Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

VẤN ĐỀ HỦY KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.33 KB, 4 trang )

VẤN ĐỀ HỦY KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
Tổng quát, bên cạnh ly hôn thì hủy kết hôn trái pháp luật là một trong các trường hợp chấm
dứt hôn nhân. Khác với ly hôn, trong bối cảnh luật viết hiện nay của Việt Nam vấn đề hủy
kết hôn trái pháp luật không phải không đặt ra các vấn đề hay các giả định cần được trao
đổi để hoàn thiện phần nào pháp chế về hôn nhân và gia đình.
Kết hôn trái pháp luật được hiểu là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn
nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định (điểm 3 điều 8 Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000- sau đây được viết tắc là Luật Hôn nhân- Gia đình) nên cần phải hủy.
Việc hủy kết hôn trái pháp luật được ghi nhận tại các điều 15,16 và 17 trên cơ sở các điều
9, 10 và kế tiếp Luật Hôn nhân-Gia đình và về sau tuy được cụ thể hóa tại Nghị quyết số
02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
nhưng vẫn chưa toát lên hết các khía cạnh của vấn đề mà người viết bài này mong muốn
được bổ sung.
Bài viết này sẽ không đề cập đến các nguyên nhân cũng như những ai có thể hành sử
quyền đề nghị hủy kết hôn trái pháp luật mà chỉ giới hạn đến quyền hành sử đề nghị này
cũng như tính hồi tố hay không của quyết định hủy kết hôn trái pháp luật được tuyên bởi
Tòa án.
Về quyền hành sử đề nghị hủy kết hôn trái pháp luật
Không như Bộ Dân luật Pháp được phản ánh tại điều 180 và kế tiếp trong phần được gọi là
“Các yêu cầu xin tuyên bố vô hiệu hôn thú” có nói đến thời hiệu của việc hành sử quyền
này, Luật Hôn nhân- Gia đình sau khi liệt kê những ai có thể hành sử quyền xin tiêu hủy
việc kết hôn trái pháp luật lại không đưa ra một hạn kỳ nhất định.
Về mặt lý luận phù hợp với lợi ích xã hội lẫn lợi ích cá nhân thì việc hành sử quyền đề
nghị hủy kết hôn trái pháp luật nếu vi phạm điều 10 Luật Hôn nhân-Gia đình tại khoản 1
(vi phạm chế độ 1 vợ 1 chồng), khoản 2 (giữa những người cùng dòng máu trực hệ), khoản
3 (giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi,
bố chồng và con dâu, mẹ vợ với con rễ, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con
riêng của chồng), khoản 4 (giữa những người cùng giới tính) thiết nghĩ có thể hành sử bất
cứ lúc nào vì nó mang tính khách quan “trật tự công cộng- trật tự chung /ordre public và
“vi phạm đạo đức xã hội” thì những cơ sở hành sử quyền đề nghị hủy kết hôn trái pháp
luật khác còn lại được quy định tại điều 9 (độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện kết hôn) hay


