Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học nghiên cứu mô hình đảm bảo chất lượng cùng tham gia PGS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.51 MB, 77 trang )

MỤC LỤC
Trang
Phong trào nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh và được khởi xướng tại một sô quốc gia
như Nam Mỹ như Brazin, Mexico, Mỹ hay một số nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, New
Zealand, Thái Lan, Phillipine, Vì vậy, tại các quốc gia này, xu hướng áp dụng PGS khá
phổ biến. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tại các nước này nhằm giới thiệu về mô hình
PGS, phân tích những lợi ích đạt được cũng như chia sẻ những kinh nghiệm, những khó
khăn mà các chuỗi sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại các nước này gặp phải trong quá trình
triển khai và vận hành hệ thống PGS. Một số các công trình nghiên cứu tiêu biểu về PGS
tại các nước như Mexico, Brazil, Ấn Độ, Nepal và Italia, đó là: 6
- Nelson, E, Gómez Tovar, L, Schwentesius, R & Gómez Cruz, M., Participatory
Guarantee Systems: New Approaches to Organic Certification - The Case of Mexico,
2009 6
Nghiên cứu đã nêu lên kinh nghiệm triển khai hệ thống PGS ở Mexico. Nghiên cứu được
thực hiện dựa trên phương pháp quan sát hiện trường và phỏng vấn chuyên sâu do nhóm
tác giả thực hiện trong suốt khóa học về đào tạo và thúc đẩy áp dụng PGS tại Chapingo
cũng như 16 thị trường hình thành nên mạng lưới thị trường thực phẩm và nông nghiệp
hữu cơ ở Mexico 7
- Claudia Hochreiter, Certified with trust and solidarity? Attitude, benefits, and challenges
of organic farmers in paticipatory guarantee systems (PGS), Cacahoatán, Mexico, Master
thesis, 2011 7
Nghiên cứu đã đưa ra một số nội dung lý thuyết cơ bản của hệ thống đảm bảo cùng tham
gia như sự ra đời và đặc trưng của hệ thống, các yếu tố ảnh hưởng, quá trình chứng nhận,
tình hình chứng nhận hệ thống trên toàn cầu, những lợi ích và hạn chế của hệ thống. Thông
qua nghiên cứu điển hình về áp dụng PGS ở Mexico, tác giả đã làm rõ quá trình triển khai,
các đặc trưng cơ bản, lợi ích, thách thức và kinh nghiệm áp dụng hệ thống đảm bảo cùng
tham gia PGS ở quốc gia Nam Mỹ này. Đặc biệt, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về thái độ,
lợi ích, thách thức phải đối mặt đối với các hộ nông dân khi tham gia mô hình PGS 7
- Zanasi, C., Venturi P, Impact of the adoption of participatory guarantee systems (PGS)
for organic certification for small farmers in developing countries: the case of Rede
Ecovida in Brasil, 2008 7


- Ron Khosla, A participatory Organic Guarantee System for India, Final Report of FAO,
2006 8
Báo cáo trình bày triển vọng về nông nghiệp hữu cơ, thị trường sản phẩm hữu cơ và nhu
cầu về PGS; Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công trong áp dụng hệ thống
đảm bảo cùng tham gia PGS ở Ấn Độ và vai trò của các nhóm tham gia như nhóm nông
hộ, nhóm địa phương, các hiệp hội, ủy ban quốc gia; Tổng kết các bước cần thiết để triển
khai và chứng nhận PGS tại Ấn Độ 8
- Vincent Darlong, Harmonizing Jhum (Shifting Cultivation) with PGS Organic Standards
in Northeast India: Key features and characteristics of Jhum for process harmonization,
2008 8
Tiêu chuẩn Jhum là một tiêu chuẩn được áp dụng khá phổ biến trong hệ thống sản xuất
nông nghiệp ở Đông Bắc Ấn Độ, tuy nhiên nỗ lực để duy trì tiêu chuẩn này gặp rất nhiều
khó khăn thách thức. Với sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ, việc hài hòa hóa tiêu
chuẩn Jhum và tiêu chuẩn PGS có thể tạo ra cơ hội để nâng cao chất lượng cuộc sống cũng
như an sinh xã hội ở vùng Đông bắc Ấn Độ. Nghiên cứu tập trung làm rõ những cơ hội này
và phân tích những tiêu chí và đặc trưng của tiêu chuẩn Jhum có thể đáp ứng tiêu chuẩn
PGS 8
1
- Salil Bhattarai, Michael Lyne, and Sandra Martine, Assessing performent of supply
chains from a smallholder perspective: A model of farmer – buyer engagement and its
application in Nepal, 2012 9
Nghiên cứu này xem xét việc thực hiện chuỗi cung ứng từ quan điểm của các hộ sản xuất
nhỏ. Nó chỉ ra hiệu quả kinh tế dựa trên sự phát triển mô hình giải thích về mối quan hệ
cặp đôi giữa các hộ quy mô nhỏ và khách hàng của họ. Mô hình cũng phân tích về sự hợp
tác theo chiều dọc truyền thống nhằm mục đích nhận dạng các nhân tố hạn chế sự lựa chọn
thị trường có sẵn với các hộ quy mô nhỏ. Mô hình dựa trên mẫu phân tích về chuỗi rau
sạch hữu cơ ở Kathmandu, Nepal và gợi ý các chính sách từ kết quả phân tích 9
- Raffaele Zanoli, Danilo Gambelli, Francesco Solfanelli, Effectiveness of organic
certification: A study on an Italian organic certification’ data, 2012 9
2. Claudia Hochreiter, Certified with trust and solidarity? Attitude, benefits, and

challenges of organic farmers in paticipatory guarantee systems (PGS), Cacahoatán,
Mexico, Master thesis, 2011 71
7. Nelson, E, Gómez Tovar, L, Schwentesius, R & Gómez Cruz, M., Participatory
Guarantee Systems: New Approaches to Organic Certification - The Case of Mexico,
2009 71
12. Zanasi, C., Venturi P, Impact of the adoption of participatory guarantee systems (PGS)
for organic certification for small farmers in developing countries: the case of Rede
Ecovida in Brasil, 2008 72
13. Raffaele Zanoli, Danilo Gambelli, Francesco Solfanelli, Effectiveness of organic
certification: A study on an Italian organic certification’ data, 2012 72
14. Ron Khosla, A participatory Organic Guarantee System for India, Final Report of
FAO, 2006 72
15. Salil Bhattarai, Michael Lyne, and Sandra Martine, Assessing performent of supply
chains from a smallholder perspective: A model of farmer – buyer engagement and its
application in Nepal, 2012 72
16. Vincent Darlong, Harmonizing Jhum (Shifting Cultivation) with PGS Organic
Standards in Northeast India: Key features and characteristics of Jhum for process
harmonization, 2008 72
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tình trạng đáng báo động về ATVSTP hiện nay, nhu cầu mua và sử dụng thực
phẩm an toàn là rất lớn. Đây cũng là vấn đề nhận được sự quan tâm rất lớn của nhà
nước, các cấp các ngành và của toàn xã hội. Đã có nhiều chương trình, dự án, đề án tập
trung nghiên cứu, tìm giải pháp cho việc xây dựng các chuỗi hay các hình thức liên kết
trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn, thúc đẩy áp dụng các tiêu chuẩn, kỹ
thuật sản xuất tiên tiến, các mô hình quản lý chất lượng hiện đại nhằm đảm bảo chất
lượng và an toàn thực phẩm cũng như thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và cả tiêu thụ thực
2
phẩm an toàn ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo ước tính, lượng thực phẩm được sản xuất
và kinh doanh theo những mô hình này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, vẫn chưa đáp ứng

