nhưng hiện nay họ vẫn thải trực tiếp và kênh rạch.
Cả nước và bùn đáy (chịnh) từ ao cá có chứa cácbon và các chất dinh dưỡng cần phải được
tái chế tại chổ để thu hồi chất dinh dưỡng nhằm đẩy mạnh việc sản xuất lúa, rau màu và cây
ăn quả cũng như các loại sản phẩm mới phục vụ cho ngành cơng-nơng ngiệp qui mơ nhỏ.
Bùn đáy ao có thể được xử lý theo nhiều phương cách bao gồm dùng đất để xử lý, nuôi giun
đất, xử lý bằng vi sinh và xử lý bằng ozon. Tuy nhiên cần có các nghiên cứu cụ thể để biết
chắc tiềm năng của mỗi phương pháp xử lý chất thải và cải thiện chất lượng nước đồng thời
thu thập các minh chứng về hiệu quả xử lý đạt theo tiêu chuẩn.
Các nhà sản xuất cá chun nghiệp thường khơng có đủ đất dùng cho xử lý chất thải. Hiện tại
chất thải được thải trực tiếp và sông rạch, đôi khi họ cũng xử lý bằng hoá chất khử trùng
nước trước khi thải. Các gnhiên cứu cần thiết để biết tác động của các loại hố chất này trên
mơi trường khu vực hạ lưu. Thêm vào đó, tìm kiếm cơ hội hợp tác để người làm ruộng cho
phép người sản xuất cá chuyên nghiệp thải nước thải từ ao cá vào ruộng lúa bên cạnh ao. Tuy
nhiên để thực hiện thao tác này cần phải có các thí nghiệm minh chứng và một khi có kết quả
sẽ triển khia cho nhóm sản xuất này.
5. Tiến độ đến nay
5.1
Các điểm nổi bật thực hiện được
Điều tra cơ bản: Các câu hỏi về điều tra cơ bản đã được biên soạn có sự tham vấn của cán bộ
nghiên cứu của Đại Học Cần Thơ và cán bộ khuyến nông của TP. Cần Thơ và tỉnh An Giang.
Việc điều tra đã được thực hiện vào tháng 9 và tháng 10 năm 2007. Tổng số có 240 phiếu
phỏng vấn của các nông hộ (tại 2 huyện/ mỗi tỉnh hoặc TP). Các số liệu hiện đang được phân
tích và thống kê tại Bộ môn Kinh tế - Xã hội của Viện lúa ĐBSCL. Kết quả sơ bộ cho thấy
hầu hết mọi người đều quan taam đến sự ô nhiễm nguồn nước mặt vì nó tác động đến sự bền
vững cho cuộc sống và sản xuất. Có khoảng 20% số hộ được phỏng vấn (bao gồm cả hộ có
ni cá hay không nuôi cá) cho rằng chất lượng nước bị xấu đi. Chỉ có khoảng 5% số hộ ni
cá có ao lắng, 12% số hộ ni cá tái sử dụng chất thải từ ao nuôi cho canh tác lúa trong khi
số còn lại thải trực tiếp vào kênh mương. Nơng dân ni cá thì khá giả hơn, học vấn cao hơn
và tuổi đời còn trẻ hơn các hộ canh tác lúa. Các số liệu này dựa vào số liệu thống kê hộ có
nhà tường bê tơng, vật dụng sinh hoạt gia đình, máy bơm nước và thu nhập. Tuy nhiên có
khoảng 15% số hộ ni cá là dân nhập cư mới đến mua đất hoặc thuê đất để nuôi cá. Tác
động về mặt chất lượng nước được đánh giá dựa trên màu sắc nước có bị chuyển sang xanh
đen hay không, mùi hôi, vật chất lơ lững và bị ngứa khi tiếp xúc với nuồn nước. Hơn thế nữa
chính các hộ nuôi cá cũng đã thừa nhận hiện số cá bị nhiễm bệnh chết trung bình lớn hơn
5
q5% so với trước kia con số này ít hơn 5%. u cầu tìm ra giải pháp có hiệu quả và kinh tế là
quan trọng hàng đầu của các nông hộ. Việc đầu tư để nuôi cá là rất lớn và hầu hết các hộ nuôi
cá phải vay tiền từ ngân hàng hoặc người láng giềng và như vậy họ rát quan tâm đến mối
hiểm hoạ cho khả năng thực hiện.
