Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tiểu luận môn học kinh tế vĩ mô CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH


Tiểu luận môn:
KINH TẾ VĨ MÔ

ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH HÓA
GVHD: PGS. TS. HẠ THỊ THIỀU DAO
HVTH: NGUYỄN HẠNH DUNG
DƯƠNG THÚY HẠNH
VÕ MINH THỊNH
NGUYỄN ANH KHOA
NGUYỄN ĐÌNH VĂN
NGUYỄN MẠNH HUY
LỚP : CH15A





Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 – 2014
2

MỤC LỤC
1. MỘT SỒ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 3
1.1. Mô hình cân bằng tổng cung – tổng cầu 3
1.2. Chính sách ổn định hóa 3
1.3. Các chính sách chủ yếu giúp ổn định kinh tế vĩ mô. 4
1.3.1. Chính sách tiền tệ 5


1.3.2. Chính sách tài khóa 5
1.3.3. Các chính sách khác 6
2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH HÓA TẠI VIỆT NAM 8
2.1. Chính sách tiền tệ 8
2.1.1. Các chính sách tiền tệ của NHNN làm dịch chuyển đường AD sang PHẢI 9
2.1.2. Các chính sách của NHNN làm dịch chuyển đường AD sang TRÁI 12
2.2. Chính sách tài khóa 13
2.2.1. Chính sách tài khóa tác động làm đường AD dịch chuyển sang TRÁI 14
2.2.2. Chính sách tài khóa tác động làm đường AD dịch chuyển sang PHẢI 14
2.2.3. Đánh giá thực trạng Chi tiêu Ngân sách đối với vấn đề bình ổn vĩ mô nền kinh tế 16
2.3. Ảnh hưởng của Chính sách vĩ mô đến lạm phát 18
2.4. Ảnh hưởng của chính sách vĩ mô đến tỷ lệ thất nghiệp 20
3. ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ THẾ GIỚI VỀ CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH HÓA
CỦA VIỆT NAM 25
3.1.1 Đánh giá của IMF 25
3.1.2 Đánh giá của WorldBank: 25
Tài liệu tham khảo 27









3

1. MỘT SỒ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Mô hình cân bằng tổng cung – tổng cầu


Hình 1 : Mô hình cân bằng tổng cung tổng cầu
Trong mô hình này, có đường Tổng Cầu (AD) trong nền kinh tế theo hàm sau:
AD = C + I + G + (X-M)
Trong đó, C : chi tiêu vào hàng hóa và dịch vụ của người tiêu dùng
I: Chi đầu tư
G: Chi tiêu chính phủ để cung cấp hàng hóa và dịch vụ
X: Xuất khẩu
M: Nhập khẩu
Đường Tổng Cung trong ngắn hạn (SRAS) thấy tổng sản lượng kế hoạch khi giá cả
trong nền kinh tế có thể thay đổi nhưng giá cả và năng suất của tất cả các yếu tố đầu vào như
mức lương tình trạng công nghệ được không thay đổi.
Đường tổng cung dài hạn (LRAS): LRAS cho thấy tổng sản lượng kế hoạch khi giá cả
và mức lương trung bình có thể thay đổi - đó là một biện pháp của sản lượng tiềm năng của
một quốc gia và các khái niệm có liên quan đến biên giới khả năng sản xuất.
1.2. Chính sách ổn định hóa
Những biến động trong nền kinh tế nói chung bắt nguồn từ những sự thay đổi trong
tổng cung – tổng cầu. Những nhà kinh tế học gọi những sự kiện bên ngoài làm thay đổi những
cú sốc đường cong đến nền kinh tế. Một cú sốc làm thay đổi đường cong tổng cầu được gọi là
một cú sốc về nguồn cầu “demand shock”, và một cú sốc làm thay đổi đường cong tổng cung
4

được gọi là một cú sốc về nguồn cung “supply shock”. Những cú sốc này phá vỡ nền kinh tế
bằng việc đẩy yếu tố đầu ra và việc làm ra xa mức tự nhiên của chúng. Mục tiêu của mô hình
tổng cung – tổng cầu là để chỉ ra những ảnh hưởng xấu gây ra những biến động nền kinh tế
như thế nào.
Một mục tiêu khác của mô hình là để đánh giá chính sách kinh tế vĩ mô có thể phản
ứng lại những ảnh hưởng xấu này như thế nào. Những nhà kinh tế học đã sử dụng thuật ngữ
Chính sách ổn định hóa (Stabilization policies ) để nói về những hành động từ các chính sách
nhằm làm giảm mức độ nghiêm trọng của những biến động của nền kinh tế trong ngắn hạn.

Bởi vì yếu tố đầu ra và việc làm biến động xung quanh những mức tự nhiên của chúng trong
dài hạn, Chính sách ổn định hóa làm giảm chu kỳ kinh doanh(ví dụ rút ngắn thời gian xảy ra
giai đoạn trì trệ) bằng cách giữ cho yếu tố đầu ra và việc làm có thể đạt gần với những mức tự
nhiên của chúng.
Khi nền kinh tế gặp phải các cú shock về tổng cung – tổng cầu làm ảnh hưởng đến sản
lượng cân bằng, lạm phát, thất nghiệp, thì Chính Phủ sẽ đưa ra các chính sách kinh tế vĩ mô
nhằm tạo sự ổn định lại cho tổng cung- tổng cầu, tùy thuộc vào mục tiêu mà Chính Phủ nhắm
đến từ đó giúp ổn định nền kinh tế.

1.3. Các chính sách chủ yếu giúp ổn định kinh tế vĩ mô.



Hình 2 : Thay đổi của sản lượng cân bằng khi AD tăng

Chính phủ có hai công cụ cơ bản có thể tác động lên tổng cung - cầu của nền kinh tế,
nhằm mục tiêu ổn định biến động của nền kinh tế : Chính sách tài khóa và Chính sách tiền
tệ.
5

1.3.1. Chính sách tiền tệ : chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân, hướng
nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn, tạo ra sự ổn định tiền tệ, ổn định
giá cả, ổn định tỷ giá hối đoái.
Khi cần kích thích kinh tế tăng trưởng, ngân hàng trung ương sẽ dùng chính sách tiền
tệ nới lỏng,làm tăng lượng tiền cung ứng, kích thích tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế. Ngược
lại, khi cần hạ nhiệt cho nền kinh tế, chống lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ dùng chính
sách tiền tệ thắt chặt, làm giảm lượng tiền cung ứng.
Chính sách tiền tệ nới lỏng, ngân hàng trung ương thực hiện bằng cách sử dụng công
cụ trung gian là tăng lượng cung tiền sẽ làm giảm lãi suất, khuyến khích các chủ doanh nhiệp
đẩu tư mở rộng sản xuất, dẫn đến tổng sản phẩm xã hội tăng. Mặt khác các thành phần dân cư

có tiền nhiều hơn sẽ tăng sức cầu tiêu thụ và hoạt động thương mại trên thị trường giúp giải
quyết hàng tồn kho tồn đọng, tạo điều kiện doanh nghiệp gia tăng đầu tư máy móc, thiết bị.
Điều này làm cho sức cầu về sản phẩm tiêu dung và sức cầu đầu tư đều tăng, làm cho tăng
tổng cầu nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm bớt mức cung tiền trong nền kinh tế, làm cho
lãi suất trên thị trường tăng lên. Thông qua đó, nó thu hẹp được tổng cầu, làm mức giá chung
giảm xuống. Để thực hiện chính sách này, ngân hàng trung ương sử dụng các biện pháp như:
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu, bán chứng khoán trên thị trường mở,
…Thông thường chính sách tiền tệ thắt chặt được áp dụng nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự
phát triển quá nóng của nền kinh tế, lạm phát có nguy cơ bùng nổ, từ đó giúp ổn định nền kinh
tế.
Như vậy, việc khi ngân hàng Trung ương thay đổi lượng cung tiền(thông thường là qua
các công cụ như lãi suất, hối đoái,dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, điều chỉnh cung tiền, các
nghiệp vụ của thị trường mở…) thì lãi suất sẽ tăng hoặc giảm , từ đó sẽ hạn chế hoặc khuyến
khích ngân hàng cho các doanh nghiệp vay tiền, gây tác động đến chi tiêu và tiêu đùng và rồi
tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế nói chung.