được nhu cầu rất lớn về tiêu thụ thực phẩm an toàn ở Việt Nam. Thị trường cho sản
phẩm an toàn không phải là vấn đề đáng lo ngại. Nhưng thực tế cho thấy, những mô
hình sản xuất hoặc liên kết sản xuất, kinh doanh (chuỗi) thực phẩm an toàn đều gặp rất
nhiều khó khăn trong cả khâu sản xuất cung ứng và tiêu thụ.
Trong khâu sản xuất và cung ứng, một trong những điểm yếu nhất của nông
nghiệp Việt Nam là sản xuất quy mô nhỏ, manh mún và không đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm (ATVSTP). Vậy làm thế nào để những nông hộ quy mô nhỏ có thể
tiếp cận với quy trình sản xuất an toàn và bền vững là câu hỏi không hề dễ dàng.
Với đại bộ phận những hộ sản xuất quy mô nhỏ, rất khó để có thể tiếp cận với
những tiêu chuẩn, kỹ thuật sản xuất và quản lý chất lượng tiên tiến. Để được cấp
giấy chững nhận hay chứng chỉ về an toàn, chất lượng cho sản phẩm đầu ra (chẳng
hạn như tiêu chuẩn GAP) cũng tốn rất nhiều chi phí.
Trong khâu tiêu thụ, người tiêu dùng thực sự có nhu cầu mua và tiêu dùng thực
phẩm an toàn nhưng đứng trước tình trạng thiếu thông tin và không minh bạch về
nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, về nhà phân phối, tình trạng thực phẩm không an
toàn hoặc không được kiểm tra, chứng nhận vẫn được bày bán lẫn hoặc gắn mác
thực phẩm an toàn khiến người tiêu dùng mất lòng tin.
Có thể nói, để giải bài toán đầu ra cho thực phẩm an toàn và với điều kiện sản
xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún ở Việt Nam, cần giải quyết hai vấn đề lớn là
chi phí quản lý, chứng nhận và lòng tin của người tiêu dùng. Muốn giải quyết được
điều đó, cần có một mô hình có thể liên kết được các tác nhân trong chuỗi sản xuất,
kinh doanh cùng các bên liên quan, trong đó có người tiêu dùng nhằm thiết lập cơ
chế giám sát chặt chẽ với chất lượng sản phẩm đồng thời tăng cường sự hiểu biết
lẫn nhau, minh bạch thông tin và thiết lập niềm tin với sản phẩm.
Năm 2004 Liên đoàn quốc tế các phong trào nông nghiệp hữu cơ (IFOAM) đã
đưa ra hệ thống chứng nhận tin cậy cho sản phẩm được sản xuất hữu cơ hay là hệ
thống đảm bảo cùng tham gia-PGS(participatory guarantee system). Đó là hệ thống
bảo đảm dựa vào sự tham gia của các tổ chức và con người có liên quan trực tiếp
vào chuỗi cung cấp hữu cơ, từ người sản xuất cho đến người mua cùng nhau tham
gia vào hệ thống chứng nhận. Tính đến nay, PGS đã xuất hiện ở nhiều quốc gia trên

3
thế giới như Mỹ, Ấn Độ, Brazil…nhưng ở Việt Nam nó chỉ mới xuất hiện từ năm
2008 đến nay. Vì vậy, PGS còn là một khái niệm mới mẻ với người tiêu dùng cũng
như là một mô hình mới trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn ở Việt Nam.
Có thể thấy, trong bối cảnh này thì mô hình đảm bảo chất lượng cùng tham
gia PGS là một mô hình phù hợp có thể giải quyết bài toán nan giải này ở Việt Nam
hiện nay. PGS là một dạng hệ thống quản lý chất lượng dựa trên tiêu chuẩn, áp
dụng trong sản xuất và kinh doanh nông sản thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ, đảm
bảo sự an toàn và chất lượng sản phẩm. Đây cũng là mô hình mới về hệ thống đảm
bảo chất lượng với tính ưu việt nổi trội là quản lý chất lượng tập trung chủ yếu
tại cộng đồng, đòi hỏi sự tham gia giám sát của tất cả các thành viên trong
chuỗi cung ứng (hộ trồng trọt/chăn nuôi, nhà sản xuất, chế biến, nhà phân
phối, nhà bán lẻ, khách hàng,…) và các bên quan tâm. Chính sự vận hành
theo cơ chế này sẽ gia tăng sự giám sát và thúc đẩy niềm tin của các thành viên
trong chuỗi, đặc biệt là của khách hàng với các sản phẩm của chuỗi. Khác với
các mô hình quản lý chất lượng khác, mô hình PGS là mô hình đảm bảo chất
lượng vừa mang tính khoa học, vừa mang tính hiện đại, vận hành theo cơ chế
chuỗi với các bên liên quan nhưng lại đặc biệt có sự phù hợp cao với điều kiện
sản xuất và kinh doanh nông sản, thực phẩm ở Việt Nam như sản xuất quy mô
nhỏ, kênh hàng ngắn, chi phí thấp.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu mô hình
đảm bảo chất lượng cùng tham gia PGS”. Chúng tôi hy vọng sẽ đóng một vai trò
nhất định để giúp người tiêu dùng biết nhiều hơn và tin tưởng về mô hình PGS, đồng
thời khẳng định rõ hơn PGS là chứng nhận đáng tin cậy cho các sản phẩm hữu cơ.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài.
2.1 Nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, đã có một số các công trình nghiên cứu tiến hành nghiên cứu
về hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS. Trong đó, các nghiên cứu tập trung làm
rõ những tác động và vai trò, lợi ích cũng như sự phù hợp của mô hình này đối vơi
điều kiện sản xuất kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, đặc biệt tại các

nước đang phát triển và với điều kiện sản xuất, canh tác quy mô nhỏ.
4
- Els Wynen, Impact of organic guarantee systems on production and trade in
organic products, Discussion Paper International Task Force on Harmonization and
Equivalence in Organic Agriculture, 2004
Nghiên cứu giới thiệu đặc trưng của từng quốc gia và hệ thống chứng nhận hữu cơ
của từng nước, phân tích chi phí trực tiếp, gián tiếp và hiệu quả tác động của từng
mô hình chứng nhận, trong đó có mô hình PGS. Đồng thời chỉ ra khả năng hài hòa
các tiêu chuẩn và mô hình với nhau, áp dụng cho từng loại thực phẩm cụ thể.
- Erin Nelson, Laura Gomez Tovar, participatory guarantee systems: A
certification idea for small organic farmers, 2008
Nghiên cứu thuộc khuôn khổ dự án của Pan – Canada Reseach Impact Network
nhằm mô tả hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS như một cách thức có thể áp
dụng rộng rãi cho những nhà sản xuất sản phẩm hữu cơ quy mô nhỏ co thể tham gia
trên thị trường thực phẩm
Cũng có những nghiên cứu giới thiệu hoặc tiến hành so sánh mô hình PGS
trong tương quan với các mô hình/ hệ thống chứng nhận khác trong sản xuất nông
nghiệp nói chung và nông nghiệp hữu cơ nói riêng, chỉ ra những ưu việt cũng như
những khó khăn, thách thức của hệ thống này so với các mô hình khác
- Erin Nelson, Laura Gomez Tovar, Participatory Organic Certification: An
alternative aproach to maintaining the intergrity of the organic label, 2009
Nghiên cứu tập trung thảo luận những chứng nhận chính trong nông nghiệp hữu cơ,
đặc biệt là mô hình chứng nhận cùng tham gia PGS. Thông qua việc nghiên cứu
tình huống điển hình về mạng lưới nông nghiệp hữu cơ ở Mexico, cụ thể là thị
trường nông nghiệp hữu cơ địa phương ở Chapingo, Mexico để thể hiện tình hình
thực hiện hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS. Trên cơ sở nghiên cứu chỉ ra
những thách thức mà hệ thống PGS gặp phải trong quá trình triển khai.
- Heidrun Moschitz and colleagues, Economic analysis of certification systems in
organic food and farming : The potential of alternative certification systems, 2011
Báo cáo chỉ ra kết quả của việc phân tích các hệ thống chứng nhận khác nhau nhằm

mục đích đánh giá hiệu quả và chi phí về việc triển khai các mô hình khác nhau
trong nông nghiệp hữu cơ, trên cơ sở đó đánh giá triển vọng của các mô hình chứng
nhận này, trong đó co mô hình đảm bảo cùng tham gia PGS.
5
- Alexandre Meybeck, Suzanne Redfern, Voluntary standards for sustainable food
systems: Challenges and opportunities, A workshop of the FAO/UNEP –
Programme on sustainable food systems, 2013
Kỷ yếu hội thảo bao gồm tập hợp các bài viết, bài nghiên cứu, thông tin về các tiêu
chuẩn trong sản xuất và kinh doanh thực phẩm nhằm hướng tới một nền sản xuất
thực phẩm bền vững và an toàn. Trong đó có giới thiệu về các tiêu chuẩn, các mô
hình, cách thức áp dụng, vận hành, các điển hình, bài học kinh nghiệm cũng như
các cơ hội và thách thức khi áp dụng các tiêu chuẩn và mô hình này ở các quốc gia
khác nhau, bao gồm cả mô hình đảm bảo cùng tham gia PGS.
- Pilar Santacoloma, Ph.D, Marketing strategies and organisational structures
under different organic certification schemes, 2008
Mục đích của nghiên cứu là tiến hành so sánh cấu trúc tổ chức và chiến lược
marketing trong các chuỗi cung ứng thực phẩm hữu cơ được vận hành theo 3 mô
hình chứng nhận khác nhau ở các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi. Mô
hình thứ nhất là sự chứng nhận của bên thứ ba với từng thành viên trong chuỗi
cung ứng, được biết đến như những chứng nhận mang tính quốc tế. Mô hình thứ hai
cũng dựa trên chứng nhận của bên thứ ba nhưng trong đó các nông hộ quy mô nhỏ
có thể được chứng nhận theo nhóm - được gọi là hệ thống kiểm soát nội bộ ICS.
Mô hình thứ ba là hệ thống chứng nhận về đảm bảo cùng tham gia PGS.
Phong trào nông nghiệp hữu cơ phát triển mạnh và được khởi xướng tại một
sô quốc gia như Nam Mỹ như Brazin, Mexico, Mỹ hay một số nền kinh tế mới nổi
như Ấn Độ, New Zealand, Thái Lan, Phillipine, Vì vậy, tại các quốc gia này, xu
hướng áp dụng PGS khá phổ biến. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tại các nước
này nhằm giới thiệu về mô hình PGS, phân tích những lợi ích đạt được cũng như
chia sẻ những kinh nghiệm, những khó khăn mà các chuỗi sản xuất nông nghiệp
hữu cơ tại các nước này gặp phải trong quá trình triển khai và vận hành hệ thống