khoản 2 của điều 10 (về mất năng lực hành vi dân sự) lại khó chấp nhận hành sử bất cứ lúc
nào vì nó có tính chủ quan và chỉ liên quan đến vợ, chồng hoặc cả hai nhất là khi các thành
tố vi phạm không còn tồn tại vì hai bên đã có một cuộc sống dài ngày và ổn định.
Luật phương Tây xem các trường hợp vô hiệu thứ nhất có tính cách tuyệt đối trong khi các
trường hợp thứ hai chỉ là vô hiệu tương đối. Vì vậy nếu đối chiếu với luật viết Việt Nam,
điều này thật khó lý giải nếu việc hành sử quyền đề nghị hủy kết hôn trái pháp luật lại
được hành sử bởi người thứ ba hay một cơ quan, tổ chức mà Luật cho phép chứ không
phải chính là người vợ hay người chồng nằm trong trường hợp nêu trên.
Tuy luật viết không có một điều khoản nào nói rõ nhưng ở góc độ hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật Hôn nhân - Gia đình, Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP nêu trên đã cho
ta thấy có một sự linh động trong vấn đề này khi Tòa án nhân dân tối cao lưu ý các cơ quan
xét xử khi thụ lý giải quyết vụ việc. Các quy định tại điểm 2 của Nghị quyết 02 cho ta cảm
nhận rằng trên cơ sở một cuộc sống bình thường và không phát sinh mâu thuẫn thì mỗi khi
những vi phạm điều kiện kết hôn không tồn tại vào thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn
trái pháp luật (không còn ở độ tuổi chưa được kết hôn; đã có sự thông cảm về việc đã bị
cưỡng bách kết hôn; việc kết hôn trước đã chấm dứt -ví dụ như đã có án ly hôn chung
thẩm) thì không hủy việc kết hôn. Nếu về sau giữa hai người sau một thời gian chung sống
hòa thuận có phát sinh mâu thuẫn thì Tòa án thụ lý vụ án trên cơ sở các điều khoản quy
định về ly hôn chứ không trên cơ sở của việc hủy kết hôn trái pháp luật. Với việc hưỡng
dẫn trên, ta có cảm nhận rằng việc hủy kết hôn trái pháp luật sẽ không được nêu ra mỗi khi
các điều kiện kết hôn bị vi phạm không còn nữa.
Với tinh thần đã nêu của Nghị quyết 02/2000; phải chăng cho thấy hình như Nhà giải
thích-áp dụng luật (Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) có khuynh hướng mềm
dẽo trong việc áp dụng các quy định về hủy kết hôn trái pháp luật và phần nào thừa
nhận/đồng hóa việc kết hôn như là một giao dịch dân sự giữa hai người và tùy trường hợp
giao dịch này vô hiệu tuyệt đối hay vô hiệu tương đối và dẫn đến việc giới hạn hay không
giới hạn thời gian hành sử quyền đề nghị hủy kết hôn trái pháp luật.
Tính hồi tố hay không hồi tố của việc hủy kết hôn trái pháp luật
Về vấn đề này khi đề cập đến hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật, điều 17
Luật Hôn nhân-Gia đình không xác định một cách rõ ràng mà chỉ ghi “hai bên nam nữ phải

chấm dứt quan hệ vợ chồng”. mặt khác điều 16 lại quy định “căn cứ vào quyết định của
Tòa án, cơ quan đăng ký kết hôn xóa đăng ký kết hôn trong sổ đăng ký kết hôn”. Nghị
quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao cũng không đưa ra một hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
Trong ngôn ngữ thường nhật và dựa trên ngôn từ, ta có thể giải thích là quan hệ vợ chồng
chỉ bị chấm dứt kể từ ngày án văn quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật có hiệu lực
hoặc kể từ ngày việc đăng ký kết hôn bị xóa chứ không có tác dụng làm mất hiệu lực các
quan hệ gọi là hôn nhân trong khoảng thời gian giữa ngày đăng ký kết hôn và ngày án văn
quyết định hủy kết hôn có hiệu lực/ hoặc ngày việc đăng ký kết hôn bị xóa.
Nhưng về mặt ngôn ngữ pháp lý ta có thể giải thích như trên được không? Nếu bản chất
của ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng trên cơ sở yêu cầu tự nguyện của một hoặc cả hai
vợ chồng thì phải hiểu rằng hủy kết hôn trái pháp luật là một hình thức chế tài cho những
hôn nhân thành tựu (có đăng ký kết hôn) nhưng vi phạm những trường hợp luật cấm hoặc
không đủ điều kiện để kết hôn. Và khi nói chế tài thì phải hiểu cụm từ “chấm dứt hôn
nhân” có nghĩa là xóa bỏ -chính xác là hủy một hành vi (kết hôn) vì nó vô hiệu do vi phạm
các điều luật cấm chứ không phải là chấm dứt hành vi đó. Chấm dứt cuộc sống chung chỉ
là hệ quả của việc xóa bỏ hôn nhân. Vì thế theo người viết bài này hủy việc kết hôn trái
pháp luật phải có tính hồi tố.
Trên cơ sở giả định chưa có một kết luận rõ ràng, một vài vấn đề có thể nảy sinh trong thực
tiễn và đâu là giải pháp đưa ra giải quyết:
Ví dụ 1: A và B kết hôn nhưng vi phạm một trong các trường hợp luật cấm được quy định
tại điều 10 Luật Hôn nhân-Gia đình. Vì có mâu thuẫn trong cuộc sống chung cả hai thuận
tình ly hôn và yêu cầu ly hôn được tòa án chấp nhận. Về sau căn cứ điều 15 khoản 2 Viện
Kiểm sát có đơn đề nghị yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật thì liệu Tòa án có thụ lý giải
quyết vụ việc này không ?
§ Nếu cho rằng quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật
về sau thì Tòa án sẽ không thụ lý vì cho rằng tại thời điểm đề nghị hủy kết hôn của Viện
Kiểm sát giữa A và B không còn tồn tại mối quan hệ hôn nhân. Nếu theo giải pháp này có
nghĩa là chấp nhận sự tồn tại một cách hợp pháp của “tình trạng kết hôn trái pháp luật”
trước đó.