Điều tra về nông dân thực hành xử lý chất thải: Điều tra về việc thực hành xử lý chất thải của
nơng dândddax được hồn tất vào mùa khơ năm 2007 tại 2 địa điểm An Giang và Cần Thơ.
Phần lớn chất thải (lỏng và rắn) được bơm trực tiếp vào nguồn nước (sông hoặc kênh rạch).
Trong trường hợp ao nuôi ở cạnh các sông lớn như sông Tiền hoặc sông Hậu, chất thải dường
như được pha loảng bởi lượng nước rất lớn của dòng chảy và được cho biết là không gây ra
ảnh hưởng nghiêm trọng so với khi thải ra ở cuối sông rạch nhỏ. Trong một vài trường hợp
thì chất thải được bơm vào ruộng lúa. Vấn đề đáng quan tâm về quản lý là do chất thải từ ao
ni cá có chứa đạm cao và làm cho năng suất lúa bị giảm do đổ ngã. Tuy nhiên, việc sử
dụng chất thải một cách hợp lý và cân bằng với lượng phân vơ cơ có thể làm cho năng suất
lúa gia tăng.
Trong mùa khô năm 2007, chúng tôi đã tiến hành khảo sát “Ảnh hưởng của việc áp dụng chất
thải trên năng suất lúa tại tỉnh An Giang”. Chúng tơi chọn 32 ruộng lúa trong đó có 16 ruộng
có nhận chất thải từ ao ni cá trong khi 16 ruộng kia khơng có nhận chất thải. Kết quả cho
thấy năng suất trên các ruộng có nhận chất thải cao hơn các ruộng kia từ 0,8 đến 1,0 tấn/ha
(Bảng 1). Điều này có lể do chát thải từ ao cá có hàm lượng các dưỡng chất cao đặc biệt là
đạm, lân và kali cũng như các trung và vi lượng (Bảng 2). Tuy nhiên,
Hàm lượng cácbon hửu cơ trong ruộng có nhận chất thải lại thấp hơn ruộng khơng có được
chất thải. Vấn đề này cần được khảo sát lại cho cặn kẻ hơn vì có thể người nông dân chỉ bơm
nước thải vào ruộng lúa.
Bảng 1. Năng suất lúa trung bình (tấn/ha) tại 2 địa điểm của tỉnh An Giang có hoặc khơng có
nhận chất thải từ ao ni cá. Số liệu trung bình của 8 lần lập lại.
Huyện
Châu phú
Phú Tân
Có chất thải
7.9
7.4
Khơng có chất thải
6.9
6.6
Bảng 2. Kết quả phân tích bùn đáy ao ở tỉnh An Giang, 2007
Nguyên tố
C
N
P
K
Nồng độ
2.5 %
0.83 %
0.61 %
3.5 %
Lấy mẫu nước: Ba vùng được lựa chọn để lấy mẫu: Châu Phú và Phú Tân của tỉnh An
Giang; Thốt Nốt của TP Cần Thơ. Thêm vào đó mẫu nước cũng được lấy tại quận Bình thủy
và Phong Điền gần TP. Cần Thơ nơi thực hiện VAC.