1.3.2. Chính sách tài khóa : nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính
phủ nhằm hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm như mong muốn.
Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu đó là chi tiêu của Chính phủ và thuế. Chính
sách tài khóa có thể được sử dụng để làm chậm đi tốc độ tăng trưởng kinh tế, ngăn chặn
nền kinh tế rơi tự do và tăng tốc độ phục hồi, bằng cách tác động đến tổng cầu của nền
kinh tế.
Chi tiêu của Chính Phủ: Chi tiêu chính phủ ngoài việc theo đuổi vì những chính sách
khác - chẳng hạn như cung cấp cho quốc phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tài trợ nghiên cứu
khoa học và nghệ thuật, và cung cấp một mạng lưới an toàn xã hội - nó cũng có thể được sử
dụng để giúp ổn định chu kỳ kinh doanh. Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, Chính phủ có thể
tăng chi tiêu để kích thích tổng cầu trong nền kinh tế. Nếu chính phủ mua hàng hóa và dịch vụ,
có nghĩa là các doanh nghiệp sẽ bán được hàng và sẽ tăng sản xuất. Nếu họ có để tăng sản
lượng, họ có thể thuê thêm nhân công, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Người

lao động sẽ có thêm thu nhập để mua hàng hóa và dịch vụ mang lại doanh thu nhiều hơn cho
các doanh nghiệp và việc làm cho người dân Ngược lại, giảm chi tiêu chính phủ sẽ làm
giảm tổng cầu và có thể được sử dụng để làm chậm sự tăng trưởng khi nền kinh tế đang bị
"quá nóng", nếu tăng trưởng quá nhanh trong thời gian dài có thể gây ra mức lạm phát cao.
6

Thuế : Về cơ chế tác dộng thì cũng tương tự như Chi tiêu của Chính Phủ, tăng hoặc
giảm mức thuế suất cũng có thể có ảnh hưởng đến tổng cầu. Từ đó có tác dụng kích thích kinh
tế phát triển hay kiềm hãm bớt sự tăng trưởng quá nhanh. Nếu bạn nhận được một cắt giảm
thuế suất của bạn, điều đó có nghĩa là có nhiều tiền hơn trong túi của bạn để chi tiêu hay tiết
kiệm. Nếu bạn chi tiêu nó, bạn tăng nhu cầu trong nền kinh tế. Nếu bạn không chi tiêu,thì bạn
thường sẽ đổ tiền vào một tài khoản ngân hàng và các ngân hàng sẽ cho vay tiền ra để những
người vay tiền sẽ dùng số tiền đó đầu tư hoặc tiêu dùng ra nền kinh tế. Ngoài ra, nhận thức về
cắt giảm thuế là dài hạn hay ngắn hạn có thể có ảnh hưởng quan trọng đến chi tiêu. Nếu cắt
giảm thuế được xem là giảm dài hạn, người ta có xu hướng nhìn thấy sự gia tăng tài sản của họ
và sẽ chi tiêu nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu mọi người nghĩ rằng việc cắt giảm chỉ là tạm thời, họ
sẽ thận trọng trong việc gia tăng chi tiêu của mình. Cuối cùng, tăng thuế suất sẽ làm giảm tổng
cầu và làm chậm tăng trưởng kinh tế vì có ít tiền trong túi của người tiêu dùng.
=> Trong ngắn hạn, chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát
phù hợp với các mục tiêu ổn định nền kinh tế. Về mặt dài hạn chính sách tài khoá có thể có tác
dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
Đây là một trong chính sách quan trọng nhất vì nó không chỉ tác động đến tổng cung
và tổng cầu của nền kinh tế mà còn có ý nghĩa dẫn dắt, định hướng thị trường. Chính sách tài
khóa thường rất linh hoạt để điều chỉnh kịp thời các mục tiêu kinh tế vĩ mô vì chính phủ có thể
tác động trực tiếp đến tổng cầu thông qua Chi tiêu của Chính Phủ.
1.3.3. Các chính sách khác
- Chính sách thu nhập : Chính sách thu nhập gồm các biện pháp mà Chính phủ sử dụng
nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát. Chính sách này sử dụng
nhiều công cụ, từ những công cụ có tính chất cứng rắn như ấn định mức tiền công và giá cả
đến những công cụ mềm dẻo như là những hướng dẫn, kích thích bằng thuế thu nhập.

- Chính sách kinh tế đối ngoại : Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nước có thị
trường mở nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể
chấp nhận được. Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng,
các quy định về hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính tiền tệ
khác, có tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu.

7


Hình 3 : Sơ đồ của P.A SAMUELSON
Nguồn : TS. TRẦN DU LỊCH,





















8

2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ỔN ĐỊNH HÓA TẠI VIỆT NAM
2.1. Chính sách tiền tệ


Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng và làm phát của Việt Nam qua các năm - Nguồn:
Worldbank
Tổng quát
Năm 1997, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Chính sách tiền tệ và chính sách
tài khóa đã được sử dụng để khôi phục đà tăng trưởng kinh tế, hạn chế tình trạng giảm phát
thông qua chính sách kích cầu kéo dài từ năm 1997 đến 2003. Kết quả là Việt Nam đạt được
mức tăng trưởng ở mức cao (6.8%, 6.2%, 6.3%, 6.9%, 7.5% của các năm 2000, 2001, 2002 và
2007 tương ứng) kèm theo tỷ lệ lạm phát có lúc ở mức cao vào năm 2004 đến năm 2007.
Lạm phát bắt đầu tăng trưởng mạnh năm 2008 ở mức 22,7% và GDP thì lại giảm
xuống 5,8%, bắt đầu một giai đoạn kinh tế khó khăn. Chính phủ dùng những chính sách để
kiềm chế lạm phát phi mã năm 2008, và năm 2009 ghi nhận lạm phát ở mức 6.2%. Nhưng để
kích thích tăng trưởng kinh tế, Chính phủ dùng gói kích cầu nhưng kết quả không như mong
đợi: GDP tăng trưởng ít trong khi đó lạm phát tăng trưởng bằng hai con số ở mức 12,1% và
năm 2012 ghi nhận sụt giảm 1%GDP (so với năm 2011) và lạm phát giảm gấp 2 lần (so với
-5.00
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tốc độ tăng trưởng và lạm phát

%AD
(GDP)
Lam
phat
9

năm 2011). Năm 2013, tăng trưởng GDP gần bằnng mức tăng trưởng lạm phát sau những
chính sách linh hoạt của Chính phủ .
2.1.1. Các chính sách tiền tệ của NHNN làm dịch chuyển đường AD sang PHẢI

Hinh 4 : Sự dịch chuyển của AD sang phía phải
Bắt đầu từ năm 2000
, NHNN thực hiện một loạt CSTT nới lỏng với mục tiêu tăng
trưởng kinh tế làm đường AD dịch chuyển sang AD1, góp phần tăng trưởng GDP tăng ở mức
gần 7%/năm:
Tháng 8/2000: cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đồng VNĐ được chuyển từ cơ
chế trần lãi suất sang lãi suất cơ bản. Chính sách về thị trường mở (OMO) đã góp phần điều
chỉnh vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng.
Năm 2001: lãi suất từng bước được điều hành theo hướng tự do hóa và phù hợp với
mục tiêu CSTT. NHNN đã tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lên 15% và giảm tỉ lệ dự trữ
bắt buộc bằng VND xuống 3%, tháng 11/2001 giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn 10%
Từ nửa cuối năm 2008, NHNN lại dùng CSTT nới lỏng lại hướng vào việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhằm đối phó với suy thoái kinh tế trong nước và khủng hoảng kinh tế thế giới
thông qua một loạt các công cụ:
(i)

