LỜI CẢM ƠN
Em xỉn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Mai Văn Hưng, người đã tận tình hướng dẫn
và giúp đỡ em trong quả trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giảo của Khoa Sinh - KTNN, Phòng Sau đại học
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quả trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giảm hiệu, các thầy cô giảo và các em học sinh của trường
Tiếu học Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc cùng tất cả bạn bè, đồng nghiệp và những người thân
trong gia đình đã động viên, giúp đỡ đê tôi hoàn thành tôt luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2010
rx'
L
_ • 2
Tác gia
Trương Thị Tuyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, các số ỉiệu nêu
trong ỉuận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả Trương Thị Tuyên
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BMI Body mass index (chỉ số khối cơ thế)
cs Cộng sự
CDC National Center for Chronic Disease Prevention and
Health Promotion (Trung tâm quốc gia phòng bệnh mạn tính và tăng cường
sức khỏe)
ĐHSP Đại học Sư phạm
1
FEV 1 Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu
FVC Dung tích sống thở mạnh
GTSH Giá trị sinh học người Việt Nam
HSSH Hằng số sinh học người Việt Nam
Nxb Nhà xuất bản
TV Tidal Volume (Thể tích khí lưu thông)
VC Volume Capcacity (Dung tích sống)
2
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.15. Thế tích khí thở ra tối đa trong giây đầu của học sinh theo tuổi
53
và giới tính
Bảng 3.16. Thời gian phản xạ thị giác - vận động của học sinh theo tuổi và
56
giới tính
Bảng 3.17. Thời gian phản xạ thính giác - vận động của học sinh theo tuổi
58
và giới tính
Bảng 3.18. Hệ số tương quan giữa một số chỉ số nghiên cứu của
học sinh 60
DANH MỤC HÌNH •
Hình 3.38. Mối tương quan giữa chiều cao đứng với dung tích sống của học
sinh
MỤC LỤC
Trang
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt Danh
mục các bảng Danh mục các hình
PHỤ LỤC
MỎ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tầm vóc và thể lực là những đặc điểm phản ánh một phần thực trạng của cơ thể, đặc
biệt liên quan đến khả năng lao động, thẩm mỹ của con người. Tầm vóc phản ánh quá trình
phát triển về mặt hình thái và cấu trúc cơ thể. Thể lực được thể hiện qua khả năng hoạt
động của các hệ thống cơ quan trong cơ thể như sự vận động, tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết,
thần kinh (theo [36]), [59].
Những chỉ số về hình thái thể lực thay đổi theo thời gian do sự thay đổi của xã hội,
môi trường tự nhiên đáng kể nhất là chế độ dinh dưỡng, luyện tập thể dục thể thao, chế độ
làm việc và thực trạng ô nhiễm môi trường [1], [2], [3], [10], [58], [59], [62], [70], [71]. Do
đó, việc nghiên cứu các chỉ số sinh học cần được tiến hành thường xuyên.
Trong nhiều năm gần đây, đất nước ta có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội,
khoa học, y học Đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Theo đó, các chỉ số sinh
học của con người cũng có sự thay đổi. Sự thay đổi đó theo thời gian và lứa tuổi như thế
nào? Rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã nghiên cứu đế trả lời câu hỏi
này [5], [21], [22], [38], [42], [44], [48], [51], [57], [67], [69]
Tại Việt Nam, các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả [7], [8], [10], [17], [29],
[33], [40], [47], [58] đề cập đến thực trạng thể lực, sinh lý của người Việt Nam ở một số
địa phương, vùng, miền trong nước hoặc trường học và đã có một số so sánh cụ thể để tìm
hiểu nguyên nhân khác biệt giữa các nhóm đối tượng nghiên cứu theo lứa tuổi nhằm xây
dựng một chương trình chăm sóc sức khỏe phù hợp với từng đối tượng, tuy nhiên những so
sánh này ít thấy ở học sinh tiểu học.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đặc điểm hình tháiy sinh lý và sự tăng trưởng cơ thể của học sinh trường Tiểu học
Xuân Hòay thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được đặc điểm về hình thái, sinh lý và sự tăng trưởng cơ thể của học sinh
trường Tiểu học Xuân Hòa, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Nhiệm vụ nghiên cún
- Nghiên cứu một số chỉ số hình thái thể lực của học sinh (chiều cao đứng, chiều cao ngồi,
cân nặng, vòng ngực trung bình, vòng đầu, vòng eo, vòng mông, chỉ số pignet, BMI).
- Nghiên cứu một số chỉ số chức năng tuần hoàn máu của học sinh (tần số tim, huyết áp động
mạch).
- Nghiên cứu một số chỉ số chức năng thông khí phổi của học sinh (dung tích sống, dung tích
sống thở mạnh, thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu).
- Nghiên cứu thời gian phản xạ cảm giác - vận động của học sinh (thời gian phản xạ thị giác
- vận động, thời gian phản xạ thính giác - vận động).
- Nghiên cứu môi liên quan giữâ một sô chỉ sô được nghiên cứu củâ hộc
sinh.
4. Đối tưọ’ng và phạm vi nghiên cún
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh trường Tiểu học Xuân Hòa, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc, có độ tuổi từ 7 - 11 tuổi. Đối tượng nghiên cún ở trạng thái khoẻ mạnh, tâm sinh lý
bình thường, không có dị tật về hình thế hoặc các bệnh mạn tính.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một số chỉ số hình thái thể lực, chỉ số chức năng của một
số hệ cơ quan, sự tăng trưởng cơ thể và mối liên quan giữa các chỉ số nghiên CÚ01 của của
học sinh trường Tiếu học Xuân Hòa, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, vòng eo, vòng mông, tần số tim, huyết áp, dung
tích sống, dung tích sống thở mạnh, thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu tiên được xác
định theo các phương pháp thường qui đương đại.
- Các chỉ số pignet, BMI được tính theo công thức:
Pignet = chiều cao đứng (cm) - [cân nặng (kg) + VNTB (cm)]
BMI = Cân nặng (kg) / [chiều cao đứng (m)]2
- Thời gian phản xạ cảm giác - vận động được xác định theo phương pháp của Đỗ Công
Huỳnh và cộng sự (cs).