Quận/Hu
yện
Châu Phú
Phú Tân
Hệ
thống
nuôi cá
Ao lớn mới
được đào
Ao lớn mới
Nơi thải gần
nhất
Ống cống nhỏ
xả ra kênh lớn
Thải qua cống
Thức ăn
Thực hành tái chế chất thải
Tự chế kết hợp với Một số nông dân dùng
thức ăn viên nổi
nước thải cho canh tác lúa
Tự chế kết hợp với Có tranh cải về xả nước
6
Thốt Nốt
Bình
Thủy
Phong
Điền
được đào
vào kênh nhỏ
Ao lớn ni Chủ yếu thải ra
được 8 năm kênh, một số
thải ra ruộng lúa
Ao nhỏ
Kênh nhỏ
Ao nhỏ
Kênh nhỏ
thức ăn viên nổi
thải ra ruộng lúa
Tự chế kết hợp với Có sử dụng ao lắng, bơm
thức ăn viên nổi
lên vườn cây hoặc ruộng
lúa
Dùng thức ăn viên Bơm lên vườn cây, tưới
cho cá con khoảng 1 cho rau hoặc ruộng lúa
tháng đầu sau đó
dùng thức ăn tự chế
Dùng thức ăn viên Bơm lên vườn cây, tưới
cho cá con khoảng 1 cho rau hoặc ruộng lúa
tháng đầu sau đó
dùng thức ăn tự chế
Kế hoạch lấy mẫu cho 8 ao như sau:
Nước mặt,
Nước tầng sâu 2m,
Nước ở cửa xả
Nước cuối nguồn từ 100-200m
Mỗi tháng lấy mẫu 2 lần trong 5 tháng
Các chỉ tiêu đo đạc về chất lượng nước:
Đặc tính hố học: pH, EC, BOD, COD, NO3, P, S,
Đặc tính sinh học: E coli, Total coliform, Staphyllococcus, Salmonella.
Tuy nhiên một số các yếu tố cần lưu ý khi lấy mẫu như sau:
1. Địa điểm đối chứng- Hầu hết các ao hồ sẽ là nguồn đầu vào các chất gây ô nhiễm cho sơng
rạch do q trình canh tác lúa hoặc do sinh hoạt của dân cư. Tác động nào gây ra trên chất
lượng nước cần phải được xác định bằng cách lấy mẫu nước ở điểm đối chứng xa nơi bị ảnh
hưởng của các ao cá. Địa điểm lấy mẫu tuỳ thuộc vào từng nơi.
2. Lấy mẫu lúc nước ròng- Lúc nước ròng các ao dường như xả nước thải. Việc lấy mẫu phải
trùng với thời điểm này để biết được mức ô nhiễm cao nhất.
3. Lấy mẫu lúc nước lớn- Khi nước lớn thì nước chảy vào các sơng rạch nhỏ. Việc lấy nước
vào ao dường như được tiến hành ở các thời điểm này. Việc lấy mẫu cần phải tiến hành đồng
thời để biết số liệu ô nhiễm được tải đi.
4. Qui trình lấy mẫu- Đại học Cần Thơ đã có qui trình lấy mẫu. Mơ tả vị trí độ sâu khoảng
cách từ bờ, rửa sạch lọ đựng mẫu, điều kiện bảo quản mẫu…
5. Toạ độ GPS của nơi lấy mẫu- Để đảm bảo việc lấy mẫu cho từng vị trí theo các thời gian
khác nhau thì toạ độ vị trí thu mẫu cần được xác định.
6. Chất lượng nước- sau khi các nghiên cứu sinh Thạc sĩ hoàn tất thu mẫu vào tháng 12, việc
thu mẫu vào mùa khơ cần được tiến hành để có số liệu đầy đủ về chu kỳ ô nhiễm hàng năm
do chất thải từ các ao ni cá.
7. Sau khi đã có kết quả về 4 lần lấy mẫu, số liệu được tổng hợp và gửi cho Murdoch để dự
án có thể biết được chiều hướng và quyết định có sửa đổi kế hoạch lấy mẫu hay không.
8. Các biến dự kiến đóng góp vào mức độ ơ nhiễm từ chất thải của ao ni cá là:
Kích thước của kênh rạch để xả chất thải; mức triều;
7
Thời gian trong năm;
Khoảng cách vời vị trí cống xả nước thải;
Tầng suất thay nước ao nuôi;
Mật độ ao nơi nguồn kênh thải nước;
Chất thải loại lỏng hay rắn;
Mức độ nước thải được xử lý trong ao lắng hoặc trên ruộng lúa
Do đã được chấp thuận về nguyên tắc dự án không nhằm vào sự khuếch tán chất thải trong
kênh rạch do rất phức tạp và cần phải có nhiều điểm để lấy mẫu, lập lại nhiều lần theo thời
gian mà chỉ đánh giá mức độ ô nhiễm trong kênh thốt nước chảy vào kênh chính.