Triển khai thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất mà thực chất là mở rộng cung tiền;
10

(ii)


Hạ lãi suất cơ bản từ 14% xuống 8,5% và cặp lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn
xuống 7,5% và 9,5%;
(iii)

Giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền đồng xuống còn 5%;
(iv)

Thực hiện thanh toán trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN. Nghiệp vụ thị
trường mở chủ yếu là mua giấy tờ có giá để cung ứng thêm tiền;
(v)

Duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong gần suốt năm 2009, tăng lên 8% vào
tháng 11/2009. Kết quả là tốc độ tăng trưởng tín dụng lên tới mức kỷ lục gần
40% vào năm 2009 và lạm phát tạm thời ở mức 6,2% - tỷ lệ cao nhất trong khu
vực vào thời gian đó.
Năm 2010, Chính Phủ ban hành Nghị quyết số 18/NQ-CP 4/2010 xác định cả hai mục
tiêu cho năm 2010: kiềm chế mức lạm phát khoảng 7% (tương tự như 2009) và theo đuổi mục
tiêu tăng trưởng khoảng 6,5%, nhằm tăng trưởng GDP. Trong thực tế, khoảng nửa đầu năm
2010, CSTT tuân thủ định hướng hạn chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng (mục tiêu tăng
trưởng dư nợ tín dụng là 25% và M2 là 20%), kiểm soát rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng
và cơ cấu dư nợ. Bên cạnh đó, NHNN xem xét lại và nâng cao tỷ lệ đảm bảo an toàn trong
hoạt động tín dụng theo Thông tư 13 và Thông tư 19/2010/NHNN quy định về các tỷ lệ đảm
bảo an toàn trong hoạt động của các Tổ chức Tín dụng đã thể hiện một động thái tích cực của
NHNN nhằm hạn chế việc cung ứng tín dụng quá năng lực dự phòng rủi ro và đảm bảo an
toàn của từng ngân hàng và cả hệ thống. Với cố gắng này, NHNN có kỳ vọng vốn tín dụng sẽ
tới được với những đối tượng sử dụng vốn có hiệu quả và bằng cách đó, kiểm soát được lạm
phát mà vẫn duy trì được mức độ tăng trưởng. Cho đến nửa đầu năm 2010, tốc độ tăng trưởng
dư nợ tín dung chỉ có hơn 10% và bị chỉ trích là CSTT quá chặt chẽ, kiềm chế tăng trưởng.
CSTT bị đặt trong tình thế lựa chọn: tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thận trọng từ đầu năm

(lựa chọn này thích ứng với yêu cầu kiểm soát lạm phát, giúp kiểm soát được trạng thái thanh
khoản của hệ thống) và chấp nhận lãi suất tăng lên hay quay lại duy trì tốc độ tăng trưởng, nới
rộng tín dụng, hạ lãi suất và rơi vào vòng xoáy của rủi ro thanh khoản. Trong thực tế CSTT đã
rơi vào điểm bẫy vĩ mô khi vừa chống đỡ tình trạng thiếu vốn vừa phải khống chế lãi suất huy
động vốn nhằm giảm lãi suất cho vay vì mục tiêu tăng trưởng và chia sẻ khó khăn với doanh
nghiệp. Với các giải pháp nới rộng cung tiền, chỉ trong 6 tháng cuối năm, dư nợ tín dụng đã
tăng tới 18% và đưa tổng mức dư nợ tín dụng tăng tới gần 28% so với năm 2009 (vượt 12% so
với cam kết).
11





Biểu đồ 2 : Tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện tiện thanh toán từ năm 2000-2011
Nguồn : Trích từ tài liệu Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ở Việt Nam-
PGS.,TS. Tô Kim Ngọc và PGS.,TS. Lê Thị Tuấn Nghĩa Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt
Nam


Biểu đồ 3 : Tăng trưởng GDP và M2 của Việt Nam qua các năm 2000-1013
Nguồn: Worldbank
Năm 2012, Chính phủ chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát sang thúc đẩy kinh tế nên
NHNN sử dụng CSTT như sau:
(i) Đưa mức trần lãi suất xuống 11% từ 25/5/2012, liên tiếp hạ lãi suất chỉ đạo, áp trần lãi
suất 15%/năm rồi giảm xuống 14%/năm cho 4 khu vực ưu tiên: nông nghiệp, nông
0
20
40
60

80
100
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
T¨ng tr-ëng M2 T¨ng tr-ëng tÝn dông
0
50,000,000,000
100,000,000,000
150,000,000,000
200,000,000,000
250,000,000,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
M2 và GDP
GDP M2
12

thôn; doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ.
(ii) Cơ cấu lại nợ (thời hạn trả nợ, lãi suất, cho vay mới trả nợ cũ, ) và các giải pháp khác
cần thiết, phù hợp với từng loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo điều kiện

thuận lợi cho doanh nghiệp vay được vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc quy
định nới rộng tín dụng cho khu vực bất động sản với mục đích thúc đẩy sản xuất
các ngành vật liệu xây dựng và giải phóng các khoản nợ đọng của ngân hàng trong
tài sản đảm bảo là bất động sản.
2.1.2. Các chính sách của NHNN làm dịch chuyển đường AD sang TRÁI


Hình 5 : AD dịch chuyển sang phía trái
Từ đầu năm 2008, NHNN đã sử dụng tất cả các công cụ CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm
chế lạm phát ở mức 22,5%:
(i) Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả
các kỳ hạn;
(ii) Phát hành bắt buộc 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN và quy định các tín phiếu
NHNN không được sử dụng để vay tái cấp vốn tại NHNN;
(iii) Lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12 rồi 14%. Hệ thống lãi suất điều hành
gồm cặp lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng lên 15% và 13%;
(iv) Khống chế hạn mức tín dụng và yêu cầu kiểm soát chặt những lĩnh vực cho vay có
rủi ro cao, đặc biệt cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản Ðến
tháng 5/2008 tổng phương tiện thanh toán tăng 3,73% so với cuối năm 2007, thấp
hơn so với mức tăng 17,57% của cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng
tăng 18,42%, tuy cao so với tốc độ tăng 13,36% của cùng kỳ năm trước, nhưng có
xu hướng giảm dần (tháng 1/2008 là 6,3%, tháng 2/2008 là 2,35%, tháng 3/2008 là
3,78%, tháng 4/2008 là 3,36% và tháng 5/2008 là 2,25%). So với năm 2007, tốc độ
13

tăng M2 cả năm 2008 là 19,5%; dư nợ tín dụng tăng 25,4% thấp hơn nhiều so với
năm 2007 với 39% và 56% tương ứng.
Năm 2011, lạm phát lại ghi nhận sự tăng trưởng phi mã gần mức năm 2008, nên Chính phủ
tuyên bố mục tiêu vĩ mô với cam kết kiểm soát lạm phát theo nghị quyết 11/NQ-CP/2011.
CSTT lại một lần nữa quay lại thực hiện thắt chặt gồm dư nợ tín dụng tăng trưởng dưới 16%,

M2 tăng dưới 20%. NHNN đã triển khai các chính sách cụ thể nhằm đạt mục tiêu này, gồm:
(i) Yêu cầu các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với mục tiêu
tăng trưởng tín dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản xuất
kinh doanh, giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng
dư nợ xuống mức 22% đến 30/06/2011 và 16% đến 31/12/2011;
(ii) Lãi suất chiết khấu tăng từ 7%/năm lên 12->13%/năm, lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 10->11->12->13-
>14->15->16%/năm;
(iii) Nghiệp vụ thị trường mở thực hiện nghiệp vụ hút tiền ròng trong phần lớn thời gian
của năm 2011 (tính đến cuối tháng 6/2011, mức cung ròng qua OMO là không
đáng kể: hơn 13.000 tỷ đồng và tính đến cuối năm 2011 lượng hút ròng 111.365 tỷ
đồng
4