Ket quả nghiên cứu được phân tích và xử lý trên máy tính bằng chương trình
Microsoft Excel và chương trình SPSS.
6. Những đóng góp mói của đề tài
- Xác định được sự thay đổi về một số chỉ số hình thái thể lực, chỉ số chức năng tuần hoàn
máu, chỉ số chức năng thông khí phổi, thời gian phản xạ cảm giác - vận động của học sinh
trường Tiểu học Xuân Hòa, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ket quả trong luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong các nghiên cún, giảng dạy
về đặc điếm phát triến của học sinh tiếu học, và cung cấp những dẫn liệu khoa học cho công
tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe học sinh.
NỘI DƯNG CHƯƠNG L TÒNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số vấn đề chung về các chỉ số hình thái - thể lực
Các chỉ tiêu hình thái thể lực mang tính đặc thù về giới tính, chủng tộc, lứa tuổi. Đe
đánh giá thể lực, người ta dùng các chỉ số khác nhau, tùy vào mục đích nghiên cứu mà lựa
chọn các chỉ số riêng. Trong đó các chỉ số như chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng
đầu .là các chỉ số hay được lựa chọn. Từ những chỉ số cơ bản này có thế suy ra các chỉ số
khác như chỉ số pignet, BMI [11], [59], (theo [61]).
Chiều cao của cơ thể là dấu hiệu được nhận xét sớm nhất trong hầu hết các lĩnh vực
ứng dụng của nhân trắc học, là chỉ tiêu quan trọng trong tuyển chọn vào quân đội, thi hoa
hậu, tuyến vào làm việc ở các cơ quan (theo [61]). Mỗi dân tộc thường có một khung chiều
cao nhất định được xác định trong quá trình hình thành đặc điểm sinh thể của dân tộc.
Không chỉ có sự khác biệt về chiều cao giữa nam, nữ mà giữa các dân tộc, vùng miền cũng
có sự khác biệt về chỉ số này [59], (theo [61]).
Trọng lượng cơ thể cũng là một chỉ số được nghiên cứu nhiều. Trọng lượng cơ thể
gồm 2 phần : phần cố định và phần thay đổi. Phần cố định có xương, da, các tạng và thần
kinh, chiếm 1/3 tống số cân nặng của cơ thế. Phần thay đổi, chiếm 2/3 tổng số cân nặng, có
cơ, mỡ và nước. Trọng lượng cơ thể liên quan chặt chẽ tới dinh dưỡng, ít phụ thuộc vào di
truyền. Trọng lượng cơ thể không nói nên tầm vóc con người nhưng sự phát triển của nó
liên quan đến nhiều kích thước khác nên thường được khảo sát để đánh giá thể lực [59].
Học sinh tiểu học thuộc thời kỳ học sinh nhỏ. Các quá trình phát triển trong các bộ
phận và các cơ quan xảy ra tương đối đồng đều, cân đối (theo [40]). Trung bình mỗi năm
chiều cao của các em tăng thêm 4-5 cm, cân nặng tăng thêm 2 - 3 kg. Các cơ bắp ở tay và
chân phát triển mạnh nên động tác trở nên mạnh mẽ. Nhưng ở giai đoạn đầu của thời kỳ
này, các cơ nhỏ chưa hoàn thiện nên các động tác tinh vi, phức tạp được thế hiện khó khăn,
có nhiều động tác thừa. Từ 9 tuổi trở đi, các động tác chính xác hơn (theo [40]).
Cuối thời kỳ này có sự phân biệt giới tính, thể hiện ở các đặc điểm về hình dáng và
kích thước cơ thể, bắt đầu tăng trưởng mạnh về chiều cao ở cả 2 giới, nhưng mức tăng
trưởng ở nữ cao hơn nam và đến 10 tuối nữ vượt nam về chiều cao, cân nặng tạo thành
điểm giao chéo thứ nhất của đường cong tăng trưởng (theo [40]), [60].
Đặc trưng tiêu biểu khác của thể lực là các loại vòng của cơ thể như vòng eo, vòng
mông, vòng đầu, vòng ngực Trong đó vòng ngực, vòng đầu được nhiều tác giả quan tâm
hơn [15], [17], [29], [31], [40], [52]
Chỉ số pignet và BMI được tính tù' các chỉ số cơ bản là chiều cao, cân nặng, vòng
ngực. Các chỉ số này đều có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển thể chất
của con người và cũng đã được nhiều công trình nghiên cứu [8], [10], [16], [27]
Việc nghiên cứu thể lực đã có từ rất lâu, nhưng đến đầu thế kỷ XX thì mới trở thành
khôâ học thực sự. Rudolf Martin được Cõi là gười đặt nên móng cho nhân trắc học hiện
đại. Trong hai tác phẩm nối tiếng: "Giáo trình về nhân trắc học” (1919) và "Kim chỉ nam đo
đạc và xử lý thống kê” (1924), ông đã đề xuất một số phương pháp và dụng cụ đo đạc các
kích thước của cơ thể, nhiều phương pháp cho đến nay vẫn được sử dụng (theo [11], [40]).
Sau Rudolf Martin đã có nhiều công trình bổ sung và hoàn thiện thêm các đề xuất của ông
cho phù hợp với thực tiễn của mỗi nước (theo [72]).
Cùng với sự phát triển của các ngành khoa học khác như Di truyền học, Sinh lý học,
Sinh thái, Toán thống kê xác suất việc nghiên cứu các chỉ số thể lực của con người ngày
càng đa dạng hơn (theo [72]).