PGS. Một số các công trình nghiên cứu tiêu biểu về PGS tại các nước như Mexico,
Brazil, Ấn Độ, Nepal và Italia, đó là:
- Nelson, E, Gómez Tovar, L, Schwentesius, R & Gómez Cruz, M., Participatory
Guarantee Systems: New Approaches to Organic Certification - The Case of
Mexico, 2009.
6
Nghiên cứu đã nêu lên kinh nghiệm triển khai hệ thống PGS ở Mexico. Nghiên cứu
được thực hiện dựa trên phương pháp quan sát hiện trường và phỏng vấn chuyên
sâu do nhóm tác giả thực hiện trong suốt khóa học về đào tạo và thúc đẩy áp dụng
PGS tại Chapingo cũng như 16 thị trường hình thành nên mạng lưới thị trường thực
phẩm và nông nghiệp hữu cơ ở Mexico
- Claudia Hochreiter, Certified with trust and solidarity? Attitude, benefits, and
challenges of organic farmers in paticipatory guarantee systems (PGS),
Cacahoatán, Mexico, Master thesis, 2011.
Nghiên cứu đã đưa ra một số nội dung lý thuyết cơ bản của hệ thống đảm bảo cùng
tham gia như sự ra đời và đặc trưng của hệ thống, các yếu tố ảnh hưởng, quá trình
chứng nhận, tình hình chứng nhận hệ thống trên toàn cầu, những lợi ích và hạn chế
của hệ thống. Thông qua nghiên cứu điển hình về áp dụng PGS ở Mexico, tác giả đã
làm rõ quá trình triển khai, các đặc trưng cơ bản, lợi ích, thách thức và kinh nghiệm
áp dụng hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS ở quốc gia Nam Mỹ này. Đặc biệt,
tác giả đã đi sâu nghiên cứu về thái độ, lợi ích, thách thức phải đối mặt đối với các
hộ nông dân khi tham gia mô hình PGS.
- Cesare Zanasi, Paolo Venturi, Marco Setti, Cosimo Rota, Participative organic
certification, trust and local rural communities development: The case of Rede
Ecovida, 2009
Mục đích của nghiên cứu là làm rõ sự gắn kết của cộng đồng, sự tin tưởng và thị
trường liên quan trong một chuỗi cung ứng như thế nào và giải thích sự tác động qua
lại giữa chứng nhận hữu cơ cùng tham gia PGS và sự phát triển của cộng đồng ở nông
thôn. Dựa trên những dữ liệu thu thập ở Rede Ecovida – một mạng lưới cung cấp thực
phẩm hữu cơ ở Braxin, nghiên cứu đã chỉ ra rằng có sự ảnh hưởng tích cực của cách

tiếp cận cùng tham gia theo mô hình PGS đến kinh tế địa phương, sự phát triển của môi
trường và xã hội. Nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của nhóm nông hộ trong việc tăng
cường lòng tin đối với thực phẩm hữu cơ trong cộng đồng địa phương.
- Zanasi, C.
1
, Venturi P
2
, Impact of the adoption of participatory guarantee systems
(PGS) for organic certification for small farmers in developing countries: the case
of Rede Ecovida in Brasil, 2008
1
DIPROVAL – Economic Unit- Bologna University, via F.lli Rosselli 107, 42100 Reggio Emilia, Italy E-Mail
2
DIPROVAL – Rural Engineering Unit - Bologna University, via F.lli Rosselli 107, 42100 Reggio Emilia, Italy
7
Mục tiêu của nghiên cứu là làm rõ nền tảng lý thuyết nhằm xác định các đặc trưng
của hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS cũng như vai trò của nó trong việc thúc
đẩy thị trường thực phẩm địa phương, sự gắn kết cộng đồng xã hội và sự xâm nhập
vào các thị trường xuất khẩu
- Fonseca, M.F. Wilkinson, J . Egelyng, H . Mascarenhas, G.C.C, The
instutitionalization of participatory guarantee systems (PGS) in Brazin: Organic
and fair trade initiatives, 2008.
Nghiên cứu dựa trên những phân tích và mô tả những nhóm tham gia trong các hệ
thống chứng nhận PGS ở Braxin. Đánh giá những động cơ và các phương pháp có
liên quan nhằm phát triển hệ thống này. Nghiên cứu cũng xác định các nguyên tắc,
tiêu chuẩn, thách thức và hạn chế và kinh nghiệm triển khai hệ thống ở Braxin.
- Laercio, Meirelles, Regulation of participatory gurantee systems in Brazil – A
case study, 2010.
PGS là một hệ thống chứng nhận hữu cơ được áp dụng khá phổ biến trong sản xuất nông
nghiệp hữu cơ ở Braxin. Nghiên cứu này làm nổi bật những yếu tố quan trọng trong quá

trình triển khai hệ thống PGS ở Braxin như: kỹ thuật đánh giá trong hệ thống, đánh giá
nội bộ nhóm và đánh giá chéo, ảnh hưởng của cộng đồng và các bên liên quan.
- Ron Khosla, A participatory Organic Guarantee System for India, Final Report of
FAO, 2006
Báo cáo trình bày triển vọng về nông nghiệp hữu cơ, thị trường sản phẩm hữu cơ và
nhu cầu về PGS; Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành công trong áp dụng
hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS ở Ấn Độ và vai trò của các nhóm tham gia
như nhóm nông hộ, nhóm địa phương, các hiệp hội, ủy ban quốc gia; Tổng kết các
bước cần thiết để triển khai và chứng nhận PGS tại Ấn Độ.
- Vincent Darlong, Harmonizing Jhum (Shifting Cultivation) with PGS Organic
Standards in Northeast India: Key features and characteristics of Jhum for process
harmonization, 2008
Tiêu chuẩn Jhum là một tiêu chuẩn được áp dụng khá phổ biến trong hệ thống sản
xuất nông nghiệp ở Đông Bắc Ấn Độ, tuy nhiên nỗ lực để duy trì tiêu chuẩn này
gặp rất nhiều khó khăn thách thức. Với sự phát triển của nông nghiệp hữu cơ, việc
hài hòa hóa tiêu chuẩn Jhum và tiêu chuẩn PGS có thể tạo ra cơ hội để nâng cao
chất lượng cuộc sống cũng như an sinh xã hội ở vùng Đông bắc Ấn Độ. Nghiên cứu
8
tập trung làm rõ những cơ hội này và phân tích những tiêu chí và đặc trưng của tiêu
chuẩn Jhum có thể đáp ứng tiêu chuẩn PGS.
- Salil Bhattarai, Michael Lyne, and Sandra Martine, Assessing performent of
supply chains from a smallholder perspective: A model of farmer – buyer
engagement and its application in Nepal, 2012
Nghiên cứu này xem xét việc thực hiện chuỗi cung ứng từ quan điểm của các hộ sản xuất
nhỏ. Nó chỉ ra hiệu quả kinh tế dựa trên sự phát triển mô hình giải thích về mối quan hệ
cặp đôi giữa các hộ quy mô nhỏ và khách hàng của họ. Mô hình cũng phân tích về sự
hợp tác theo chiều dọc truyền thống nhằm mục đích nhận dạng các nhân tố hạn chế sự
lựa chọn thị trường có sẵn với các hộ quy mô nhỏ. Mô hình dựa trên mẫu phân tích về
chuỗi rau sạch hữu cơ ở Kathmandu, Nepal và gợi ý các chính sách từ kết quả phân tích.
- Raffaele Zanoli, Danilo Gambelli, Francesco Solfanelli, Effectiveness of organic