(iv) Tuân thủ nghiêm ngặt giới hạn tín dụng trong toàn hệ thống ngân hàng với các chế
tài xử phạt nghiêm khắc của nội bộ từng ngân hàng;
(v) Xây dựng và triển khai chiến lược cấu trúc lại hệ thống ngân hàng từng bước nhằm
nâng cao tính hiệu quả, giảm mức độ rủi ro và cải thiện sức mạnh cạnh tranh của hệ
thống ngân hàng. Chủ trương này cũng nhằm giải quyết tận gốc căn nguyên của
tình trạng mặt bằng lãi suất cao hiện nay (về phía ngân hàng);
(vi) Triển khai đồng bộ các giải pháp đối với thị trường ngoại tệ, thị trường vàng nhằm
mục tiêu giảm sự di chuyển vốn lòng vòng giữa tài sản được coi như tiền (money
likes) - một trong các yếu tố gây áp lực lên lãi suất nội tệ, triệt tiêu tác động của
CSTT. Kết quả là mức tăng M2 và tín dụng của cả năm 2011 đạt dưới 10% và trên
12% (số liệu ước tính theo công bố của NHNN đầu năm 2012), thấp hơn nhiều so
với mức tăng trung bình của các năm trước (Biểu đồ 2)
2.2. Chính sách tài khóa
Tình hình tổng quát
Trong nhiều năm trở lại đây, tổng đầu tư xã hội luôn được giữ ở mức rất cao - trên
40% GDP. Nếu xem xét từ góc độ quản lý vĩ mô vấn đề vận hành chính sách tài khóa hợp lý,

linh hoạt là vô cùng quan trọng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Việc đầu tư công sai mục
đích, thất thoát, dàn trải và kém hiệu quả cùng với việc tín dụng được đổ vào đầu cơ bất động
sản và chứng khoán hay cho một số doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả vừa làm tiêu hủy
nguồn lực của đất nước, vừa làm nền kinh tế trở nên bong bóng, nhiều rủi ro. Vì vậy, rõ ràng
Việt Nam cần cắt giảm mạnh đầu tư công, nhưng trên thực tế lại thiếu những cơ chế để phân
biệt những dự án thực sự cần thiết và những dự án xuất phát từ động cơ cá nhân của một vài
địa phương hay nhóm lợi ích, ngay cả khi những dự án này không hiệu quả. Như vậy trong
những năm gần đây, chính sách tài khóa có nhiều điều chỉnh nhằm ổn định các biến số vĩ mô
14

nên kinh tế, tuy nhiên nhìn chung được điều hành theo hướng mở rộng, thể hiện qua sự gia
tăng của chi tiêu NSNN.

Biểu đồ 4: Cơ cấu chi NSNN và tỷ trọng chi so với GDP thực tế
Nguồn: Số liệu ngân sách, Bộ Tài chính; CPI theo số liệu Tổng cục Thống kê
2.2.1. Chính sách tài khóa tác động làm đường AD dịch chuyển sang TRÁI
Năm 2008, nền kinh tế xảy ra nhiều bất ổn gây ra nhiều rủi ro cho người tiêu dùng,
doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Chính sách tài khóa mở rộng và tiền tệ nới lỏng trong một
thời gian dài là nguyên nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam. Vì vậy, cùng với CSTT, chính
sách cắt giảm chi tiêu công cũng được đặt ra thông qua chủ trương rà soát, sắp xếp giảm chi
đầu tư các dự án chưa thực sự cấp bách, các dự án có khả năng hoàn thành và đưa vào sử dụng
trong năm 2008, thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên. Số các dự án, công trình đầu
tư bị bị dừng lại hoặc giãn tiến độ khoảng hơn 3000 dự án với tổng số vốn là 37.000 tỷ đồng,
tập trung phân bổ cho các dự án cấp thiết có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm
2008. Chính phủ cũng đã giảm 25% kế hoạch vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ, riêng
trái phiếu giáo dục điều chỉnh giảm 5,6% so với mức Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, các biện
pháp đề ra chưa thực sự hiệu quả. Thể hiện tổng chi tiêu Chính phủ thực hiện trong năm 2008
vẫn vượt 19% so với dự toán, tăng hơn 22% so với thực hiện năm 2007 và chiếm 31,75%
GDP. Chi đầu tư phát triển đã được cắt giảm đáng kể nhưng vẫn chiếm đến 7,9% GDP, vượt
dự toán 18% và tăng 5% so với năm 2007. Kết quả thâm hụt ngân sách nhà nước năm 2008

vẫn xấp xỉ 5% GDP. Ðến ngày 31/12/2008, nợ công chiếm 42% GDP, dư nợ ngoài nước
của quốc gia bằng 27,2% GDP.
2.2.2. Chính sách tài khóa tác động làm đường AD dịch chuyển sang PHẢI
Trong năm 2009, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, kinh tế trong nước đang đối
mặt với nhiều khó khăn và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi thị trường Việt Nam có độ mở cao nên
sau khi khủng hoảng nổ ra, thị trường xuất khẩu và đầu tư thế giới giảm sút đột ngột, nền kinh
tế Việt Nam đã lập tức rơi vào suy giảm, từ mức tăng trưởng trên 7% (năm 2008) xuống còn
3,1% vào quý I-2009.
Một trong những giải pháp chủ yếu là Chính sách tài khóa mở rộng, gồm các gói kích
cầu. Gói kích cầu thứ nhất đã được triển khai nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỉ đồng, gói
kích cầu thứ hai, với tổng nguồn vốn 8 tỉ USD, hỗ trợ lãi suất trong trung và dài hạn nhằm
15

kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất. Ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô và tạo việc làm, đây là hai
điều quan trọng nhất thể hiện khá rõ vai trò của Nhà nước thông qua các gói kích cầu. Việc
thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ các chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác
đã giúp nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng và tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009
đạt 5,3%, tỷ lệ lạm phát đã giảm còn 6,88% (từ 23% năm 2008), thị trường chứng khoán và
các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng được phục hồi từng bước.
Năm 2010, nền kinh tế nước ta đã khắc phục được đà suy thoái nhưng vẫn tiềm ẩn
nhiều yếu tố gây bất ổn vĩ mô. Yếu tố bất ổn dễ nhận thấy nhất là nguy cơ lạm phát cao quay
trở lại do độ trễ của lượng cung tiền khá lớn được Nhà nước bơm vào thị trường trong các năm
2008 - 2009 để thực hiện các giải pháp phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tiếp đến là nguy cơ thâm
hụt cán cân thanh toán, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng nhập siêu.
Cùng với nguy cơ tái lạm phát cao, nếu tỷ lệ nhập siêu tiếp tục tăng cao trong năm nay sẽ dẫn
đến tình trạng lạm phát kép, tức là vừa lạm phát trong nước, vừa nhập khẩu lạm phát
Nếu như năm 2008, một số dự án bị ngừng hoặc dãn tiến độ và khu vực xây dựng cơ
bản không tăng so với 2007 thì đến năm 2010, giá trị sản xuất xây dựng tăng 23,1% so với
2009 - năm được đầu tư mạnh bởi các gói kích cầu, vốn đầu tư khu vực nhà nước tăng 10% so
với 2009. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 theo giá thực tế tăng 17,1% so với

năm 2009 và bằng 41,9% GDP, trong đó một tỷ lệ lớn nguồn vốn trái phiếu Chính phủ ứng
trước để bổ sung và đẩy nhanh tiến độ một số dự án hoàn thành trong năm 2010. Bội chi ngân
sách lên tới hơn 6% GDP, tỷ lệ nợ công là 56,6%

Biểu đồ 5 : Thu, chi và bội chi ngân sách Nhà nước 2001-2011 (%/GDP) -Nguồn:
Ủy ban giám sát tài chính quốc gia Bộ Tài chính