Năm 1875, tác giả Mondier là người đầu tiên tiến hành nghiên cứu thể lực của người
Việt Nam (theo [40]). Từ những năm năm 1954 trở đi, đã có nhiều tác giả tiến hành nghiên
cứu các đặc điểm , giải phẫu, sinh lý của người Việt Nam [7], [8], [10], [16],[17], [27],
[29], [31], [33], [37], [38], [39], [40], [42], [47], [53],
Năm 1975, cuốn “Hằng số sinh học của người Việt Nam” [64] được xuất bản. Đó là
một công trình nghiên cún khá hoàn chỉnh về các chỉ số sinh học, sinh lý, sinh hóa của
người Việt Nam. Cuốn sách giúp người đọc có thể nắm bắt được những nét cơ bản trong
quá trình nghiên cứu về thể lực con người. Ket quả nghiên cún của Trịnh Văn Minh và cs
[52] trên người miền Bắc Việt Nam trưởng thành trong thập niên 90 cho thấy, sau tuổi dậy
thì ở lứa tuổi thanh niên các kích thước thể lực của cơ thể vẫn tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao
vào lúc 20 - 21 tuổi ở nữ và 22 tuối ở nam. Trong giai đoạn này, chiều cao, cân nặng và các
kích thước liên quan đến thể lực của nam giới luôn cao hơn so với nữ giới, còn các chỉ số
khác liên quan đến dinh dưỡng, khối mỡ thì ở nữ cao hơn ở nam.
Từ iĩăm 1980 đến 1990, Thẩm Thị Hoàng Điệp [16] đẵ nghiên cứu dộc trên 101 học
sinh Hà Nội từ 6 - 17 tuổi. Với 31 chỉ tiêu được nghiên cứu tác giả nhận thấy, quy luật phát
triến theo giai đoạn chi phù họp với quy luật chiều cao, còn quy luật phát triển kích thước
các vòng gần giống quy luật phát triển cân nặng. Chiều cao của học sinh phát triển mạnh
nhất lúc 11 - 12 tuối ở nữ và 13 - 15 ở nam, còn cân nặng phát triển mạnh nhất lúc 13 tuổi ở
nữ và 15 tuổi ở nam.
Năm 1989, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cs [17] tiếp tục nghiên cứu về sự phát triển
chiều cao, vòng ngực, vòng đầu của trên 8000 người Việt Nam tuổi từ 1 - 55 tại ba miền
Bắc, Trung, Nam. Ket quả cho thấy chiều cao trung bình của nam trưởng thành là 163cm và
của nữ là 158cm. Chiều cao tăng nhanh đến tuổi 18 ở nam còn ở nữ đến tuổi 14. Vòng ngực
trung bình của nam trưởng thành là 78 - 80cm, vòng đầu là 55 - 56 cm, còn ở nữ tương úng
bằng 79 cm và 54 - 55cm.
Trong đề tài KX - 07 - 07, Lê Nam Trà và cs nhận thấy, không chỉ ở trẻ em mà ngay
cả ở thanh niên trong giai đoạn từ 18 - 25 tuổi cơ thể vẫn tiếp tục tăng trưởng. Tuy nhiên,
mức độ tăng trưởng không nhiều như ở những giai đoạn trước đó. Đen tuổi 25, ở cả hai giới
các chỉ số thể lực ổn định như ở tuổi trưởng thành [59].
Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng [58] tiến hành nghiên cứu 17 chỉ số của người Việt
Nam tò 1 - 25 tuổi ở Nghệ Tĩnh. Kết quả nghiên cún cho thấy, các chỉ số về chiều cao, cân
nặng, vòng ngực, vòng đầu của cư dân Nghệ Tĩnh phần lớn thấp hơn so với các chỉ số
này của dân cư vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tác giả còn nhận thấy, ở tất cả các độ tuối, chiều
cao của nam luôn lớn hon của nữ. Theo tác giả, điều kiện sống đã ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng và phát triển các chỉ số của con người.
Từ năm 1991 - 1995, nhóm tác giả Trần Văn Dần và cs [10] đã nghiên cứu trên học
sinh 6 - 1 6 tuôi ở Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Bình và nhận thây sự phát triển chiều cao của
trẻ em trong diện nghiên cứu cao hơn so với dẫn liệu trong cuốn "Hằng số sinh học người
Việt Nam”, đặc biệt ở trẻ em thành phố, thị xã, còn ở khu vực nông thôn chưa thấy có sự
thay đổi đáng kể.
Tác giả Đào Mai Luyến [47] nghiên cún thể lực của người Ê Đê và người Kinh định
cư ở ĐăkLăk nhận thấy rằng, khả năng tăng trưởng thể lực chịu ảnh hưởng của chủng tộc,
môi trường sống.
Đào Huy Khuê [31] nghiên cứu các đặc điểm về kích thước, sự tăng trưởng và sự
phát triển cơ thể của học sinh phổ thông 6 - 17 tuổi ở thị xã Hà Đông nhận thấy, các chỉ số
của học sinh tăng dần theo tuổi, nhưng tốc độ tăng không đồng đều giữa các năm.
Tạ Thuý Lan, Đàm Phượng Sào [33] nghiên cứu sự phát triển thể lực của học sinh
6-14 tuổi ở Vân Canh, Hà Tây cũng cho thấy, chiều cao của học sinh tăng dần từ 6-14 tuổi.
Từ năm 1998 - 2002, Trần Thị Loan [37], [40] nghiên cún trên học sinh Hà Nội từ
6-17 tuổi cho thấy, các chỉ số chiều cao, cân nặng của học sinh lớn hơn so với các kết quả
nghiên cứu của các tác giả từ những thập kỷ 80 trở về trước và so với học sinh Thái Bình,
Hà Tây cùng thời điểm nghiên cún. Điều này chứng tỏ, điều kiện sống đã ảnh hưởng tới sự
sinh trưởng và phát triển các chỉ số của học sinh.
Đỗ Hồng Cường [8] nghiên cún các chỉ số chiều cao, cân nặng của học sinh THCS
ở tỉnh Hoà Bình nhận thấy, các chỉ số này ở học sinh Mường, Thái, Kinh cao hơn rõ so với
học sinh Tày, Dao. Theo tác giả, điều này liên quan tới nơi cư trú của các em. Học sinh các
dân tộc Mường, Thái, Kinh sống ở vùng đồng bằng, thành phố và thị trấn. Học sinh các dân
tộc Tày, Dao đa số sống ở vùng sâu, vùng xa thuộc huyện Đà Bắc, nơi có các điều kiện
kinh tế - xã hội kém phát triển hơn so với thành phố và đồng bằng.