certification: A study on an Italian organic certification’ data, 2012
Mục đích của nghiên cứu là thực hiện một mô hình dựa trên phân tích rủi ro trong
kiểm tra và chứng nhận sản phẩm hữu cơ, trong đó có chứng nhận PGS. Nghiên cứu
được phân tích dựa trên những dữ liệu thu thập được từ hệ thống chứng nhận hữu
cơ của Italian trong giai đoạn từ 2007 đến 2009.
2.2. Nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, sản xuất và kinh doanh sản phẩm hữu cơ (thực phẩm sạch, an
toàn) mới chỉ được nhắc đến trong một vài năm trở lại đây. Năm 2006, Bộ
NN&PTNT đã ban hành Bộ tiêu chuẩn Quốc gia cho các sản phẩm hữu cơ tại Việt
Nam. Tuy nhiên, những thủ tục cấp giấy chứng nhận sản phẩm hữu cơ lại không
được mô tả trong bộ tiêu chuẩn này. Vì vậy, dù sản phẩm hữu cơ có được sản xuất
ra cũng khó có thể tạo được niêm tin với người tiêu dùng. Vì vậy, sự ra đời của tiêu
chuẩn PGS cùng các mô hình sản xuất và liên kết chuỗi theo hệ thống này sẽ giúp
giải quyết những mâu thuẫn và những khoảng trống mà cả người sản xuất (hộ nông
dân), các nhà phân phối, kinh doanh, người tiêu dùng và các bên liên quan đang
rất quan tâm. Hai tiêu chuẩn PGS chính trong hệ thống các tiêu chuẩn PGS, đó là:
Tiêu chuẩn PGS cho nhà sản xuất và tiêu chuẩn PGS cho nhà bán lẻ cùng một số
tài liệu và cẩm nang hướng dẫn đã được xây dựng nhằm giới thiệu về tiêu chuẩn,
mô hình và chia sẻ kinh nghiệm, cách thức xây dựng và triển khai hệ thống
- Ban điều phối PGS Việt Nam, Tiêu chuẩn hữu cơ PGS, 2013.
9
Đây là bộ tiêu chuẩn PGS áp dụng cho các nhà sản xuất bao gồm cả trồng trọt và chăn
nuôi. Tiêu chuẩn về vận hành, chế biến và bán lẻ các sản phẩm hữu cơ. Những tiêu chuẩn
này tạo điều kiện cho PGS Việt Nam cung cấp dịch vụ chứng nhận cho các sản phẩm
trồng trọt và chăn nuôi hữu cơ từ sản xuất đến bán hàng và cho đến người tiêu dùng.
- Ban điều phối PGS Việt Nam, Tiêu chuẩn PGS cho đối tượng bán lẻ, 2011.
Tiêu chuẩn trình bày những yêu cầu của PGS đối với nhà bán lẻ, thủ tục đăng ký
PGS, các phương pháp thanh tra và cấp giấy chứng nhận PGS cho nhà bán lẻ.
- ADDA, PGS – Hệ thống giám sát có sự tham gia cho sản phẩm hữu cơ – Cẩm
nang hoạt động cho người sản xuất, 2009

Tài liệu giới thiệu những nguyên tắc và giá trị chính của PGS cũng như đưa ra các
hoạt động chính trong vận hành và triển khai mô hình theo PGS
- VECO Việt Nam, Chia sẻ kinh nghiệm mô hình áp dụng hệ thống chứng nhận
cùng đảm bảo - PGS, nghiên cứu trong khuôn khổ dự án “Mở rộng dự án PGS tại
Tỉnh Vĩnh Phúc”, 2012
Nghiên cứu giới thiệu các nội dung cơ bản liên quan đến rau hữu cơ, các tiêu chuẩn
chứng nhận và phương thức chứng nhận. Đặc biệt, đi sâu nghiên cứu và chia sẻ các
kinh nghiệm về vận hành hệ thống chứng nhận cùng đảm bảo PGS.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai PGS tại Việt Nam cũng như phát triển sản xuất
thực phẩm sạch, an toàn có nguồn gốc hữu cơ tại Việt Nam hiện nay còn rất ít và gặp
rất nhiều khó khăn. Do vậy, có khá ít công trình nghiên cứu liên quan tới những vấn
đề này. Một số bài viết, bài nghiên cứu tập trung làm rõ lợi ích, ý nghĩa và sự phù
hợp của mô hình PGS với điều kiện sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Một số đi vào
nghiên cứu những khía cạnh sâu hơn như hành vi mua của người tiêu dùng, thái độ
của các tác nhân tham gia trong mô hình để làm rõ triển vọng cũng như những khó
khăn, thách thức đang gặp phải trong quá trình thúc đẩy sản xuất, kinh doanh thực
phẩm sạch có nguồn hữu cơ nói chung và triển khai hệ thống PGS nói riêng.
- Trung tâm nghiên cứu và phát triển hệ thống trong nông nghiệp, Kỷ yếu hội thảo
“Tham vấn báo cáo nghiên cứu tính bền vững của hệ thống đảm bảo cùng tham gia
PGS”, 2013
10
Các biết viết, bài trình bày tại hội thảo tập trung giới thiệu về hiện trạng chứng nhận
chất lượng rau tại Việt Nam, các mô hình PGS đang được áp dụng hiện nay và tóm
lược báo cáo về nghiên cứu tính bền vững của hệ thống PGS Việt Nam.
- Đào Thế Anh, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Quý Bình, Hệ thống đảm bảo có sự tham
gia (PGS) – Hướng đi mới cho rau an toàn, 2013
Nghiên cứu đã giới thiệu khái quát về công tác quản lý chất lượng trong ngành hàng
rau an toàn cũng như những khó khăn, hạn chế của công tác này trong ngành hàng
rau an toàn ở Việt Nam. Thông qua nghiên cứu và giới thiệu về mô hình đảm bảo có
sự tham gia PGS để khẳng định đây chính là mô hình phù hợp với sản xuất quy mô

nhỏ ở Việt Nam hiện nay, và sẽ là hướng đi mới, giải pháp mới để giải quyết những
khó khăn và thúc đẩy đầu ra cho sản xuất và kinh doanh rau an toàn ở Việt Nam
Tóm lại, Hệ thống đảm bảo chất lượng cùng tham gia – PGS là một hệ thống
quản lý chất lượng được áp dụng trong sản xuất thực phẩm an toàn có nguồn gốc
hữu cơ, mặc dù đã được áp dụng khá phổ biến ở một số quốc gia trên thế giới
nhưng vẫn còn là khá mới ở Việt Nam. Chưa có nhiều công trình nghiên cứu về hệ
thống này. Mặc dù vậy, đây là một mô hình đảm bảo chất lượng dựa trên quan
điểm tiếp cận hiện đại – quan điểm chuỗi giá trị, cũng như đặc biệt phù hợp với
điều kiện sản xuất, canh tác nông nghiệp quy mô nhỏ ở Việt Nam. Vì vậy, để thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ thực phẩm an toàn, cần đẩy mạnh việc triển
khai và áp dụng PGS ở Việt Nam cũng như cần có những hệ thống cơ sở lý luận và
những nghiên cứu chuyên sâu về mô hình này.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
* Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu mô hình đảm bảo chất lượng cùng tham gia - PGS trong sản xuất và
cung ứng thực phẩm hữu cơ .
* Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết của mô hình mô hình đảm bảo có sự tham gia PGS.
- Nghiên cứu việc áp dụng và thực trạng áp dụng mô hình PGS trong sản xuất
và cung ứng thực phẩm hữu cơ ở Việt Nam
- Từ việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng áp dụng, đưa ra một số
giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cương áp dụng mô hình PGS
trong sản xuất và kinh doanh thực phẩm hữu cơ nhằm thúc đẩy sản xuất đồng thời
11
thu hút và tạo sự tin tưởng của khách hàng với những loại thực phẩm an toàn, tiếp
tục mở rộng và phát triển việc áp dụng mô hình PGS tại Việt Nam
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mô hình đảm
bảo chất lượng cùng tham gia PGS (Participatory Guarantee System) và ứng dụng
mô hình trong chuỗi sản xuất, kinh doanh thực phẩm hữu cơ ở Việt Nam

- Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc triển khai và ứng dụng mô
hình PGS trong một số chuỗi sản xuất, kinh doanh thực phẩm hữu cơ ở Việt Nam,
trong đó tập trung tiến hành nghiên cứu và khảo sát ở một số vùng sản xuất hữu cơ
được chứng nhận PGS ở Hà Nội và một số tỉnh lân cận như: Lương Sơn (Hòa Bình),
Thanh Xuân (Sóc Sơn), Tân Lạc (Hòa Bình), Trác Văn (Hà Nam) và tại hệ thống các
cửa hàng có kinh doanh sản phẩm hữu cơ được chứng nhận PGS tại Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp phân tích như: Phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp phân tích thống kê, phương pháp so sánh,…
Ngoài ra, để thu thập dữ liệu cho đề tài, chúng tôi sử dụng hai nguồn dữ liệu là dữ
liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp.
5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp:
Các dữ liệu thứ cấp của đề tài:
- Thông tin về các cửa hàng kinh doanh, doanh nghiệp phân phối, các khu
vực và các nhóm sản xuất thực phẩm hữu cơ theo mô hình PGS trên địa bàn thành
phố Hà Nội và các tỉnh lân cận.
- Tra cứu các thông tin liên quan đến mô hình PGS, tình hình áp dụng cũng
như những kinh nghiệm triển khai mô hình PGS trên thế giới và ở Việt Nam thông
qua các tài liệu, sách báo trên mạng Interner và thư viện.
5.2 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp:
- Phương pháp quan sát: thông qua việc tham dự hội nghị thường niên của
PGS Việt Nam lần thứ 2 tại Lương Sơn, Hòa Bình, tiến hành tham quan và quan sát
các hoạt động, quy trình, cách thức sản xuất tại vùng sản xuất đang triển khai và
được chứng nhận theo mô hình PGS
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp những người nông dân
trong các nhóm sản xuất của mô hình để tìm hiểu thực trạng sản xuất, kinh doanh
cũng như thực trạng áp dụng mô hình PGS; Phỏng vấn một số thành viên trong Ban
12
điều phối PGS Việt Nam về tình hình triển khai áp dụng cũng như những khó khăn,
thách thức trong quá trình áp dụng mô hình.

- Phương pháp điều tra trắc nghiệm: Phát phiếu điều tra về tình hình kinh
doanh và tiêu thụ sản phẩm hữu cơ được chứng nhận PGS tại các cửa hàng trong hệ
thống PGS tại Hà Nội.
6. Kết cấu đề tài
Chương 1: Tổng quan lý thuyết về mô hình đảm bảo chất lượng cùng tham gia PGS
(Participatory Guarantee System).
Chương 2: Thực trạng triển khai và áp dụng mô hình PGS trong sản xuất và kinh
doanh thực phẩm hữu cơ ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường áp dụng mô hình PGS ở
Việt Nam.
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ MÔ HÌNH ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG
CÙNG THAM GIA - PGS (PARTICIPATORY GUARANTEE SYSTEM)
1.1 Giới thiệu chung về PGS
1.1.1 Một số khái niệm và thuật ngữ cơ bản
Theo tiêu chuẩn về sản xuất nông nghiệp hữu cơ và chế biến (10TCN602:2006)
- Hữu cơ: Được sản xuất bằng các phương pháp quản lý sản xuất đặc biệt trong đó
có chú trọng đến việc bảo vệ môi trường và đất; Không được phép sử dụng các hóa
chất hóa học tổng hợp (kể cả thuốc trừ sâu và phân bón hóa học) (trừ những chất
cho phép được liệt kê trong phụ lục 1 của tiêu chuẩn).
- Nông nghiệp hữu cơ: Là hệ thống đồng bộ hướng tới việc thực hiện các quá trình
sản xuất với kết quả là bảo đảm hệ sinh thái bền vững, thực phẩm an toàn, chất
lượng tốt, chăm sóc chu đáo động vật và công bằng xã hội; Là hệ thống sản xuất
13
không sử dụng hoặc loại trừ các chất hóa học tổng hợp trong các vật tư đầu vào, tạo
điều kiện cho sự chuyển hóa khép kín vật chất trong hệ canh tác, chỉ được sử dụng
các vật tư được quy định trong tiêu chuẩn này.
- PGS - “Hệ thống đảm bảo chất lượng cùng tham gia PGS” là hệ thống đảm bảo
dựa vào sự tham gia của các tổ chức và con người có tham gia trực tiếp vào chuỗi
cung cấp hữu cơ.

Như vậy, đây là hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ, gồm các tổ chức và con
người cùng tham gia vào quá trình sản xuất, phân phối, tiêu thụ hoặc đang sử dụng
sản phẩm hữu cơ để đảm bảo sự minh bạch, tin cậy với chất lượng hữu cơ của sản
phẩm. Hệ thống này chứng thực cho người sản xuất dựa trên sự tham gia tích cực
của các bên liên và được xây dựng trên cơ sở sự tin cậy, các liên kết xã hội và trao
đổi tri thức.
1.1.2 Sự ra đời của mô hình PGS
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là sản xuất với mục tiêu đảm bảo hệ sinh thái cây
trồng, vật nuôi, tạo ra những sản phẩm có chất lượng an toàn với người sử dụng và
đem lại hiệu quả kinh tế, duy trì và nâng cao độ màu mỡ của đất. Đó là phương
pháp nuôi, trồng rau quả, thực phẩm mà không sử dụng bất cứ một loại hoá chất độc
hại nào, như thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ hoá chất cũng như
các loại phân hoá học, sản xuất hữu cơ chú trọng đến cân bằng hệ sinh thái tự
nhiên.Trong những năm trở lại đây khi mà sản xuất nông nghiệp và chế biến thực
phẩm đang lạm dụng rất nhiều các hóa chất như thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng
trưởng, chất bảo quản thực phẩm,… gây tâm lý lo lắng cho người tiêu dùng thì các
sản phẩm hữu cơ ngày càng được người tiêu dùng chú trọng và quan tâm. Nhu cầu
về sản phẩm hữu cơ là tương đối lớn nhưng bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng còn
không ít băn khoăn rằng liệu các sản phẩm họ lựa chọn có thực sự được sản xuất
theo tiêu chuẩn hữu cơ hay không? Và họ có thể dựa vào đâu để có thể tin tưởng
rằng các sản phẩm này đạt chuẩn hữu cơ?
Nắm bắt được những mong muốn của người tiêu dùng, hệ thống đảm bảo
chất lượng cung tham gia PGS (Participatory Guarantee System) ra đời. Đây là một
hệ thống gồm các tổ chức và con người cùng tham gia vào quá trình sản xuất, phân
phối, tiêu thụ hoặc đang sử dụng sản phẩm hữu cơ để đảm bảo sự minh bạch, tin
14
cậy với chất lượng hữu cơ của sản phẩm. Qua đó tổ chức các chương trình khuyến
khích, xây dựng cộng đồng, bảo vệ môi trường và hỗ trợ các nền kinh tế địa phương
nói chung.
Năm 2004, Liên đoàn quốc tế các phong trào nông nghiệp hữu cơ (IFOAM) chấp

nhận PGS là một hệ thống đảm bảo có giá trị cho các sản phẩm hữu cơ đặc biệt là
cho thị trường nội địa. IFOAM sau đó đã lập ra một ban chuyên trách để phát triển
phương pháp PGS cụ thể hơn. Đã có rất nhiều nước trên thế giới tham gia ứng dụng
mô hình này vào thực tế sản xuất để phục vụ nhu cầu sử dụng như : New Zealand,
Mỹ, các nước châu Á như Ấn Độ, Thái Lan và một số nước ở châu Mỹ La Tinh như
Brazil, Peru. Khi ứng dụng hệ thống đảm bảo chất lượng cùng tham gia PGS ở các
nước này, cả nông dân và người tiêu dùng đã cùng đóng góp và xây dựng cho hệ
thống PGS thêm hoàn thiện, từ đó đưa PGS trở lại phục vụ cho họ. Song ở mỗi
nước, với mỗi một điều kiện tự nhiên và con người khác nhau, hệ thống PGS phải
được xây dựng và áp dụng một cách hợp lý.Bởi vậy mà hệ thống PGS ở mỗi một
quốc gia lại có một phương pháp và quy trình riêng, sao cho đó có thể phù hợp và
dễ thích nghi nhất với điều kiện thực tế của địa phương áp dụng.Tuy nhiên những
nguyên tắc cơ bản khi thực hiện việc ứng dụng hệ thống đảm bảo chất lượng cùng
tham gia PGS đều nhất quán.
Tại Việt Nam, với sự hỗ trợ của IFOAM, dự án ADDA- VNFU đã giới thiệu
ý tưởng PGS tới các nhà sản xuất, thương lái, người tiêu dùng mà dự án đang cùng
làm việc cũng như với một số nhà nghiên cứu và các tổ chức phi chính phủ tại địa
phương. ADDA là “Dự án Phát triển Nông nghiệp Hữu cơ”được tài trợ bởi Tổ
chức Phát triển Nông nghiệp Châu Á, Đan Mạch (ADDA) – Tổ chức Phi chính phủ
của Đan Mạch, phối hợp thực hiện với Hội Nông dân Việt Nam từ tháng 11/2005
đến tháng 10/2012 tại các tỉnh phía bắc bao gồm: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh,
Bắc Giang, Hải Phòng, Hòa Bình, Tuyên Quang, Lào Cai, Hà Tĩnh. Từ tháng
11/2010 đến tháng 12/2012, Dự án lựa chọn các nhóm nông dân tiềm năng, thực sự
mong muốn và quyết tâm làm nông nghiệp hữu cơ tại Sóc Sơn (Hà Nội) và Lương
Sơn (Hòa Bình) để tiếp tục củng cố và phát triển sản xuất hữu cơ một cách bền
vững. Năm 2008, các bên liên quan đã đồng ý thiết lập hệ thống PGS (participatory
guarantee system) là hệ thống đảm bảo chất lượng sản phẩm hữu cơ . Từ năm 2009
15
đến 2011, dự án đã tiến hành phát triển hệ thống PGS, bao gồm: Cơ cấu tổ chức,
thiết lập tiêu chuẩn, phương pháp giám sát và đánh giá, mẫu biểu, thủ tục đăng ký;