Giai đoạn từ 2011-2013, trong giai đoạn này, lần đầu tiên, tuyên bố mục tiêu vĩ mô và
cam kết thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát thể hiện sự nhất quán cao trong tư tưởng chỉ
đạo của Chính phủ theo Nghị quyết 11/NQ-CP/2011 tháng 2/2011. Theo đó, cả CSTT và
chính sách tài khóa đều được yêu cầu sử dụng triệt để các công cụ chính sách nhằm ưu tiên
kiềm chế lạm phát. Nguyên nhân có thể nhìn một phần ở thực trạng thực hiện chính sách tài
khóa thắt chặt năm 2011. Các giải pháp cắt giảm chi tiêu công được đưa ra khá quyết liệt:
Không kéo dài thời gian giải ngân, không ứng trước kế hoạch năm 2012 vốn ngân sách và trái
phiếu chính phủ, giảm 32% vốn trái phiếu chính phủ, giảm 10% tín dụng đầu tư của nhà nước.
Tuy nhiên, kết quả ròng của chủ trương giảm đầu tư công năm 2011 là rất ít, không đem lại
hiệu ứng mong muốn. Tuy vậy, mức thu ngân sách tăng 20% so với năm 2010 và bội chi giảm
nhẹ ở mức 4,9% thấp so với mức mục tiêu 5,3%.
0
10
20
30
40
Thu
24.6
25.9
27.1
24.9
26.3
21.5

26.6
Chi
32.6
27.1
27.5
28.4
31.9
28.4
31.4
Bội chi
4.9
5
6.6
5
6.9
6.2
4.9
B.quân 2001-
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
16


Biểu đồ 6: Cán cân ngân sách Việt Nam giai đoạn 2003 – 2012


Đơn vị: % so GDP
Nguồn: Số liệu báo cáo Bộ tài chính 2003-2012
Tuy nhiên, có một thực tế cần quan tâm là, ngay từ năm 2011, những dấu hiệu đình
đốn đã xuất hiện. Mặc dù NHNN khống chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín ở mức 20%, nhưng
mức tăng thực tế chỉ là 12%. Thậm chí, NHNN bắt đầu thể hiện dấu hiệu nới lỏng từ quý IV
năm 2011 nhưng nhu cầu tín dụng vẫn rất thấp, báo hiệu tình trạng đình đốn của khu vực sản
xuất, giảm nhu cầu tín dụng, chỉ số giá đã bắt đầu giảm từ tháng 8/2011.
Các đợt giảm và hoãn thuế cũng được sử dụng từ 2011, tiếp tục được sử dụng cho hỗ
trợ doanh nghiệp trong năm 2012 và 2013 với quy mô khoảng 29.000 tỷ đồng nhằm:
i/ Gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối
với một số doanh nghiệp;
ii/ Giảm tiền thuế đất, miễn thuế môn bài năm 2012. Tuy vậy, hiệu ứng hỗ trợ của
chính sách thuế sẽ rất khiêm tốn bởi: a/ Một số doanh nghiệp đang ở trong diện gia hạn nộp
thuế từ đợt gia hạn năm 2011, kỳ gia hạn này chỉ kéo dài hơn thời hạn chứ không tạo nên sự
hỗ trợ vật chất thực sự; b/ Một bộ phận doanh nghiệp không nhỏ đang trong giai đoạn cầm
cự và tồn tại. Với tỷ lệ tồn kho cho đến tháng 5/2012 khoảng 30 - 40% bình quân thì khả
năng có nguồn nộp thuế để hưởng chính sách giảm thuế là không khả thi trong một vài tháng
tới;
iii/ Gói hỗ trợ được dự tính ảnh hưởng khoảng 9% thu ngân sách sẽ gây áp lực lên
mức bội chi ngân sách vốn đã rất nặng nề có thể sẽ có những hệ lụy khác.
2.2.3. Đánh giá thực trạng Chi tiêu Ngân sách đối với vấn đề bình ổn vĩ mô nền
kinh tế
Như vậy, trong những năm gần đây, với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Việt
Nam đã và đang theo đuổi những Chính sách chi tiêu có định hướng. Phân tích về thực trạng
Ngân sách Việt Nam trong thời gian qua cũng đã chỉ ra một số vấn đề cần lưu ý, cụ thể là:
Thứ nhất, mặc dù thu NSNN liên tục tăng, nhưng chi luôn vượt thu, điều này dẫn tới
tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên và có mức độ ngày càng gia tăng. Thâm hụt ngân
sách (theo cách tính của Việt Nam) đã tăng từ mức trung bình là 4,9% GDP giai đoạn 2001 -
2005 lên 5,53% GDP giai đoạn 2006 - 2010. Giai đoạn 2011 - 2013 tuy có giảm so với giai
đoạn trước, song vẫn ở mức cao (trung bình 4,85% GDP). Việc kéo dài tình trạng này sẽ làm

giảm niềm tin vào chính sách và tiềm ẩn nhiều rủi ro kinh tế vĩ mô.
17


Biểu đồ 7 : Quy mô thu – chi NSNN và thâm hụt NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2003-2012
Nguồn: Theo báo cáo số liệu Bộ Tài Chính 2012
Thứ hai, Quy mô chi ngân sách quá cao, tới trên dưới 30% GDP (là mức cao so với thế
giới) quá sức chịu đựng của nền kinh tế; tỷ trọng chi đầu tư phát triển ở mức cao
6
, thể hiện
mức độ chi phối của chính phủ vào khu vực sản xuất và phần nào làm giảm hiệu quả và tính
cạnh tranh của khu vực, khả năng tạo ra nguồn thu cho ngân sách hạn chế.
Thứ ba, những năm gần đây, cán cân ngân sách thường xuyên của Việt Nam đang có
xu hướng giảm dần. Thể hiện qua tỷ trọng của cán cân ngân sách thường xuyên (không gồm
trả lãi vay) so với GDP thực tế đã giảm từ mức 8,18% GDP năm 2004 xuống còn 6,73%
GDP năm 2011, đặc biệt theo số ước thực hiện lần 2 của năm 2012 thì tỷ lệ này chỉ còn
2,37% GDP. Điều này báo hiệu mức tích lũy cho đầu tư phát triển của Chính phủ đang có xu
hướng giảm. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này do trong những năm gần đây, chi thường
xuyên đang có xu hướng tăng mạnh và vượt thu thường xuyên. Cán cân ngân sách thường
xuyên giảm dần là một điều đáng lưu ý trong thời gian tới khi nhìn nhận và đánh giá để đảm
bảo bền vững về ngân sách trong dài hạn. Việc chi thường xuyên nếu cứ tiếp tục lớn hơn
khoản thu từ thuế, phí sẽ ảnh hưởng tới tính bền vững ngân sách và tạo ra rủi ro rất lớn cho
ngân sách về dài hạn khi chúng ta bắt đầu phải vay để tiêu dùng thay vì chỉ vay để đầu tư. Khi
đó, việc sử dụng chính sách tài khóa sẽ mất tính hiệu quả và tác động tiêu cực ngược trở lại
đối với vấn đề bình ổn vĩ mô kinh tế.
Nhận xét, Có sự nhất quán trong điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm mục
tiêu duy trì đà tăng trưởng. Mặc dù mục tiêu ổn định lạm phát luôn được ghi nhận là mục tiêu
ưu tiên nhưng lựa chọn cuối cùng luôn là vấn đề tăng trưởng. Có thể nhìn thấy điều này cả
trong giai đoạn kiềm chế lạm phát năm 2008, giai đoạn kích cầu năm 2009 - 2010 và cả giai
đoạn tập trung ổn định vĩ mô năm 2011. Chúng ta có thể xem xét sự phối hợp giữa 2 chính

sách này thông qua bảng thống kê dưới đây.





