Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Những tác động của chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát tại Việt nam từ 2008 đến nay, đề xuất một số kiểm soát lạm phát bằng chính sách tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.4 KB, 43 trang )


Mục Lục

43
T
r

1. LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1 Khái niệm lạm phát
Có rất nhiều quan điểm khác nhau nhìn nhận và định nghĩa lạm phát
- Theo Mác: “Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu thông
tiền tệ, vượt quá các nhu cầu của kinh tế thực tế làm cho tiền tệ bị mất giá và
phân phối lại thu nhập quốc dân”.
- J.M Keynes và trường phái tiền tệ ở Đức và Mỹ thì quan niệm: “Lạm phát là
do sự vi phạm quá trình tái sản xuất năm trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ…, là sự
phát hành tiền quá mức tạo ra cầu dư thừa thường xuyên…”
- Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền
và hàng trong nền kinh tế, điều này đã đẩy giá cả hàng hóa lên cao ở mọi lúc mọi
nơi.
Tuy nhiên, Milton Friedman đã phát hiện ra những đặc trưng cơ bản của lạm
phát đó là: Sự thừa tiền do cung tiền tệ tăng lên quá mức, sự tăng giá cả đồng bộ
và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy, sự phân phối lại giá cả, sự bất ổn về
kinh tế xã hội.
Và từ đó đưa ra một khái niệm về lạm phát được nhiều người chấp nhận:
“Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá cả chung
tăng nhanh và kéo dài trong một thời gian dài.”
1.2 Phân loại lạm phát
Phân loại lạm phát dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau
1.2.1 Căn cứ vào tốc độ lạm phát
- Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát vừa phải, tốc độ gia tăng giá cả chậm
(<10%/năm)


- Lạm phát phi mã: là loại lạm phát hai hoạc ba con số (20%, 100%,
200% /năm), đồng tiền bị mất giá nhanh chóng, lãi suất thực thường âm. Ít
người nắm giữ lượng tiền mặt quá mức tối thiểu cần thiết, hang hóa được
ưu chuộng. Thị trường tài chính có nguy cơ lụn bại do vốn bị chảy ra nước
ngoài.
- Siêu lạm phát: là loại lạm phát trên bốn con số chỉ xảy ra vào thời kỳ có
chiến tranh hoặc khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế: đó là mức tăng giá hàng
T
r

năm tới 8-10 chữ số không trong 1 năm. VD: ở Bolivia (1985) 50000%, ở
Đức (1922-1923) 1000% Giá cả tăng nhanh hơn cả tỉ lệ tăng của tiền,
hàng hóa khan hiếm.
1.2.2 Căn cứ vào tính chất chủ động – bị động từ phía chính phủ đối phó lạm
phát
- Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng
năm trong một thời kỳ tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại
lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp
theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có
sự chuẩn bị trước, nên lạm phát này không gây ảnh hưởng đến đời sống –
kinh tế.
- Lạm phát không cân bằng và không dự đoán trước: xảy ra đột biến mà có
thể từ trước đến giờ chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm
lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó, loại lạm phát này
sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của người dân vào chính
quyền có phần giảm sút.
1.2.3 Căn cứ vào quá trình bộc lộ lạm phát
- Lạm phát ngầm: là lạm phát đang còn ở giai đoạn tiềm ẩn, bị kiềm chế về
tốc độ tăng giá, hoặc biểu hiện ở dạng giá cả không tăng nhưng ngày càng
khan hiếm hàng hóa hay giảm chất lượng hàng hóa hay dịch vụ cung cấp.

- Lạm phát công khai: có sự biểu hiện tăng phổ biến giá cả hàng hóa, dịch vụ
rõ nét trên thị trường…
1.3 Nguyên nhân dẫn đến lạm phát:
1.3.1 Lạm phát do cầu kéo:
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu trong nền kinh tế cao hơn tổng
cung trong cùng thời điểm đó, có thể do tổng cầu tăng nhưng tổng cung không
đổi, hoặc tổng cung cũng tăng nhưng không bằng tổng cầu. Khi đó, thị trường
sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hoá, theo quy luật cung cầu thì trong trường
hợp này giá cả thị trường sẽ tăng lên, làm xuất hiện lạm phát.
Phương trình tổng cầu: AD = C + I + G + X – M
Tổng cầu tăng có thể do các nguyên nhân:
T
r
PY
0
Yp
Y1