§ Nếu cho rằng quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật có hiệu lực pháp luật trở về
trước thì dù hôn nhân không tồn tại do hậu quả pháp luật của việc ly hôn, Tòa án buộc phải
thụ lý đề nghị hủy kết hôn trái pháp luật của Viện Kiểm sát nhằm xóa bỏ về mặt pháp lý
“một hôn nhân trái pháp luật” với tính chất một chế tài.
Về vấn đề này án lệ của Pháp cho phép đại diện cơ quan công tố được quyền khởi tố xin
tiêu hủy việc kết hôn trái pháp luật dù rằng hôn nhân trước đó đã chấm dứt thông qua án ly
hôn (Án Tòa phúc thẩm Paris ngày 08-2-1971 (1) - Án Tòa Phá án- Phòng Dân sự 1 ngày
10-3-1998 (2).
Ví dụ 2: A kết hôn với B và cũng vi phạm một trong các trường hợp luật cấm được quy
định tại điều 10 Luật Hôn nhân-Gia đình. Sau một thời gian chung sống ngắn ngủi, A chết.
Các thừa kế khác ở hàng thứ nhất của A không còn, B trở thành thừa kế duy nhất ở hàng
này. Một trong các thành phần được quy định tại điểm 4 của điều 15 (giả định là C/ anh,
em của A và là thừa kế ở hàng thứ hai đối với di sản của A) đề nghị Viện Kiểm sát xem
xét, yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa A và B). Nếu đề nghị này được
chấp nhận thì liệu Tòa án có thụ lý để giải quyết vụ việc này không? Cũng tương tự như
trên:
§ Nếu cho rằng quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật chỉ phát sinh hậu quả pháp luật
về sau thì Tòa án sẽ không thụ lý vì cho rằng tại thời điểm này giữa hai người không tồn tại
mối quan hệ hôn nhân do một người đã chết. Nếu theo giải pháp này có nghĩa là gián tiếp
mặc nhiên chấp nhận sự tồn tại một cách hợp pháp của “tình trạng kết hôn trái pháp luật”
trước đó.
§ Nếu cho rằng quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật phát sinh hiệu lực trở về trước
thì dù rằng hôn nhân không tồn tại do một người đã chết, tòa án buộc phải thụ lý yêu cầu
của viện Kiểm sát nhằm xóa bỏ về mặt pháp luật một “hôn nhân trái pháp luật” với tính
chất một chế tài. Trong trường hợp này, vấn đề sẽ trở nên nhạy cảm hơn vì khi đó quan hệ
hôn nhân giữa A và B trái pháp luật thì giũa B và A cũng không có quan hệ thừa kế
vợ/chồng; C trở thành thừa kế của A.
(1) ilité.com/jp/famille/...s_19710208.htm
(2) ilité.com/jp/famille/Cassc1_19980310.htm

×