18

Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
CSTK thắt
chặt
CSTK mở rộng
CSTK linh hoạt
CSTK thắt
chặt
CSTK thắt
chặt
CSTK thắt
chặt
CSTT thắt
chặt - mở
rộng
CSTT mở rộng
CSTT linh hoạt
CSTT thắt

chặt
CSTT thắt
chặt
CSTT thắt
chặt
Nhằm mục
tiêu kiềm chế
lạm phát
CSTT và TK lại
hướng vào việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh
tế nhằm đối phó với
suy thoái kinh tế
trong nước và khủng
hoảng kinh tế thế
giới từ nửa cuối
2008
Nhằm mục tiêu
kiềm chế mức lạm
phát khoảng 7%
(tương tự như 2009)
và theo đuổi mục
tiêu tăng trưởng
khoảng 6,5%
Nhằm mục
tiêu ưu tiên
kiềm chế
lạm phát
Nhằm mục
tiêu ưu tiên

kiềm chế
lạm phát
Nhằm mục
tiêu ưu tiên
kiềm chế
lạm phát
Bảng 1 : Thống kê phối hợp CSTT và CSTK ở Việt Nam từ 2008-2013
Tuy nhiên, việc phối hợp giữa CSTT và CSTK không một số vấn đề nhất định.
Chẳng hạn, CSTT và CSTK chưa có có sự phối hợp trong việc hoạch định và thực hiện
mục tiêu chính sách ở tầm ngắn hạn và dài hạn
Trong thời gian từ năm 2008 đến nay, cả chính sách tài khóa và CSTT đều được vận
dụng tối đa cho các yêu cầu ổn định vĩ mô, khôi phục hệ thống doanh nghiệp, đảm bảo an
sinh xã hội. Tuy vậy, các yêu cầu này được thực hiện một cách bị động khi vấn đề đã nảy
sinh và các chính sách được sử dụng để giảm nhẹ hậu quả. Vì thế, trong quá trình triển khai,
mỗi chính sách thường sử dụng công cụ riêng của mình và theo đuổi các mục tiêu chính sách
riêng. CSTT một mặt nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát nhưng vừa phải duy trì sự ổn định
của hệ thống ngân hàng, đôi khi các mục tiêu này lại mâu thuẫn với yêu cầu tăng trưởng
hoặc tháo gỡ khó khăn cho hệ thống doanh nghiệp. Chính sách tài khóa cũng vừa phải thực
hiện yêu cầu kiểm soát hoặc cắt giảm chi tiêu, vừa thực hiện chức năng hỗ trợ các doanh
nghiệp, tập đoàn nhà nước, đảm bảo an sinh xã hội. Vì thế mà rất khó thực hiện yêu cầu cắt
giảm chi tiêu cũng như yêu cầu đảm bảo phân bổ chi tiêu đúng đối tượng và có hiệu quả (bởi
các đối tượng tiếp nhận vốn ngân sách lại thường sử dụng không hiệu quả). Tình trạng này
dẫn tới mâu thuẫn và khó khăn trong việc phối hợp giữa hai chính sách ở Việt Nam.
2.3. Ảnh hưởng của Chính sách vĩ mô đến lạm phát
Trong giai đoạn 2006-2010, lạm phát (được đo bằng mức tăng chỉ số giá tiêu dùng
CPI) ở mức khá cao so với thời kỳ 2001-2005. Năm 2007, lạm phát trong năm 2007 đạt
mức kỷ lục trong vòng 12 năm (12,6%), gần gấp đôi năm 2006 và vượt xa chỉ tiêu Quốc
hội đề ra trong năm. Năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng tăng lên đến đỉnh điểm vào tháng 8
(tới 21,7% so với tháng 12/2007), sau đó đã giảm liên tục trong Quý IV do bắt đầu chịu ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, nhưng cả năm mức tăng chỉ

số giá tiêu dùng vẫn ở mức gần 20%. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 tăng 6,5%, gần bằng
mức tăng năm 2006. Sau đó chỉ số giá tiêu dùng tăng lên khá cao trong các tháng đầu năm
và cuối năm 2010, với mức tăng tháng 12/2010 so với tháng 12/2009 là 11,8%. Giá vàng
cũng biến động mạnh trong giai đoạn này, nhất là vào năm 2010, có thời điểm giá vàng trên
thị trường lên tới 38 triệu đồng/lượng từ mức 27 triệu đồng/lượng vào cuối năm 2009.

19

Chỉ tiêu

2005
2006
2007
2008
2009
2010
Chỉ số giá tiêu dùng

108,4

106,6

112,6

119,9

106,5

111,8


Hàng ăn và dịch vụ ăn
uống
110,8

107,9

118,9

131,9

105,8

116,2

Đồ uống và thuốc lá

104,9

105,2

106,8

113,1

107,6

109,6

May mặc, giày dép, mũ
nón

105,0

105,8

106,7

112,9

106,1

108,4

Nhà ở và vật liệu xây
dựng
109,8

105,9

117,1

108,5

112,6

115,7

Thiết bị và đồ dùng gia

đình


104,8

106,2

105,2

112,7

104,9

106,6

Dược phẩm, y tế

104,9

104,3

107,1

109,4

103,3

104,2

Phương tiện đi lại, bưu
điện
109,1


104,0

107,3

106,6

111,8

103,8

Giáo dục

105,0

103,6

102,0

106,9

106,1

119,4

Văn hoá, thể thao, giải

trí

102,7


103,5

101,7

110,3

102,1

105,3

Hàng hoá và dịch vụ
khác
106,0

106,5

109,0

113,0

111,3

111,8

Chỉ số giá vàng

111,3
127,2
127,4
106,8

164,3
130,0
Chỉ số giá đô la Mỹ
100,9
101,0
100,0
106,3
110,7
109,7
























Bảng 2 : Chỉ số giá tiêu dùng, giá vàng và giá đô la Mỹ so với tháng 12 hàng năm –
Nguồn: Theo số liệu của TCTK

Lạm phát cao có tác động làm giảm thu nhập thực tế của đa số dân cư và ảnh hưởng
xấu đến nhóm người nghèo, thu nhập thấp. Lạm phát tăng cao không chỉ hạn chế phân bổ
nguồn lực có hiệu quả, mà còn gây khó khăn cho việc đảm bảo tính nhất quán của các
chính sách vĩ mô (nhất là chính sách lãi suất và tỷ giá).
Lạm phát cao trong năm 2007, 2008 và một số thời điểm trong năm 2010 có nguyên
nhân khách quan chủ yếu là việc tăng giá dầu thô và giá một số nguyên vật liệu chính trên
thị trường thế giới, dịch bệnh (cúm gà, lở mồm long móng, dịch lợn tai xanh), thiên tai
(bão, lụt, giá rét bất thường hoặc kho hạn). Lạm phát cũng đi kèm với một số cơn sốt giá
của một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu (như giá lương thực, thực phẩm), trong khi các mặt
hàng này chiếm trọng số cao trong rổ hàng hóa tính CPI.
Mặc dù lạm phát là vấn đề chung của nhiều quốc gia, nhất là trong thời kỳ mở cửa
và hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng lạm phát ở nước ta vẫn có những đặc điểm riêng và xuất
phát từ cả những nguyên nhân chủ quan.
Lạm phát ở Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố tâm lý và hiện tượng đầu cơ.
Chỉ một tác động bất thường của nền kinh tế thế giới như việc tăng giá lương thực, nguyên
nhiên vật liệu, giá vàng, giá đô la Mỹ trên thị trường thế giới, hay thiên tai, dịch bệnh cũng
làm cho giá cả trong nước bị đẩy lên rất nhiều so với thực tế.
Các yếu tố nội tại nền kinh tế mang tính cơ cấu cũng là nguyên nhân dẫn đến lạm
phát cao. Các nguyên nhân liên quan đến cả phía cung (chi phí đẩy) lẫn phía cầu (đầu tư và
tiêu dùng tăng cao) của nền kinh tế. Sự bùng phát luồng vốn ĐTNN (gián tiếp và trực tiếp)
đổ vào Việt Nam đi kèm với những vấn đề kinh tế vĩ mô có tính nền tảng cần phải xử lý (ví
dụ mối quan hệ giữa chế độ tỷ giá, chu chuyển vốn và khả năng kiểm soát cung tiền). Cung
tiền đã tăng mạnh trong một số năm đã ảnh hưởng đến lạm phát sau đó (phân tích kỹ hơn
20