Thí nghiệm trên đồng ruộng dùng bùn đáy ao canh tác lúa: Thí nghiệm đồng ruộng về lợi ích
của việc sử dụng bùn đáy ao cho canh tác lúa đã được thực hiện vào mùa mưa năm 2007 tại
trại thí nghiệm của Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. 3 liều lượng bùn đáy ao cá ở các
mức 1, 2, 3 tấn/ha được sử dụng kết hợp với phân vô cơ ở liều lượng 1/3 hoặc 2/3 mức sử
dụng cho vụ Hè Thu. Công thức 100% phân vô cơ (60N-40P2O5-30K2O) dùng làm nghiệm
thức đối chứng. Kết quả thí nghiệm cho thấy năng suất lúa khơng khác biệt khi phân tích
thống kê. Điều này cho thấy việc sử dụng bùn đáy ao có thể giúp cho nông dân tiết kiệm
được tiền do giảm được lượng phân vơ cơ sử dụng. Thí nghiệm này sẽ được lập lại trong vụ
Đông-Xuân 2008-2008 trên cùng địa điểm.
Tái sử dụng nước thải tưới cho lúa: Một thí nghiệm về tái sử dụng nước thải tưới cho lúa đã
được thực hiện từ tháng 8 năm 2004. Thí nghiệm này sẽ thu hoạch vào cuối tháng 11.
Chất lượng nước trong ao cá: Kết quả phân tích nước thu từ các ao cá cho thấy hàm lượng
đạm hoà tan, vật chất lơ lững cao trong khi mật số vi khuẩn coliform ở trong mức cho phép
và có mùi hơi so với tiêu chuẩn theo Thông Tư 02/2006 của Bộ Thuỷ Sản.
Xử lý nước thải bằng vi sinh:Có 8 chủng và 1 dịng vi khuẩn khử đạm Pseudomonas stuzeri
(dòng tham khảo ATCC14405) phân lập từ nước ao cá ở đồng bằng sông Cửu Long được. Có
4 dịng được chọn dùng để xử lý nước thải dựa trên khả năng làm giảm hàm lượng
ammonium, nitrite và nitrate. Nghiệm thức khác là BKC (benzalkonium chloride), một loại
hố chất nơng dân thường dùng, và một nghiệm thức đối chứng. Kết quả cho thấy hàm lượng
ammonium trong các nghiệm thức xử lý bằng vi sinh giảm đi nhanh chóng từ 10mg/L ở ngày
đầu xuống đến mức 0mg/L ở ngày thứ 4. Trong khi đó nghiệm thức dùng BKC và nghiệm
thức đối chứng hàm lượng ammonia vẫn còn ở mức 2mg/L ở ngày thứ 4. Nồng độ nitrite ở
nghiệm thức đối chứng tăng lên đến mức 3mg/L ở ngày thứ 2. Các nghiệm thức khác thì
nitrite vẫn giữ ở mức 0,5mg/L. Nitrate chỉ được phát hiện ở nghiệm thức đối chứng vào ngày
thứ 4. Có thể kết luận rằng BKC và vi khuẩn khử đạm có khả năng làm giảm hàm lượng
ammonium, nitrite và nitrate trong nước thải.
Phân trùn: Bùn đáy ao thu từ ao nuôi cá được ủ làm phân hữu cơ và phân trùn trong nhà lưới
của Viện lúa đồng bằng sơng Cửu Long. Hai thí nghiệm này đang được tiến hành.
5.2
Lợi ích cho tiểu nơng
Nước thải từ ao ni cá có thể được dùng đểư canh tác lúa để tận dụng các đa lượng hoà tan
trong nước thải. Kỹ thuật canh tác lúa tưới bằng chất thải từ ao nuôi cá sẽ được phổ biến cho
nông dân. Các tiểu nơng canh tác lúa có thể tiết kiệm được nhiều tiền mua phân vô cơ.
8
5.3
Đào tạo nguồn nhân lực
Một sinh viên Trường Đại học An Giang đã hoàn tất đề tài “ Hiệu quả của bơm chất thải ao
cá trên năng suất lúa”.
2 sinh viên Cao học trường Đại Học Cần Thơ đang thực hiện đề tài Xử lý và Tái chể chất thải
lỏng và rắn từ ao cá.
5.4
Cơng bố
Chưa có .