Tiến hành đào tạo thanh tra viên trong đó có 75 thanh tra nông dân đã được đào tạo;
Ra quyết định và cấp chứng nhận PGS cho các đơn vị đạt tiêu chuẩn
1.1.3 Phạm vi và lĩnh vực áp dụng
Như vậy, phạm vi áp dụng của hệ thống là áp dụng cho sản xuất và kinh
doanh các sản phẩm nông nghiệp có nguồn gốc hữu cơ.
Trong đó, tham gia hệ thống này không chỉ có người sản xuất mà còn có các
bên liên quan bao gồm: khách hàng, công ty phân phối, các cơ quan quản lý nhà
nước và các đối tượng quan tâm khác. Quá trình sản xuất và thu hoạch thường
xuyên được giám sát, điều tra đảm bảo phát hiện, khắc phục những sai phạm nhỏ và
loại bỏ ngay lập tức các nhóm sản xuất, các sản phẩm mắc sai phạm nghiêm trọng.
Sự tham gia và vai trò của các thành viên trong hệ thống thể hiện như sau:
- Nông dân: là những người trực tiếp sản xuất, vì thế hơn ai hết, họ nhận
thức rõ ràng được những lợi ích của việc áp dụng mô hình PGS này. Nếu như trước
đây, họ sản xuất theo phương thức thông thường, đó là sử dụng các sản phẩm hóa
học như: thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc bảo vệ thực vật, trong sản xuất thì
những sản phẩm sản xuất ra có thể đem lại cho họ nguồn thu nhập trước mắt nhưng
nó lại ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe người tiêu dùng, đồng thời ảnh hưởng trực
tiếp tới chính sức khỏe của bản thân người nông dân và cả gia đình họ. Nhưng ngày
nay khi áp dụng sản xuất theo mô hình PGS này, lợi ích lớn nhất mà việc làm này
đem lại chính là người nông dân thực sự thoải mái khi những sản phẩm của họ
không chỉ tốt cho người tiêu dùng, tốt cho gia đình họ ngoài ra còn giúp họ kiếm
thêm thu nhập.
- Các thành viên khác:
+ Đối với các nhà bán lẻ: nhu cầu về các sản phẩm hữu cơ của khách hàng
ngày càng gia tăng, áp dụng theo các tiêu chuẩn của PGS giúp các nhà bán lẻ có thể
hoàn toàn yên tâm về các sản phẩm của mình tuyệt đối xuất xứ hữu cơ và tốt cho
sức khỏe của người tiêu dùng, góp phần tạo dựng thương hiệu uy tín cho cửa hàng.
16
+ Đối với ban điều phối PGS: hướng dẫn người nông dân sản xuất theo mô
hình PGS, góp phần cung cấp một nguồn thực phẩm sạch, an toàn, hữu cơ tuyệt đối

tới người tiêu dùng.
Khi tham gia, các thành viên cần phải:
 Ở mức độ cá nhân
- Thực sự hứng thú làm canh tác hữu cơ chứ không vì tiền.
- Thực sự hiểu và tuân thủ theo các tiêu chuẩn hữu cơ.
- Quyết tâm (thể hiện trong việc hoàn thành một bản cam kết)
 Ở mức độ nhóm
- Cùng rà soát lại nhau (kiểm tra chéo)
- Kiểm tra không chính thức bằng cách thường ngày các thành viên quan sát
nhau khi thực hiện các hoạt động ở trang trại (áp lực đồng sự).
- Kiểm tra chính thức bởi thanh tra và được lưu lại thành các văn bản.
- Chia sẻ và trợ giúp nhau giải quyết vấn đề (cùng chủ động).
Việc chia sẻ và giúp đỡ nhau trong nhóm được thể hiện ở chỗ mọi người
cùng nhau tìm cách giải quyết khi có khó khăn nào nảy sinh. VD: ở giai đoạn đầu,
nếu có vấn đề về sâu bệnh được xác định, nông dân có thể cùng nhau bàn bạc tìm
cách giải quyết vấn đề bằng các phương tiện hữu cơ để tránh tình trạng một nông
dân trong nhóm không tìm ra cách giải quyết hữu cơ nào phù hợp và quyết định sử
dụng thuốc trừ sâu.
Tuy nhiên mọi người trong hệ thống PGS đều chung quan điểm: để các thành
viên bên ngoài cùng tham gia vào quá trình áp dụng hệ thống PGS là một diều tốt mà
qua đó tính tin cậy của các sản phẩm PGS càng được khẳng định và thể hiện rõ hơn.
1.1.4 Mục tiêu và lợi ích áp dụng
Mục tiêu của PGS dựa trên mục tiêu của các cơ quan chứng nhận từ bên
ngoài, đó là cung cấp một hệ thống đảm bảo đáng tin cậy cho người tiêu dùng đang
tìm kiếm và có nhu cầu sử dụng các sản phẩm hữu cơ.
Phương pháp của hệ thống PGS là khuyến khích hoặc thậm chí có thể yêu cầu
sự tham gia trực tiếp của người nông dân và người tiêu dùng vào quá trình cấp chứng
nhận để đảm bảo yếu tố khách quan với người sử dụng. Sự tham gia trực tiếp này giúp
các chương trình của PGS giảm bớt được các công việc giấy tờ và ghi chép hồ sơ, đồng
17

thời tạo điều kiện cho những nông dân sản xuất nhỏ trong hệ thống hữu cơ có thể cùng
tham gia và giữ cho việc cấp chứng nhận đơn giản hơn, có chi phí thấp hơn.
Bên cạnh đó, áp dụng mô hình PGS sẽ giúp tăng số lượng các sản phẩm hữu
cơ có sẵn trong thị trường địa phương, đặt trọng tâm vào việc bán hàng trực tiếp cho
người tiêu dùng để người nông dân có thể nhận được nhiều lợi nhuận hơn so với
việc bán sản phẩm cho người bán buôn.
Đối với người tiêu dùng, tham gia vào hệ thống này còn có thể giúp họ nâng
cao hiểu biết hơn về kỹ thuật sản xuất hữu cơ, khả năng hoạt động cộng đồng và
tăng niềm tin vào chất lượng của các sản phẩm hữu cơ.
1.1.5 Những nguyên tắc và giá trị chính của PGS
Người tiêu dùng rất quan tâm đến sức khoẻ của gia đình họ. Họ nhận thấy
những lợi ích của các sản phẩm hữu cơ và sẵn sàng hỗ trợ nông dân sản xuất thực
phẩm hữu cơ bằng việc chấp nhận trả giá cho sản phẩm cao hơn. Thế nhưng, họ
muốn được đảm bảo rằng sản phẩm họ mua phải thực sự là hữu cơ và không có
chứa bất kì hoá chất độc hại hoặc các chất khác có hại cho sức khoẻ. Mặt khác,
người nông dân muốn bán sản phẩm hữu cơ và có thể nhận được lợi nhuận xứng với
những nỗ lực mà họ bỏ ra để làm ra sản phẩm tốt hơn cho sức khoẻ và tạo ra một
môi trường lành mạnh hơn. Nhưng họ lại băn khoăn liệu có thể tìm được khách
hàng sẵn sàng mua sản phẩm hữu cơ của họ ở đâu. Giá trị của hệ thống PGS nằm ở
chỗ nó chú trọng vào cả hai vấn đề: cung cấp cho người tiêu dùng sự đảm bảo đáng
tin cậy về những sản phẩm được sản xuất theo tiêu chuẩn và thông qua quá trình
này, PGS giúp tạo sự kết nối trực tiếp giữa người mua và người bán.
Sau khi cùng làm việc, nhóm PGS Việt Nam đã xác đinh một số nguyên tắc
chung như sau:
Tin tưởng nhau
Là nền tảng cơ bản của PGS. Nó xuất phát từ ý tưởng rằng nông dân, người
tiêu thụ, các thương lái, kĩ thuật viên, v…v có khả năng thực hiện công việc của
mình và thực hiện một cách có trách nhiệm và tin cậy; họ có những điều kiện cần
thiết để nâng cao chất lượng và thể hiện sản phẩm hữu cơ của mình. Hệ thống PGS
phản ánh năng lực của mỗi cộng đồng qua sự tin tưởng và ứng dụng nó vào bộ máy