1.2. Một số vấn đề chung về các chỉ số chức năng tuần hoàn máu
Hệ tuần hoàn có chức năng quan trọng là đảm bảo cung cấp ôxy và các chất dinh
dưỡng cho cơ thể. Tần số tim và huyết áp động mạch là những chỉ số cơ bản biểu hiện hoạt
động của hệ tuần hoàn [12], [46], [49].
Tần số tim là số lần tim co bóp trong một phút. Tần số tim thay đổi theo tuổi, trạng
thái cơ thể [73], [74]. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy tần số tim của học sinh tiểu
học giảm dần theo tuổi [20], [40], [64], [65].
Máu chảy trong động mạch với một áp suất nhất định gọi là huyết áp. Nói cách khác
huyết áp là áp lực của máu tác động lên thành mạch máu. Áp suất đẩy máu đi trong mạch
được tăng cao khi tâm thất co và giảm khi tâm thất giãn. Khi tâm thất co, tống máu từ tâm
thất vào động mạch, lực của máu rất lớn nên huyết áp có trị số lớn nhất, gọi là huyết áp tối
đa hay huyết áp tâm thu. Ngược lại, khi tim giãn không có sức đấy của tim nhưng do có
tính đàn hồi của thành động mạch gây áp lực đẩy máu đi, huyết áp có trị số thấp nhất, gọi
là huyết áp tối thiểu hay huyết áp tâm trương [18], [19], [25], [35].
Mức độ chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu là huyết áp hiệu số.
Khi huyết áp hiệu số giảm xuống thấp thì tuần hoàn máu bị ứ trệ, huyết áp hiệu số lớn nhất
ở các động mạch chủ và động mạch lớn [19], [63].
Theo Phạm Thị Minh Đức, huyết áp tâm thu bình thường có trị số là 90 - 1 1 0
mmHg, nếu trên 140 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới 90 là hạ huyết áp. Huyết áp
tâm trương bình thường có trị số từ 50 - 70 mmHg, nếu vượt quá 90 mmHg được coi là
tăng huyết áp và dưới 50 mmHg là hạ huyết áp [19].
Đoàn Yên và cs [70] nghiên cứu tần số tim và huyết áp của người Việt Nam, nhận
thấy từ sau khi sinh, tần số tim và huyết áp biến đổi có tính chất chu kỳ. Huyết áp động
mạch tăng đến 18 tuổi, sau đó ổn định đến 49 tuổi rồi lại tăng dần, còn tần số tim lại giảm
dần cho đến 25 tuổi, sau đó ổn định đến 69 tuôi. Huyêt áp động mạch trên người Việt Nam
ở mội lứâ tuôi thâp hơn Sỡ với người Âu, Mỹ.
Nghiêm Xuân Thăng [58] nghiên cún một số chức năng sinh lý của người Nghệ
Tĩnh cho thấy, tần số tim, huyết áp động mạch chịu sự tác động của môi trường sống, đặc
biệt là của khí hậu. Tần số tim tăng khi nhiệt độ môi trường tăng và có sự biến đổi theo
ngày, mùa, mức độ bức xạ. Các chỉ số này còn chịu sự chi phối của các yếu tố khác như lao
động, trạng thái tâm lý
Qua nghiên cứu ở các dân tộc Tây Nguyên, Đào Mai Luyến nhận thấy, dân tộc Êđê,
Bana, Giarai có tần số tim và huyết áp động mạch khác nhau, nhung ở cả ba dân tộc huyết
áp đều tăng dần theo tuổi [47].
Nguyễn Văn Mùi và cs [54] đã nghiên cún tần số tim và huyết áp động mạch trên 182
vận động viên một số môn thế thao ở Hải Phòng. Các kết quả cho thấy, huyết áp tâm thu và
tâm trương của các vận động viên cả nam và nữ đều thấp hơn so với người bình thường
cùng lứa tuổi và nằm trong giới hạn bình thường. Trong đó nhóm vận động viên bơi lội có
huyết áp thấp nhất. Điều này cho thấy, việc rèn luyện thể dục thể thao có ảnh hưởng tới
chức năng của hệ tim - mạch.
Nghiên cứu của Trần Thị Loan cho thấy ở lớp tuổi học sinh phổ thông, tần số tim
giảm dần theo lóp tuổi, sự biến đổi nhịp tim của nam và nữ khác nhau [39], [40].
1.3. Một số vấn đề chung về các chỉ số chức năng thông khí phổi
Các chỉ tiêu chức năng hô hấp bao gồm các chỉ tiêu về thông khí phổi, khuếch tán
khí, các chỉ tiêu về phân áp các chất khí trong máu Các chỉ tiêu chức năng thông khí phổi
thường được nghiên cún và sử dụng trong thăm dò chức năng phổi là dung tích sống, dung
tích sống thở mạnh, thể tích khí lưu thông, thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu [13],
[24], (theo [61]).
Thể tích khí lưu thông ký hiệu là TV (Tidal Volume) là thể tích của một lần hít vào
hoặc thở ra bình thường. Ớ người trưởng thành bình thường, thể tích khí lun thông khoảng
0,51ít, bằng 12% dung tích sống [12].
Dung tích sống là lượng khí mà phổi của một người sau khi đã hít vào gắng sức rồi
lại thở ra tận lực (theo [40]). Theo các số liệu được công bố trong cuốn ’’Hằng số sinh học
người Việt Nam ” năm 1975 [64], dung tích sống của người Việt Nam có xu hướng giảm
theo tuối, tăng theo chiều cao và dung tích sống của nam cao hơn so với nữ.
Các chỉ tiêu chức năng thông khí phổi phụ thuộc vào tuổi, giới và chiều cao. Ở lứa
tuổi <16 tuổi các chỉ số chức năng thông khí phổi tăng lên theo tuổi. Từ 1 7 - 2 5 tuổi,
chúng thay đổi chậm và sự tăng lên không đáng kể, nhung tò 26 tuổi trở đi các chỉ tiêu chức
năng thông khí phổi giảm theo tuổi. Chức năng thông khí phổi còn phụ thuộc vào tư thế đo
của đối tượng, tư thế nằm thường thấp hơn tư thế đứng và tư thế ngồi (theo [61]).