5.5
Quản lý dự án
Hợp đồng phụ được gửi tới Viện lúa vào tháng 7 và được ký xong vào tháng 8. Điều tra cơ
bản bị chậm theo tiến độ chủ yếu vì kinh phí khơng được chuyển tyheo hợp đồng cho tới khi
hợp đồng được ký xong và do MurdochLink nhận kinh phí chậm. Chúng tôi tin rằng vấn đề
này sẽ được giải quyết sơm cho kỳ chuyển tiền lần sau.
Giáo sư Richard Bell và Goen Ho viếng thăm Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long và trường
Đại Học Cần Thơ vào tháng 7 để thảo luận về kế hoạch và việc thực thi dự án cũng như chọn
địa điểm thực hiện.
6. Báo cáo về các vấn đề gặp phải
6.1
Mơi trường
Khơng có gì báo cáo.
6.2
Giới và các vấn đề xã hội
Khơng có gì báo cáo..
7. Vấn đề về thực hiện và sự bền vững
7.1
Các trở ngại
Khơng có gì báo cáo
7.2
Các sự lựa chọn
Khơng có gì báo cáo
7.3
Sự bền vững
Khơng có gì báo cáo
7.4 Các bước quan trọng sắp tới
Đánh giá sư ô nhiễm nguồn nước do chất thải lỏng và rắn trong trường hợp chúng được thải
trực tiếp ra nguồn nước mặt.
9
Thực hiện 4 thí nghiệm về việc sử dụng chất thải lỏng và rắn để canh tác lúa trong mùa khô
2008.
Xác định nồng độ ozon để khử trùng ao nuôi cá và oxid hố chất hữu cơ.
Một đơn cho Tình nguyện viên trẻ của Úc sang giúp cho Dự án từ tháng 3 đến tháng 12 năm
2008 đã được nộp. Quyết định có cử sang sẽ được biết trong tháng 11 2007.
Giáo sư Bell sẽ sang cuối tháng 12 /2007 để cùng tổ chức lớp tập huấn về dùng đất để xử lý
chất thải hữu cơ với Tiến sĩ Phụng. Trong chuyến công tác này sẽ xem lại chi tiết toàn bộ dự
án đã thực thi và chọn ứng viên sang tập huấn ở Úc trong năm 2008.
Viện lúa sẽ tổ chức lóp tập huấn tại Viện. Viện lúa có khả năng tổ chức lớp cho 30 học viên
ăn ở tại chổ, có phịng học và phịng ths nghiệm để thực tập. Đã thống nhất có thể dành cho
15 ứng viên của Viện lúa.
Xử lý chất thải trên đất
Kế hoạch là tuần đầu của tháng 1 năm 2008. Kế hoạch dự trù là các bài giảng 3 giờ cho mỗi
buổi sáng, buổi chiều dành cho thực tập, thảo luận và tham quan các thí nghiệm đồng ruộng.
Các chủ đề dự trù như sau:
Đặc tính đất đai liên quan đến việc áp dụng chất thải
Các tiến trình phân huỷ trong đất
Loại chất thải cho vào đất, đặc biệt là chất hữu cơ và nước thải
Nhu cầu dinh dưỡng cho lúa
Nguyên lý và phương pháp xử lý chất thải
Tác động môi trường do thải chất thải vào đất
Các nghiên cứu về dùng đất để xử lý chất thải
Dự trù thực tập và thảo luận:
Phân tích hàm lượng cácbon trong đất
Đánh giá các chỉ tiêu nước thải và chất lượng nước
Thí nghiệm về sử dụng bùn đáy ao trong canh tác lúa
Tham quan ao ni cá có hệ thống xử lý chất thải tại huyện Ơ Mơn và Thốt Nốt
Tính lượng phân tối hảo kết hợp với nước thải và bùn đáy ao
Bế mạc
Các cuộc khảo sát sơ khởi củng cố thêm cho đề tài về cơ bản là nguồn nước bị ô nhiễm dễ
nhận biết và rất phổ biến trong vùng có ao nuôi cá. Hơn thế nữa kết quả điều tra về đồng
ruộng cho thấy có ít hộ nơng dân tái chế nước thải, tuy nhiên dường như năng suất lúa gia
tăng do việc sử dụng hợp lý chất thải từ ao nuôi cá.
10