điều hành văn hoá, xã hội khác nhau và cung cấp sự giám sát cần thiết để đảm bảo
18
tính liêm chính cho nông dân làm hữu cơ của họ. Những giá trị này là không thay
đổi trong suốt quá trình chứng nhận.
Minh bạch
Tất cả các bên liên quan, gồm cả nông dân, bắt buộc phải hiểu chính xác bộ
máy đảm bảo PGS sẽ hoạt động như thế nào và việc ra các quyết định được tiến
hành ra sao. Điều này không có nghĩa là mọi chi tiết đều được tất cả mọi người
cùng biết. Nhưng tất cả mọi người cần phải có những hiểu biết cơ bản về các chức
năng của hệ thống. Ví dụ:
* Mọi người cần phải hiểu ra quyết định cấp chứng nhận được dựa trên những
tiêu chí nào, đặc biệt là lý do tại sao một số trang trại lại không được cấp
chứng nhận.
* Những tài liệu sẵn có về PGS
* Những tài liệu này sẵn có cho tất cả các bên có mối quan tâm về hữu cơ có
thể sử dụng
* Tuy nhiên những thông tin riêng và thông tin nhạy cảm về thương mại được
thu thập trong quá trình thực hiện PGS phải được bảo mật.
Cùng hợp tác và cùng chịu trách nhiệm:
Hệ thống PGS không thể hoạt động nếu thiếu sự hợp tác giữa các thành viên.
Trong PGS, ở các cấp khác nhau đều có những trách nhiệm riêng được xác định rõ và
ở tất cả các cấp, tất cả các bên liên quan đều chia sẻ trách nhiệm trong hoạt động PGS.
Phát triển
Bằng việc tham gia hệ thống PGS, các đối tác khác nhau sẽ cùng phát triển
năng lực riêng của mình để lập kế hoạch và quản lí các hoạt động cụ thể. Khi tiến
trình ra quyết định được phân quyền, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo sự
năng động và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên PGS.
Chia sẻ niềm tin “Thức ăn lành cho cuộc sống khỏe mạnh”.
Một trong những điều cốt lõi đó là những người tham gia vào PGS cùng
chia sẻ niềm tin của họ vào điều ăn thức thức ăn lành là cách để có cuộc sống khỏe

mạnh. Nông dân PGS đã cam kết sản xuất thức ăn hữu cơ có lợi cho sức khoẻ, điều
này đã giúp họ đến với những người tiêu dùng quan tâm theo cả hai cách hoặc là
trực tiếp hoặc thông qua những lái thương trong hệ thống PGS.
19
Quan tâm về “đời sống nông thôn:
Với việc đưa người tiêu thụ và người sản xuất lại gần nhau hơn, PGS cũng
giúp tạo ra sự quan tâm tốt hơn về “đời sống nông thôn”, hiểu biết về những điều
kiện và những khó khăn của nông dân.
1.2 Triển khai áp dụng mô hình đảm bảo chất lượng cùng tham gia PGS
1.2.1 Cấu trúc mô hình PGS
Hệ thống PGS có một cấu trúc đơn giản gồm nhiều “đơn vị”, mỗi đơn vị có vai
trò và nhiệm vụ riêng được miêu tả theo bảng dưới đây:
1. Hộ nông dân cá thể:
Để tham gia vào nhóm sản xuất, nông dân phải liên hệ với người lãnh đạo
nhóm sản xuất trong khu vực của họ.
Vai trò và nhiệm vụ chính của nông dân và các thành viên trong gia đình họ gồm:
• Học các nguyên tắc và phương pháp làm canh tác hữu cơ.
• Tham gia một cách tích cực vào tất cả các hoạt động bao gồm các cuộc
họp nhóm, các hoạt động tập huấn, thanh tra, v…v
• Học về các tiêu chuẩn PGS
• Điền vào Kế hoạch quản lí trang trại và cập nhật nó thường xuyên.
• Làm cam kết và nghiêm ngặt tuân thủ theo cam kết
• Cung cấp các sản phẩm hữu cơ và đảm bảo chất lượng của chúng.
20
• Khuyến khích và giúp đỡ các nông dân khác tham gia PGS.
2. Nhóm sản xuất:
- Một nhóm sản xuất bao gồm ít nhất 5 hộ nông dân sống ở gần nhau.
- Nhóm sản xuất sẽ :
• Đáp ứng các hoạt động hỗ trợ cho các thành viên ( ví dụ: trong việc sản
xuất hoặc quản lí sổ sách)

• Thu thập các bản cam kết của thành viên và đảm bảo rằng các thành viên
hiểu rõ về các tiêu chuẩn của PGS.
• Lập kế hoạch sản xuất của nhóm và tuyên truyền các sản phẩm của nhóm.
• Tiến hành kiểm tra chéo định kỳ ( kiểm tra của thanh tra ) cho tất cả các
thành viên nhóm.
• Thúc đẩy các thành viên trong nhóm đạt được mục đích và mục tiêu của nhóm.
• Đảm bảo tính công bằng và tránh xung đột quyền lợi giữa các thành viên.
- Tạo dựng một nhóm sản xuất:
• Bất cứ nông dân nào cũng có thể khởi đầu thành lập một nhóm sản xuất của
những nông dân làm hữu cơ. Nhóm sản xuất cần có ít nhất 5 thành viên. Nhóm phải
nằm ở tại địa phương (cụ thể là các thành viên phải quen nhau và biết đồng ruộng
sản xuất của nhau).
• Các thành viên nhóm sản xuất co hệ thống sản xuất tương tự nhau.
• Để hình thành một nhóm, nông dân phải hoàn thành “bản đăng ký tham gia
PGS của nhóm sản xuất” và gửi tới Ban điều phối PGS.
• Ban điều phối sẽ sắp xếp đưa nhóm sản xuất vào trong liên nhóm thích hợp.
Trưởng của liên nhóm sẽ liên hệ trực tiếp với nhóm sản xuất. Tiến trình này sẽ bắt
đầu bằng việc đào tạo nông dân trong nhóm sản xuất về các tiêu chuẩn hữu cơ của
PGS và hoàn thành đơn cam kết của mình.
• Nhóm sản xuất sẽ phải đảm bảo rằng tất cả các thành viên đang canh tác
hoặc chế biến hữu cơ sẽ hoàn thành đơn cam kết, đọc và học những tài liệu cơ bản
nhất về PGS được cung cấp.
- Chức năng của nhóm sản xuất
• Nhóm sản xuất tự xây dựng nội quy, quy chế của riêng mình, sử dụng
biểu mẫu được liên nhóm cung cấp. Nội quy, quy chế của nhóm cần được thảo
21
luận và đồng ý bởi tất cả các thành viên trong buổi họp đầu tiên và sau đó được
viết lại thành văn bản. Một bản copy những nội quy quy chế này được gửi đến
nhóm điều phối xem xét để bảo đảm rằng không có mẫu thuẫn với các quy định
chung của PGS ( được ghi trong cẩm nang hoạt động PGS).

• Nhóm sản xuất sẽ hoàn thành tài liệu của nhóm bao gồm cơ cấu tổ chức,
các thủ tục ra quyết định minh bạch và tiến trình bầu chọn cán bộ nhóm. Các buổi
họp của nhóm sản xuất sẽ được tiến hành một cách chính qui có kèm theo biên bản
các cuộc họp. Mỗi nhóm sản xuất sẽ có một hệ thống lưu giữ các tài liệu chính (
xem phụ lục 3 của cuốn cẩm nang này để biết thêm chi tiết). Nhóm điều phối có
thể kiểm tra các tài liệu để đảm bảo rằng nhóm sản xuất hoạt động theo đúng yêu
cầu. Đơn đăng ký tham gia PGS của nhóm sản xuất cũng như quyền tham gia
vào hệ thống chứng nhận PGS của nông dân có thể sẽ bị hủy bỏ nếu như có các
hoạt động yêu cầu không được thực hiện
• Nhóm sản xuất chịu trách nhiệm đảm bảo tất cả các thành viên tham gia đầy
đủ các buổi đào tạo được tổ chức thông qua liên nhóm và hoàn thành tất cảc các tài liệu
theo yêu cầu. Nhóm điều phối PGS có thể hỗ trợ để tổ chức các buổi đào tạo.
• Nhóm sản xuất có thể đáp ứng sự hỗ trợ cho các thành viên để phát triển
các mối liên kết với thị trường. Nhóm sản xuất có thể có biểu trưng (logo) riêng,
khẩu hiệu và xây dựng thương hiệu riêng. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, họ
vẫn phải tuân thủ các qui đinh chung trong việc sử dụng nhãn hiệu PGS. ( xem
chương 13 để biết thêm chi tiết).
3. Liên nhóm:
Một liên nhóm bao gồm một số các nhóm sản xuất ở một khu vực nhất định.
Các thành viên bao gồm trưởng của tất cả các nhóm sản xuất cũng như các thành
viên từ bên ngoài như người tiêu dùng, thương lái, các quan chức địa phương, giảng
viên nông dân hoặc nhân viên của các tổ chức phi chính phủ, đang làm việc trong
khu vực của liên nhóm.
- Nhiệm vụ và vai trò của liên nhóm là:
• Làm việc như một điểm liên lạc của nông nghiệp hữu cơ và PGS
• Điều phối tiến trình hoàn thành bản kế hoạch quản lí trang trại và bản
cam kết của nông dân, đảm bảo rằng các thành viên hiểu rõ về tiêu chuẩn PGS.
22
T
• Lưu giữ hệ thống dữ liệu và cập nhật hàng năm tình trạng hữu cơ cũng