Ở Việt Nam các chỉ tiêu chức năng thông khí phối người bình thường được nghiên
cứu từ những năm 50. Sau hội nghị hằng số sinh học người Việt Nam lần thứ II (1972),
dưới sự giúp đỡ của Bộ Y tế, giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng đã chủ biên và xuất bản cuốn
“HSSH” (1975). Các tác giả đã công bố các số đo trung bình của dung tích sống theo tuổi,
giới và chiều cao. Một số chỉ tiêu khác như thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (FEVi)
được đưa ra dưới dạng tỷ lệ % của dung tích sống (theo [61]).
Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 70, một số tác giả đã xây dựng phương trình
tuyến tính tính dung tích sống của người bình thường. Từ sau 1975 đến nay, cùng với sự
phát triến của khoa học kỹ thuật, các chỉ tiêu chức năng thông khí phổi ngày càng được
nghiên cún đầy đủ hon. Hầu hết các tác giả Việt Nam đều chỉ ra các số liệu người bình
thường Việt Nam đa số thấp hơn của người Ảu, Mỹ (theo [61]). Nguyễn Đình Hường và cs
[30] từ kết quả nghiên cứu trên người Hà Nội, đã xây dựiĩg được các phương trình tính giá
trị bình thường của một số chỉ số, đồng thời khắng định các chức năng thông khí phối trên
người Việt Nam thấp hơn so với người châu Âu.
Công trình của Đoàn Yên và cs [70] nghiên cứu nhịp thở, dung tích sống, thể tích
khí lun thông của người Việt Nam từ 6 - 79 tuổi cho thấy, dung tích sống tăng nhanh đến 19
tuổi sau đó ổn định, từ 30 tuổi trở đi bắt đầu giảm. Dung tích sống của ngưòi Việt Nam nhỏ
hơn so với người Âu, Mỹ.
Nghiên cứu của Trần Thị Loan [40] trên học sinh từ 6 - 17 tuổi cho thấy, dung tích
sống của học sinh tăng dần theo lớp tuổi và ở nam tăng nhanh hơn ở nữ. Theo tác giả thời
điểm tăng nhanh dung tích sống diễn ra cùng một lúc với thời điểm tăng nhảy vọt về chiều
cao.
Theo Nghiêm Xuân Thăng [58], khí hậu có ảnh hưởng lên chức năng hô hấp của cư
dân Nghệ Tĩnh, trong đó tần số hô hấp và dung tích sống chịu ảnh hưởng nhiều nhất của
khí hậu.
Theo nghiên cún của Đào Mai Luyến [47] trên người Êđê và người Kinh định cư ở
Đăk Lăk, các chỉ số hô hấp tương quan thuận với chiều cao và tương quan nghịch với tuối.
1.4. Một số vấn đề chung về thòi gian phản xạ cảm giác - vận động
Cảm giác là quá trình chuyển đối năng lượng vật lý thành phản ứng của các cơ quan
cảm thụ (thị giác, thính giác ). Cảm giác chính là sự phản ánh của hệ thần kinh đối với vật
kích thích và là một hoạt động phản xạ (theo [40]).
Bằng lập luận và thực nghiệm khoa học, Pavlov đã chỉ ra rằng mọi hoạt động của
con người đều là các phản xạ. Phản xạ là phản ứng của cơ thế đối với nhũng kích thích của
môi trường bên trong cũng như môi trường bên ngoài tác động lên nó do hệ thần kinh điều
khiế [6], [32].
Thời gian phản xạ là thời gian cần thiết để cơ thể đáp ứng một cách có ý thức với
những kích thích xác định. Thời gian phản Xậ phụ thuộc vàõ mức độ phát triển chức năng
của hệ thần kinh và dây thần kinh. Tốc độ dẫn truyền các xung động biến đối theo tuổi.
Ngoài ra thời gian phản xạ còn liên quan chặt chẽ với các chỉ số khác như lực cơ và sức dẻo
dai của cơ [41].
Phương pháp đo thời gian phản xạ được chính thức đưa vào phục vụ nghiên cứu
khoa học từ những năm đầu thế kỷ 19 trong các lĩnh vực như: thiên văn học, sinh lý thần
kinh, (theo [26]).
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về phản xạ cảm giác - vận động đã được
nhiều nhà tâm lý học, sinh lý học và y học tiến hành [26], [28], [40]
Đỗ Công Huỳnh và cộng sự [26] đã nghiên cứu thời gian phản xạ cảm giác - vận
động của thanh thiếu niên từ 16 - 18 tuổi ở khu vực Nam, Bắc sân bay Biên Hoà và xã Vạn
Phúc, thị xã Hà Đông. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian phản xạ cảm giác - vận động
giảm dần theo tuối. Tuổi càng lớn (không quá 18 tuổi) thì thời gian phản xạ càng ngắn.
Điều này chứng tỏ, quá trình xử lý thông tin ngày càng tốt hơn theo lóp tuổi. Đỗ Công
Huỳnh đã xây dựng một phương pháp cho phép xác định chính xác thời gian phản xạ thị
giác - vận động và thính giác - vận động.
Tạ Thuý Lan và cs (2001) [34] nghiên cứu thời gian phản xạ thị giác - vận động và
thời gian phản xạ thính giác - vận động của học sinh, sinh viên từ 15 đến 21 tuổi. Ket quả
nghiên cứu cho thấy, thời gian phản xạ thị giác - vận động và thính giác vận động giảm dần
theo lóp tuổi.
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Loan [40] thì thời gian phản xạ cảm giác -
vận động của nam và nữ học sinh biến động theo thời gian, giảm dần tù’ 6 đến 14 tuổi, từ
15 đến 17 tuổi tương đối ổn định.
Tóm lại, có rất nhiều tác giả đã nghiên cứu về thể lực, chức năng tuần hoàn máu, chức
năng thông khí phối, thời gian phản xạ cảm giác - vận động của người Việt Nam và đã thu
được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, các nghiên cứu vê thê lực thường tập trung
vàõ các chỉ sỏ Cỡ bảiĩ Ĩĩhư chiêu Câõ đứng, cân nặng, vòng ngực trung bình; còn chiều
cao ngồi và kích thước các bộ phận của cơ thế như vòng đầu, vòng eo, vòng mông còn ít
được nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về chức năng tuần hoàn máu, chức năng thông
khí phổi, thời gian phản xạ cảm giác - vận động ở học sinh tiểu học cũng chưa nhiều.