tại mục 1.2.3).
Từ năm 2007, Việt Nam đã thực hiện cơ chế giá thị trường theo lộ trình đối với các
mặt hàng: xi măng, sắt thép, phân bón, giấy, than (trừ giá than cung cấp cho phát điện). Bên
cạnh đó, Chính phủ cũng thực hiện nhiều đợt tăng lương tối thiểu. Việc thực hiện những
chủ trương, chính sách đó bên cạnh mặt tích cực cũng ảnh hưởng nhất định đến giá cả, lạm
phát.
Hội nhập kinh tế, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã làm xuất hiện những
yếu tố mới tác động đến nền kinh tế, trong đó có vấn đề giá cả, lạm phát, mà công tác điều
hành vĩ mô chưa lường trước được. Vì vậy Chính phủ đã có nhiều nỗ lực để ứng phó với
tình hình. Năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 10/2008/ NQ-CP ngày
17/4/2008, đề ra 8 nhóm giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số
390/QĐ-TTg ngày 17/4/2008 về điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu
ngân sách nhà nước năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát. Năm 2010, cùng với
xu hướng phục hồi, giá cả thị trường có xu hướng tăng cao, thâm hụt cán cân thương mại
khá lớn, lãi suất tín dụng cao, Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
18/NQ-CP ngày 06/4/2010 về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để
lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010. Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành các quyết định, chỉ thị nhằm tăng cường thực hiện các biện pháp,
bình ổn giá cả, thị trường, bảo đảm an sinh xã hội.
Tỷ giá VNĐ/USD trong hai năm 2006 và 2007 nhìn chung ổn định, tuy nhiên đã có
một số diễn biến phức tạp trong năm 2008. Cuối tháng 3/2008, tỷ giá đã có bước ngoặt đột
ngột từ tăng giá VNĐ sang mất giá VNĐ và đã xuất hiện cơn sốt USD trong tháng 5 và
6/2008. Tỷ giá bình quân VNĐ/USD tăng hơn 2% vào năm 2008 và hơn 9% vào năm 2009.
Năm 2010, tỷ giá tiếp tục tăng cao lên mức khoảng 20.000 VNĐ/USD, từ mức hơn 19.000
VNĐ/USD vào năm 2009.
Tỷ giá tăng lên khá cao trong những năm gần đây xuất phát từ một số nguyên
nhân18. Thứ nhất, thâm hụt thương mại trong năm 2008, 2009 và 2010 ở mức cao. Thứ hai,
một số quỹ đầu tư nước ngoài thoái vốn và rút vốn ra nước ngoài trong giai đoạn khó khăn
do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Thứ ba, sự sụt giảm về dự trữ ngoại

tệ và khó khăn trong bảo đảm nguồn ngoại tệ từ các ngân hàng phục vụ nhập khẩu trong
một số thời điểm nhất định. Thứ tư, diễn biến tăng giá mạnh trên thị trường tự do xuất phát
tâm lý và hành vi mua ngoại tệ để tích trữ do kỳ vọng tỷ giá sẽ tiếp tục tăng lên.
2.4. Ảnh hưởng của chính sách vĩ mô đến tỷ lệ thất nghiệp
Năm 2012, dân số cả nước đạt 88,8 triệu người, lực lượng lao động (LLLĐ) đạt
52,4 triệu người. Giai đoạn 2002-2012, bình quân mỗi năm LLLĐ cả nước tăng thêm hơn 1,1
triệu người, tương ứng 2,5%; LLLĐ thành thị tăng hơn 5%, cao hơn rất nhiều so với LLLĐ
nông thôn (1,6%). Tỷ lệ lao động có CMKT tăng nhanh, từ 17,1% năm 2002 lên gần
45,5% năm 2012, tuy vậy, một nửa số lao động này không có bằng cấp, chứng chỉ; trong
khi lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chỉ chiếm 8,4%.
Giai đoạn 2002-2012, bình quân mỗi năm, nền kinh tế tạo thêm khoảng 1,1 triệu
việc làm. Năm 2012, do tăng trưởng kinh tế giảm còn 5,0% (so với mức 5,9% năm 2011) nên
số người có việc làm chỉ đạt 51,4 triệu (chỉ tăng 0,7 triệu so với năm 2011). Do Chính phủ
thực hiện giải pháp cắt giảm và điều chỉnh đầu tư công nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, đã có
khoảng 30 nghìn việc làm bị mất đi, các ngành bị ảnh hưởng nhiều nhất là: sản xuất vật liệu
xây dựng, xi măng, vận tải.
21

Công nghiệp hóa và đô thị hóa tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch việc làm nông thôn-
thành thị. Năm 2012, việc làm thành thị chiếm 30,2% tổng số việc làm cả nước, tốc độ tăng
việc làm bình quân năm đạt 5,2%, con số tương ứng ở nông thôn là 69,9% và 1,7%. Chuyển
dịch cơ cấu việc làm diễn ra tích cực. Tỷ trọng việc làm nông nghiệp giảm từ 62% năm
2002 xuống còn 47,3% năm 2012, công nghiệp-xây dựng tăng từ 14,7% lên 21,0% và
dịch vụ tăng từ 23,3% lên 31,7% trong cùng thời kỳ.
Khu vực doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục duy trì vai trò quan trọng trong thu hút
lao động. Tỷ trọng lao động trong khu vực Nhà nước tăng nhẹ từ 10,2% năm 2002 lên
10,4% năm 2012. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ngày càng có vai trò quan
trọng trong tạo việc làm, tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực này tăng từ 1,1% năm
2002 lên 3,4% năm 2011, tuy nhiê n đã giảm nhẹ xuống còn 3,3% trong năm 2012 do ảnh
hưởng của suy giảm kinh tế.

Nền kinh tế thế giới năm 2012 tiếp tục khó khăn, nhu cầu lao động suy giảm. Do
vậy, năm2012 chỉ đưa được 80,3 nghìn người đi làm việc có hợp đồng ở nước ngoài
(giảm gần 8 nghìn người so với năm 2011).
Do thị trường lao động phát triển chậm, khu vực kinh tế hộ làm nông nghiệp vẫn
thu hút được nhiều lao động, nên số người thất nghiệp tiếp tục giảm từ 1.045 nghìn
người năm 2011 (chiếm 2,3%) xuống còn 926 nghìn người (chiếm 1,8%) năm 2012.
Tuy nhiên, tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên (nhóm tuổi 15-29) cao gấp hai lần so với tỉ
lệ thất nghiệp chung (4,2% so với
1,8%), số thanh niên thất nghiệp chiếm 64,2% tổng số người thất nghiệp năm 2012.
Năm 2012 cả nước có gần 1,3 triệu lao động thiếu việc làm, chiếm 3% tổng số người
có việc làm, tập trung chủ yếu ở nông thôn (82,4%), trong ngành nông nghiệp (73,3%),
trong nhóm lao động tự làm và lao động gia đình không hưởng lương (75,1%).
Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp chung toàn quốc thấp, chỉ đạt 1,8%, giảm 0,5 điểm
phần trăm so với năm 2011, trong đó tỷ lệ thất nghiệp nông thôn là hơn 1,2% và tỷ lệ thất
nghiệp thành thị là gần 3%. Ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, tỷ lệ
thất nghiệp cũng không cao, chỉ là 1,9% và 3,5%.


22


Biểu đồ 7 : Số lượng và tỷ lệ thất nghiệp
Nguồn: - Bộ LĐTB&XH, Số liệu thống kê lao động-việc làm các năm 2002,
2005.

- TCTK, Số liệu điều tra lao động-việc làm các năm 2007, 2011,
2012.