như những hoạt động sản xuất của các thành viên.
• Điều phối tiến trình kiểm tra chéo
• Kiểm tra sổ sách của tiến trình kiểm tra chéo của mỗi nhóm sản xuất.
• Xem xét các tài liệu kiểm tra chéo của các nhóm và đôn đốc các hoạt
động khi cần
• Ra quyết định chứng nhận.
• Có các xử lý khi có gian lận hoặc sai phạm.
• Điều phối kế hoạch sản xuất cho tất cả các nhóm trong liên nhóm và
quảng bá các sản phẩm của liên nhóm.
• Thúc đẩy các thành viên liên nhóm đạt được các mục tiêu, mục đích của
liên nhóm
• Đảm bảo không có xung đột quyền lợi giữa các thành viên.
• Hàng năm báo cáo tới nhóm điều phối PGS theo đúng quy định.
- Thành lập liên nhóm:
• Trách nhiệm của việc thành lập liên nhóm phụ thuộc vào nhóm điều phối. Khi
nhận được một yêu cầu từ nông dân hoặc từ một nhóm sản xuất, quá trình hình
thành Liên nhóm sẽ bắt đầu.
• Các thành viên của liên nhóm sẽ bao gồm các nhóm trưởng của các nhóm
sản xuất cũng như các thành viên không phải là nông dân như cán bộ của các tổ
chức phi chính phủ, thương lái, các tổ chức của người tiêu dùng hoặc các tổ chức ở
địa phương như Hội Nông dân. (Các thương lái, các tổ chức phi chính phủ và tổ
chức của người tiêu dùng này cũng nên tự đăng kí là thành viên của PGS!)
• Trong Liên nhóm, các thành viên không phải là nông dân có thể góp phần soạn
thảo các báo cáo, bảo quản các số liệu và tham gia vào quá trình giám sát hoặc ra quyết
định. Họ sẽ cam kết làm thành viên cho Liên nhóm trong khoảng thời gian là 2 năm.
• Liên nhóm sẽ lựa chọn một ban Quản Lí trong số các thành viên liên
nhóm để chịu trách nhiệm cho các hoạt động chung của Liên nhóm.
• Trong quá trình cấp chứng nhận, Liên nhóm sẽ lựa chọn:
+ Hội đồng chứng nhận (số lượng các thành viên phụ thuộc vào Liên nhóm
nhưng nên bao gồm cả các thành viên là nông dân và không phải là nông dân). Vai

trò của Hội đồng chứng nhận là: xem xét lại các báo cáo thanh tra của các nhóm
23
sản xuất để quyết định tình trạng cấp chứng nhận cho nông dân, đôn đốc, theo
dõi và đưa ra hình thức kỷ luật đối với các trường hợp vi phạm.
+ Người quản lí việc cấp chứng nhận (Giám đốc chứng nhận). Giám đốc
chứng nhận sẽ:
Điều phối hoạt động của hội đồng cấp chứng nhận.
Điều hành tiến trình cấp chứng nhận và đồng ý cấp chứng nhận cho các
nhóm sản xuất
Trả lời những thắc mắc về các vấn đề đầu vào được phép sử dụng của PGS.
Lên lịch và thu xếp với các trưởng nhóm việc kiểm tra chéo trong các nhóm
sản xuất
Kiểm tra tất cả các báo cáo kiểm tra chéo (Danh mục thanh tra theo nhóm
của PGS)
Truyền đạt tới nhóm điều phối tất cả các vấn đề liên quan đến việc kiểm tra
chéo và việc cấp chứng nhận, bao gồm các vi phạm, biện pháp kỷ luật, thanh tra
ngẫu nhiên, kiểm tra dư lượng.
4. Nhóm điều phối PGS:
Nhóm điều phối PGS chịu trách nhiệm những vấn đề lớn phổ biến trong các
liên nhóm nói chung. Các thành viên của nhóm điều phối là các tình nguyện viên có
năng lực kĩ thuật được chọn tại các cuộc họp thường niên của PGS.
- Vai trò và trách nhiệm của nhóm điều phối viên bao gồm:
• Bảo vệ quyền lợi của các Liên nhóm, nông dân và PGS.
• Duy trì và cập nhật các tiêu chuẩn hữu cơ PGS và phê chuẩn hướng dẫn
vật tư đầu vào trong sản xuất để áp dụng trong thanh tra và trừng phạt.
• Tiếp nhận các đơn đăng kí từ các nhóm sản xuất mới và phân bổ tới Liên
nhóm thích hợp.
• Hỗ trợ các nhóm sản xuất và các Liên nhóm cải tiến các thủ tục và hệ thống.
• Điều phối việc lấy mẫu kiểm tra ngẫu nhiên thuốc sâu tại trang trại hoặc
cửa hàng.

• Tiếp nhận các thông tin/ báo cáo từ Liên nhóm.
• Cấp giấy chứng nhận
• Quảng bá các sản phẩm hữu cơ
24
• Chịu trách nhiệm quản lí nhãn hiệu riêng của PGS (tên thương mại)
• Báo cáo tới các cấp cao hơn và các nhóm địa phương
• Quảng bá và liên hệ với các cơ quan thông tin đại chúng.
- Thành lập nhóm điều phối:
• Nhóm điều phối PGS gồm năm thành viên khác nhau trong hệ thống của
PGS tình nguyện tham gia. Trong phiên họp thường niên, các thành viên của
nhóm PGS sẽ chỉ định ra nhóm điều phối. Các thành viên của nhóm sẽ được chỉ
định trong hai năm. Cố gắng đảm bảo rằng các thành viên của nhóm điều phối có
đủ năng lực kĩ thuật để hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
• Nhóm điều phối sẽ chỉ định một hành chính viên. Người này sẽ chịu trách
nhiệm duy trì các cơ sở dữ liệu của hệ thống PGS, phát hành giấy chứng nhận và là
người liên lạc cho PGS và nhóm điều phối.
• Nhóm điều phối sẽ chỉ định một Hội đồng Tiêu Chuẩn để xem xét lại các
tiêu chuẩn hữu cơ và các đầu vào sản xuất được phép sử dụng. Những thay đổi
trong các tiêu chuẩn hữu cơ sẽ được trình lên cuộc họp thường niên của PGS để
phê chuẩn. Các thành viên của Hội đồng Tiêu Chuẩn có thể là những người bên
ngoài nhóm điều phối hoặc thậm chí bên ngoài các tổ chức thành viên của PGS, ví
dụ một chuyên viên từ Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn hoặc từ một
trường đại học.
• Nhóm điều phối có trách nhiệm cai quản toàn bộ hệ thống PGS đặc biệt về vấn
đề liêm chính và các tiêu chuẩn của hệ thống PGS. Mặc dù các liên nhóm chịu trách
nhiệm cho các hoạt động sản xuất thường ngày của các nhóm trực thuộc, tuy nhiên một
số công việc vẫn cần có sự trợ giúp của các chuyên gia kĩ thuật và quản lí ở cấp cao hơn.
• Để bảo vệ dấu niêm phong PGS, nhóm điều phối sẽ có quyền kiểm tra các
hoạt động trong nội bộ các nhóm sản xuất và liên nhóm khi có yêu cầu. Họ cấp
chứng nhận và cũng sẽ có quyền từ chối cấp chứng nhận.

• Một trọng trách của nhóm điều phối là duy trì hệ thống dữ liệu PGS bao gồm:
+

Các thông tin cơ bản của các nhóm sản xuất ( ngày thành lập, danh sách
thành viên, v v)
+Thông tin chi tiết về hiện trạng cấp chứng nhận của từng người sản xuất.
25

×