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1. Đối tương nghiên cửu
Đối tượng nghiên cún là học sinh từ lóp 1 đến lớp 5, có lóp tuối từ 7 đến 11 thuộc
trường Tiểu học Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc năm học 2009 - 2010. Các đối tượng
nghiên cứu có sức khỏe tốt, trạng thái tâm sinh lý bình thường, tuổi của các đối tượng được
tính theo quy ước chung của tổ chức Y tế thế giới (theo [14]).
Tổng số đối tượng được nghiên cứu là 706 học sinh, trong đó có 337 học sinh nam
và 369 học sinh nữ. Phân bố các đối tượng nghiên cún theo tuổi và giới tính được thể hiện
qua bảng 2.1.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Các chỉ số được nghiên cứu
- Các chỉ số về hình thái thể lực: chiều cao đứng, chiều cao ngồi, cân nặng, vòng ngực trung
bình, vòng đầu, vòng eo, vòng mông, chỉ số pignet, BMI.
Bảng 2.1. Sự phân bố các đối tượng nghiên cún
Lớp Tuổi Chung
Tổng
Nam Nữ
1 7
187
87 100
2 8
136
68 68
3 9
136
70
66
4
10 141
64 77
5
11
106
48
58
Tổng 706 337 369
- Các chỉ số chức năng tuần hoàn máu: tần số tim, huyết áp động mạch.
- Các chỉ số chức năng thông khí phổi: dung tích sống, dung tích sống thở mạnh, thể tích khí
thở ra tối đa trong giây đầu.
- Thời gian phản xạ cảm giác - vận động: thời gian phản xạ thính giác - vận động, thòi gian
phản xạ thị giác - vận động.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số
2.2.2.1. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số hình thái thể lực
- Chiều cao đứng được đo bằng thước đo có vạch chia độ chính xác đến 0,1 cm do Trung tâm
thiết bị trường học - Bộ Giáo dục và Đào tạo sản xuất. Học sinh đứng thẳng trên nền phang,
hai gót chân sát vào nhau, mắt nhìn thắng, đồng thời đảm bảo chấm, lưng, mông, gót chạm
vào thước đo.
- Chiều cao ngồi được đo từ mặt ghế ngồi đến đỉnh đầu, bằng thước đo có độ chính xác đến
0,1 cm do Trung tâm thiết bị trường học - Bộ Giáo dục và Đào tạo sản xuất. Người đo ngồi
ngay ngắn trên ghế phang, lưng thẳng đảm bảo hai vai, mông và vụ chẩm nằm trên một mặt
phang.
- Cân nặng được xác định bằng cân đồng hồ, có độ chính xác đến 0,1 kg. Khi đo, đối tượng
chỉ mặc quần áo mỏng, không mang giày dép; đứng yên ở vị trí giữa bàn cân, hai bàn chân
sát nhau.
- Vòng ngực trung bình được đo ở tư thế đứng thắng, đo bằng thước dây quấn quanh ngực
qua mũi ức, dưới núm vú sao cho mặt phang của thước dây tạo ra song song với mặt đất.
Thước dây không co dãn, có vạch chia độ chính xác đên 0,1 cm.
- Vòng đầu được xác định bằng cách vòng thước dây quanh đầu, phía trước dây nằm trên
cung lông mày, phía sau qua ụ chẩm đế lấy kích thước tối đa. Thước dây không co dãn và
có vạch chia độ chính xác đến 0,1 cm.
- Vòng mông được đo bằng thước vải, đo ở tư thế đứng thẳng, vòng dây qua mông song song
với mặt đất, đo ở vị trí lớn nhất của mông. Thước dây không co dãn và có vạch chia độ
chính xác đến 0,1 cm.
- Vòng eo được đo bằng thước vải không giãn của Trung Quốc, đo ở tư thế đứng thẳng, vòng
thước dây qua bụng ở vị trí giữa mào xương chậu và xương sườn thấp nhất vuông góc với
cột sống, bụng để bình thường không hóp hoặc không hít căng.
- Chỉ số Pinet được tính theo công thức:
Pignet = chiều cao đứng (cm) - [cân nặng (kg) + vòng ngực trung bình (cm)] Đánh giá thể
lực theo thang phân loại của Nguyễn Quang Quyền và cs [55], [56].
Bảng 2.2. Phân loại chỉ số pignet
- BMĨ được tính theo công thức:
BMI = Cân nặng (kg) / [Chiều cao đứng (m)]2 Căn cứ vào BMI, tuối và giới
tính của trẻ em, xác định điếm tương ứng trên biểu đồ BMI riêng cho nam và nữ từ 2 đến
20 tuổi của Trung tâm quốc gia phòng bệnh mạn tính và tăng cường sức khỏe (National
Center for Chronic Disease Prevention and Health Promotion), gọi tat là CDC, của Mỹ đế
so sánh và đánh giá mức độ gầy béo của cơ thể (phụ lục 1 và 2).
STT Chỉ số pignet Phân loại
1 0 - 20,8 Cường tráng
2 20,9 - 24,1 Rất khoẻ
3 24,2 - 27,4 Khoẻ
4 27,5 - 33,9 Trung bình
5 34 - 37,2 Yếu
6 37,3 - 40,5 Rất yếu
7 >40,6 Yeu kém.
2.2.2.I. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số chức năng tuần hoàn máu
- Tần số tim được xác định bằng ống nghe. Đối tượng ngồi ở tư thế thoải mái. Người đo đặt
ống nghe vào ngực trái của đối tượng, giữa xương sườn thứ 5 và 6, đếm nhịp tim trong 1
phút, đo ba lần, lấy giá trị trung bình. Nếu 3 lần đo khác nhau nhiều, cho đối tượng nghỉ
1 5 - 2 0 phút rồi đo lại.