Tuy vậy, suy giảm kinh tế đã ảnh hưởng mạnh tới lực lượng lao động trẻ. Năm
2012, tỉ lệ thất nghiệp trong thanh niên (độ tuổi 15-29) cao hơn hai lần so với tỉ lệ thất

nghiệp chung, 4,2% so với 1,8%; số thanh niên thất nghiệp chiếm 64,2% tổng số người
thất nghiệp.
23
23

Chỉ tiêu
Năm 2011
Năm 2012
Số
thất
nghiệp
(nghìn
người)
LLLĐ
(nghìn
người)
Tỷ lệ
thất
nghiệp
(%)
Số
thất
nghiệp
(nghìn
người)
LLLĐ
(nghìn
người)
Tỷ lệ
thất

nghiệp
(%)
Cả nước
1.045
51.724
2,02
926
52.348
1,77
Thành thị
521
15.349
3,39
474
15.886
2,98
Nông thôn
524
36.375
1,44
452
36.462
1,24
Vùng

Trung du và miền núi
phía Bắc
57
7.104
0,80

126
8.024
1,57
Đồng bằng sông
Hồng13
127
8.014
1,59
49
7.209
0,68
Bắc Trung Bộ và
DHMT
228
11.222
2,03
222
11.309
1,96
Tây Nguyên
37
3.071
1,22
43
3.137
1,37
Đông Nam Bộ14
81
4.389
1,86

70
4.518
1,55
Đồng bằng sông Cửu
Long
261
10.303
2,53
201
10.363
1,94
Hà Nội
79
3.596
2,20
71
3.702
1,93
TP Hồ Chí Minh
175
4.026
4,33
143
4.086
3,51
Theo nhóm tuổi

15-19
153
3.102

4,94
150
2.701
5,54
20-24
287
5.417
5,30
282
5.187
5,44
25-29
178
6.664
2,68
162
6.420
2,53
30-34
92
6.431
1,43
75
6.307
1,18
35-39
70
6.497
1,08
50

6.571
0,76
40-44
65
6.171
1,06
45
6.457
0,69
45-49
68
5.939
1,14
47
6.260
0,76
50-54
81
4.847
1,67
74
5.137
1,43
24
24

55-59
44
3.136
1,41

37
3.487
1,06
60-64
4
1.698
0,22
2
1.906
0,11
65+
3
1.822
0,14
2
1.915
0,1
Bảng 3 : Cơ cấu lao động Việt Nam 2011-2012
Nguồn: TCTK, Số liệu điều tra lao động-việc làm các năm 2011,
2012.

Lao động có trình độ CMKT thấp hơn thì tỷ lệ thất nghiệp cũng thấp hơn. Bộ phận
lao động không có CMKT hoặc CMKT thấp không dám thất nghiệp, họ chấp nhận làm
mọi công việc để tạo thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Tuy vậy, những người
này vẫn chiếm 71% tổng số
người thất nghiệp cho thấy giải quyết việc làm cho bộ phận này
là một thách thức đối với nền kinh tế.

Nội dung
Số lượng

thất
nghiệp
(nghìn
người)
LLLĐ
(nghìn
người)
Tỷ lệ thất
nghiệp (%)
Số lượng
thất nghiệp
(nghìn
người)
LLLĐ
(nghìn
người)
Tỷ lệ thất
nghiệp (%)
Không có CMKT và
CNKT

Không bằng cấp
800
43.615
1,83
657
43.569
1,51
Sơ cấp
nghề


21
1.07
1,93
25
1.404
1,76
Trung cấp
nghề

27
837
3,27
29
0.874
3,33
Trung học
CN

59
1.908
3,09
63
1.918
3,26
Cao đẳng
nghề

13
161

7,87
9
0.191
4,91
Cao
đẳng

46
911
5,02
50
1.027
4,87
Đại học trở
lên

79
3.172
2,50
93
3.365
2,76
Bảng 4: Số lượng và tỷ lệ thất nghiệp theo khu vực thành thị-nông thôn, vùng lãnh thổ
-Nguồn: TCTK, Số liệu điều tra lao động-việc làm các năm 2011,
2012.












25
25

3. ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ THẾ GIỚI VỀ CHÍNH SÁCH ỔN
ĐỊNH HÓA CỦA VIỆT NAM
3.1.1 Đánh giá của IMF
Thông cáo báo chí của IMF cũng khẳng định thị trường tài chính đã bình ổn trở lại,
nhờ nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước trong việc cung cấp thanh khoản và sáp nhập một số
ngân hàng nhỏ, yếu kém.
Thặng dư cán cân vãng lai tăng lên hơn 9 tỷ USD trong năm 2012 một phần nhờ nhập
khẩu thấp và hoạt động kinh tế yếu. IMF nhấn mạnh rằng những thành tựu đã đạt được trong
ổn định kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính trong năm 2012 đã cải thiện độ tín nhiệm của các
thành viên tham gia thị trường đối với Ngân hàng Nhà nước.
IMF cũng khuyến nghị Chính phủ để giữ vững các lợi ích từ ổn định kinh tế vĩ mô, rất
cần duy trì vị thế chính sách hiện tại. Trong ngắn hạn, Chính phủ cần duy trì vị thế chính sách
tiền tệ hiện nay, và bắt đầu rút lại các biện pháp kích thích tài khóa.
Trong tương lai, những kết quả đạt được gần đây cần phải được củng cố thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp để tăng thêm dự trữ quốc tế và đệm ngân sách.
IMF rất ủng hộ việc các cơ quan chức năng Việt Nam đã bắt đầu các cải cách cấu trúc
quan trọng trong khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước.
Trưởng Đoàn cán bộ IMF, ông Alfred Schipke cũng đã khẳng định trong hơn một năm
qua, chính sách kinh tế của Việt Nam đã khá thành công trong việc tái lập sự ổn định kinh tế vĩ
mô. Điều này được thể hiện qua việc lạm phát giảm mạnh, mà nhờ đó củng cố niềm tin vào
đồng nội tệ. Chính điều này đã góp phần vào sự ổn định của thị trường ngoại hối và cho phép

Ngân hàng Nhà nước tăng khả năng ứng phó với các ảnh hưởng từ bên ngoài bằng việc tăng
dự trữ ngoại hối.
3.1.2 Đánh giá của WorldBank:
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định. “Năm qua,
Việt Nam đã thành công trong việc đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, thể hiện bằng tỉ lệ lạm phát vừa
phải và cải thiện trong cán cân đối ngoại”, “Cần tập trung quan tâm tới tốc độ cải cách cấu trúc,
đang diễn ra khá chậm, để lập lại vị trí của Việt Nam trong lộ trình tăng trưởng cao hơn.”
Điểm lại tình hình kinh tế lần này đã nhận dạng một số rủi ro chính tới ổn định kinh tế vĩ
mô. Các rủi ro bao gồm (i) dự trữ ngoại tệ thấp; (ii) cầu của khu vực kinh tế tư nhân rất mong manh,
(iii) nguy cơ không giữ vững được kỷ cương tài khóa và tiền tệ; (iv) tiến bộ trong các cải cách cơ
cấu chậm chạp; và (v) mất niềm tin vào ngành ngân hàng.
Ông Sandeep Mahajan, Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam
nhận định “Với sự gia tăng áp lực lên nguồn ngân sách, Chính phủ đang đứng trước một số lựa
chọn chính sách quan trọng, trong khi cố gẵng cân bằng hai mục tiêu kép là tăng trưởng nhanh hơn
và ổn định kinh tế vĩ mô,”
Tiến độ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước chậm hơn mong đợi và cần phải cố gắng nhiều
hơn nữa thì mới có thể thực hiện các mục tiêu cải cách doanh nghiệp nhà nước; cần chú ý thích
đáng hơn nữa tới sự phức tạp và đặc thù của từng doanh nghiệp; và cần tăng cường cơ chế kiểm
soát và phối hợp. Nợ xấu ngành ngân hàng (và cách tính nợ xấu thực sự) vẫn rất quan ngại và cần
chú ý tới vấn đề phá sản, mất khả năng thanh toán, quyền của chủ nợ - những vấn đề sẽ tạo điều
kiện cho quá trình tái cơ cấu nợ doanh nghiệp.

×