- Huyết áp động mạch được xác định bằng phương pháp của Korotkov, dụng cụ đo là huyết
áp kế đồng hồ. Đối tượng nằm thoải mái, đặt cánh tay trái ngang tim. Người đo quấn bao
cao su của huyết áp kế quanh cánh tay đối tượng, chặt vừa phải, đặt ống nghe trên động
mạch cánh tay ngay sát bên dưới bao cao su để nghe mạch đập và đặt đồng hồ của huyết áp
kế trước mặt. Vặn chặt ốc ở bóp cao su rồi từ từ bơm cho đến khi đồng hồ chỉ vào 150 -
160 mmHg. Sau đó mở nhẹ ốc cho hơi thoát ra từ từ, đồng thời lắng nghe. Trị số trên đồng
hồ lúc nghe tiếng đập đầu tiên là chỉ số huyết áp tâm thu và tiếng cuối cùng là chỉ số huyết
áp tâm trương. Đo ba lần và lấy trị số trung bình của ba lần đo.
2.2.2.3. Phương pháp nghiên cún các chỉ số chức năng thông khí phổi
Các chỉ sô hô hâp được nghiên cứu gôm dung tích sông (VC), dung tích sống thở
mạnh (FVC) và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (FVCi).
Dụng cụ đo là phế dung kế do Italy chế tạo được đưa về điều kiện tiêu chuẩn. Đối
tượng được đo ở tư thế đứng hít vào tận lực, sau đó kẹp mũi và ngậm miệng vào ống thổi,
thở ra bằng miệng hết sức để toàn bộ khí đi vào máy đo. Mỗi đối tượng được đo 3 lần, lấy
kết quả có trị số cao nhất.
Bảng 2.3. Phân loại BMI
STT BMI Phân loại
1 < bách phân vị thứ 5 Suy dinh dưỡng
2 Từ bách phân vị thứ 5-85 Bình thường
3 Từ bách phân vị thứ 85 - 95 Nguy cơ béo phì
4 > bách phân vị thứ 95 Béo phì
Số liệu về thông số khí của phổi được chia theo lóp tuổi, sau đó xử lý thống kê trên
máy tính với chương trình SPSS để tìm ra phương trình hồi quy.
2.2.2.4. Phương pháp nghiên cứu thời gian phản xạ cảm giác - vận động
Được đo bằng máy vi tính với phần mềm đồ họa Senue của Đỗ Công
Huỳnh và cs.
Phương pháp đo thời gian phản xạ thị giác - vận động: Học sinh ngồi thoải mái trước
màn hình vi tính, đặt ngón tay thuận lên phím Enter của bàn phím. Mắt nhìn lên màn hình.
Khi thấy trên màn hình xuất hiện hệ thống đèn đỏ (đèn báo hiệu) sáng lên thì dùng ngón tay
đặt sẵn ấn xuống phím enter với tốc độ nhanh nhất để tắt đèn. Thao tác này được lặp lại 5
lần theo thứ tự đã được lập trình trên máy.
Phương pháp đo thời gian phản xạ thính giác — vận động', được thực hiện ngay sau
khi đo thời gian phản xạ thị giác - vận động, các thao tác tương tự như trên, nhưng chỉ khác
là thấy tín hiệu đèn đỏ bằng tiếng kêu “tít” trên máy vi tĩnh. Các kết quả của hai thực
nghiệm trên được tính riêng cho mỗi lần đo và trung bình của cả 5 lần cho mỗi thực
nghiệm.
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý theo toán xác suất thống kê dùng trong y, sinh học [23], [50].
Việc tính toán số liệu được thực hiện trên máy vi tính bằng phần mềm Microsoft Excel
2003. Các số liệu được nhập đầy đủ sẽ được máy tính xử lý để tính: giá trị trung bình (X ),
độ lệch chuẩn (SD).
- Tính giá trị trung bình:
n
Trong đó: X - Giá trị trung bình; Xi - Giá trị thứ i của đại lượng X; n - Số cá thể ở
mẫu nghiên cứu.
- Tính độ lệch chuẩn theo công thức:
(n > 30)
n
Trong đó: SD - Độ lệch chuẩn; n - số mẫu nghiên cứu; Xi - X - Độ lệch tiêu chuẩn của
từng giá trị so với giá trị trung bình.
- Hệ số tương quan Pearson (r) được tính bằng chương trình Tools Data Analysis -
Regression theo công thức:
Trong đó: Xj - Từng giá trị của đại lượng X; Yj - Từng giá trị của đại lượng Y; n - Số
mẫu có trong công thức; r - Hệ số tương quan giữa hai đại lượng X và Y.
- Số liệu về thông số khí của phổi được chia theo lóp tuổi, sau đó xử lý thống kê trên máy
tính để tìm ra phương trình hồi quy.
Sự sai khác của hai giá trị trung bình của hai mẫu nghiên cứu khác nhau được kiểm
định bằng hàm “T - test” theo phương pháp Student - Fisher.
Ket quả nghiên cứu được so sánh với số liệu trong quyển “Hằng số sinh học của
người Việt Nam” và các kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây của các tác giả khác.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN cứu
3.1. Các chỉ số hình thái - thể lực của học sinh
• t
3.1.1. Chiều cao đứng của học sinh
Bảng 3.1. Chiều cao đứng của học sinh theo tuổi và giới tính
Số liệu trên bảng 3.1 cho thấy, chiều cao đứng của học sinh nam tăng tò 114,95 ±
4,95 cm lúc 7 tuổi lên 133,89 ± 4,69 cm lúc 11 tuổi, tăng thêm
18,94 cm, tăng trung bình 4,74 cm/năm. Ở giai đoạn từ 8 đến 10 tuổi, mức tăng
chiều cao đúng của học sinh nam thấp hơn so với mức tăng ở giai đoạn từ 7 đến 8
tuổi và từ 10 đến 11 tuổi. Chiều cao đứng của học sinh nữ lúc 7 tuổi là 114,38 ± 4,90
cm và lúc 11 tuổi là 134,22 ± 4,76 cm. Từ 7 đến 11 tuổi, chiều cao đứng của học sinh
nữ tăng thêm 19,84 cm, tăng trung bình 4,96 cm/năm. Chiều cao đứng của học sinh
nữ tăng nhanh nhất ở giai đoạn tù’ 9 đến 10 tuổi (tăng 5,24 cm) và tăng chậm nhất ở
giai đoạn tù’ 8 đến 9 tuổi (tăng 4,41 cm).
Tuổi Chiều cao đứng (cm) x , - x
2
p(l-
2)
Nam (1) Nữ (2)
n X ± S Đ Tă
ng
n ~ x ± SD Tă
ng
7 8
7
114,95 ±4,95
1
0
0
114,38 + 4,90 0,57 >0,0
5
8 6
8
119,90 +
4,46
4,9
5
6
8
119,49 + 4,97 5,1
1
0,41 >0,0
5
9 7
0
124,24 +
4,90
4,3
4
6
6
123,9 ± 5,71
4,4
1
0,34 >0,0
5
10 6
4
128,91 ±4,92 4,6
7
7
7
129,14 + 4,90 5,2
4
-0,23 >0,0
5
11 4
8
133,89 +
4,69
4,9
8
5
8
134,22 + 4,76 5,0
8
-0,33 >0,0
5
Chun
g
3
3
7
123,23
±8,15
3
6
9
123,22 ±
8,70
0,01 >0,0
5
Tăng trung bình 4,7
4
4,9
6
Như vậy, từ 7 đến 11 tuổi, chiều cao đứng của học sinh tăng dần. Mỗi năm, chiều
cao đứng của học sinh nam tăng trung bình 4,74 cm/năm và của học sinh nữ tăng trung
bình 4,96 cm/năm. Điều này cho thấy, từ 7 đến 11 tuổi, tốc độ tăng chiều cao đứng của học
sinh nữ nhanh hơn so với tốc độ tăng chiều cao đứng của học sinh nam.
Tốc độ tăng chiều cao đứng của học sinh nam đồng đều hơn so với của học sinh nữ.
Cụ thể, mức tăng chiều cao đứng của học sinh nam thấp nhất là 4,34 cm ở giai đoạn tù' 8 -
9 tuổi, và cao nhất là 4,98 cm ở giai đoạn từ 10 - 11 tuổi. Mức tăng chiều cao đứng của học
sinh nữ thấp nhất là 4,41 cm ở giai đoạn từ 8 - 9 tuổi và cao nhất là 5,24 cm ở giai đoạn từ
9 - 10 tuổi.
Ở cùng một độ tuổi, học sinh nam cao hơn học sinh nữ ở các lứa tuổi 7 tuổi, 8 và 9
tuổi, và thấp hon ở lứa tuổi 10 và 11 tuổi. Tuy nhiên, sự khác nhau về chiều cao đứng theo
giới tính không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Chiều cao đứng (cm)
135n
Hình 3.1. Chiều cao đứng của học sinh
11
5-
95
-
75
□ Nam
□ Nữ
r
Tu
1
1
Hình 3.2. Mức tăng chiều cao đứng của học sinh
3.1.2. Chiều cao ngồi của học sinh
Số liệu trên bảng 3.2 cho thấy, chiều cao ngồi của học sinh nam tăng từ 63,01 +
4,82 cm lúc 7 tuổi lên 71,34 + 4,64 cm lúc 11 tuổi, tăng thêm 8,33 cm, tăng trung bình
2,08 cm/năm. Ớ giai đoạn từ 8 đến 11 tuối, mức tăng chiều cao ngồi của học sinh nam
cao hơn so với ở giai đoạn từ 7 đến 8 tuổi. Chiều cao ngồi của học sinh nữ lúc 7 tuổi là
63,17 ±5,09 cm và lúc 11 tuổi là
71,75 ± 4,98 cm. Từ 7 đến 11 tuổi, chiều cao ngồi của học sinh nữ tăng thêm 8,58 cm,
tăng trung bình 2,15 cm/năm. Chiều cao ngồi của học sinh nữ tăng nhanh ở giai đoạn từ 8
đến 9 tuổi (tăng 5,96 cm) và ở giai đoạn từ 10 đến 11 tuổi (tăng 2,53 cm).
Như vậy, từ 7 - 11 tuổi, chiều cao ngồi của học sinh tăng liên tục. Tuy nhiên, tốc độ
tăng chiều cao ngồi của học sinh không đều. Chiều cao ngồi của học sinh nam tăng nhanh
ở giai đoạn từ 8 - 11 tuổi. Chiều cao ngồi của học sinh nữ tăng nhanh ở giai đoạn từ 8 đến
9 tuổi và giai đoạn từ 10 - 11 tuổi. Mỗi năm, chiều cao ngồi của học sinh nam tăng trung
bình 2,08 cm/năm, của
học sinh nữ tăng trung bình 2,15 cm/năm. Điều này cho thấy, tù' 7 - 11 tuối, tốc độ
tăng cân nặng của trẻ em nữ cao hơn của trẻ em nam, nhưng mức chênh lệch không
Mức tăng (cm)
nhiều.
Trong cùng một độ tuổi, chiều cao ngồi của học sinh nữ luôn cao hơn của học
sinh nam. Tuy nhiên, mức chênh lệch chiều cao ngồi giữa học sinh nam và học sinh
nữ không đáng kể (chênh lệch từ 0,16 - 0,78 cm). Sự khác biệt về chiều cao ngồi của
học sinh theo giới tính không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Bảng 3.2. Chiều cao ngồi của học sinh theo tuổi và giới tính
Chiều cao ngồi (cm)
Tuổi N am (1) Nữ (2) *1 - *2 p(l-
2)
n X ± S D Tă
ng
n x ± SD Tă
ng
7 8
7
63,01
±4,82
1
0
0
63,17 +
5,09
-0,16 >0,0
5
8 6
8
64,27 ±
4,78
1,2
6
6
8
64,43 ±
4,97
1,2
6
-0,16 >0,0
5
9 7
0
66,61
±4,90
2,3
4
6
6
67,39 ±
5,30
2,9
6
-0,78 >0,0
5
10 6
4
68,94 ±
4,92
2,3
3
7
7
69,22 +
5,01
1,8
3
-0,28 >0,0
5
11 4
8
71,34 +
4,64
2,4 5
8
71,75+4,98 2,5
3
-0,41 >0,0
5
Chun
g
3
3
7
66,32
±5,64
3
6
9
66,77 +
5,96
-0,45 >0,0
5
Tăng trung bình 2,0
8
2,1
5