- Các hộ gia đình tăng chi tiêu do thu nhập tăng, hoặc do được chính phủ giảm
thuế, tăng trợ cấp…
- Chính phủ tăng các khoản chi tiêu cho an ninh quốc phòng, tăng đầu tư chính
phủ…
- Các DN tăng đầu tư do xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn.
- Kim ngạch XNK thay đổi theo hướng chênh lệch X – M ngày càng tăng do
đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ, xuất khẩu tăng so với nhập khẩu…
- NHTW thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, làm lãi suất giảm, các DN vay
tiền đầu tư nhiều hơn…
1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy:
Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc
năng lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút. Chi phí đầu vào tăng có thể do giá

các nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất tăng. Điều kiện khai thác khó
khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí hơn, thiên tai làm mất mùa, lụt bão, động đất
làm giảm năng lực sản xuất… Các chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành sản
phẩm và buộc DN tăng giá bán để bù đắp chi phí. Giá bán của các hàng hoá
tăng – tạo lạm phát. Mặt khác, giá bán tăng kéo dài, theo quy luật cung cầu
làm giảm tổng cầu, các DN sẽ cắt giảm sản xuất, sa thải nhân công. Hậu quả
dẫn đến nền kinh tế lúc này vừa có lạm phát lại vừa bị suy thoái.
Nếu lạm phát cầu kéo ở mức vừa phải là một điều kiện rất tốt cho nền kinh
tế do nó kích thích đầu tư mở rộng sản xuất. Người ta còn ví nó như một chất
T
r
AS2
AD
P1
P
Y

dầu bôi trơn cho bộ máy kinh tế. Nhưng lạm phát chi phí đẩy thì dù bất kỳ
mức độ nào cũng đều không tốt, vì bản thân nó đã mang tính chất làm cho
mức giá trung bình của hàng hóa tăng lên.
1.4 Cách đo lường lạm phát
1.4.1 Công cụ
Để đo lường lạm phát ngưởi ta sử dụng chỉ số giá. Có 3 loại chỉ số giá
thông dụng:
- Chỉ số giá tiêu dùng CPI: đo lường biến động của mức giá trung bình của
những hàng hóa và dịch vụ thông thường mà một gia đình tiêu dùng ở kỳ hiện
hành so với kỳ gốc. Có hai cách đo lường CPI:
CPI =
Trong đó:
 : giá sản phẩm i ở kỳ hiện hành

 : giá sản phẩm i ở kỳ gốc
 : số lượng mặt hàng I được quy định tính trong chỉ số
 Chi số giá sán xuất PPI/WPI: đo lường biến động của mức giá trung bình
của những hàng hoá dịch vụ bán sỷ, được dùng làm đầu vào cho sản xuất
ở kỳ hiện hành so với kỳ gốc
PPI =
T
r

- Chỉ số giá giảm phát GDP (D%): đô lường biến động của mức giá trung bình
của tất cả hàng hoá dịch vụ mà một nền kinh tế sản xuất được, ở kỳ hiện hành
so với kỳ gốc
D% =
1.4.2 Các cách đo lường tỷ lệ lạm phát
- Cách 1:
∏ = x 100%
Trong đó:
 ∏ : tỷ lệ lạm phát thời kỳ t
 : mức giá thời kỳ t
 : mức giá thời kỳ trước đó
Muốn tính được ∏ trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử dụng chỉ
số giá nào để phản ánh mức giá. Người ta thường dùng GDP và CPI để
đo lường mức giá chung. Tuy nhiên mục tiêu là xác định ảnh hưởng của
lạm phát đến mức sống thì CPI tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế các số
liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tính trên cơ sở CPI.
 Cách 2:
∏ = x 100%
Với:
 : tỷ số giảm phát năm t
 : tỷ số giảm phát năm trước t-1

1.5 Tác động của lạm phát trong nền kinh tế
1.5.1 Tác động của lạm phát tới hoạt động ngân hàng:
Lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó
khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy
sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của
thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối
với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại
hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo
ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy
động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh
doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ
thống Ngân Hàng Thương Mại (NHTM).
T
r

Nhưng trong thực tế, tăng lãi suất là giảm cung tiền. Tuy nhiên, lãi suất
liên tục tăng cao không chỉ có khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp trong việc
tiếp cận vốn vay, mà còn khó khăn cho NHTM trong việc huy động vốn trung
và dài hạn vì thực tế khi lãi suất ở một mức quá cao, các nhà đầu tư sẽ lợi
dụng sự cạnh tranh trong việc tăng lãi suất của các NHTM để tranh thủ kiếm
lời từ những ngân hàng có mức lãi suất cao hơn, từ đó làm cho lạm phát ngày
càng nghiêm trọng. Tuy nhiên, đó chỉ là biện pháp trong ngắn hạn.Vì vậy, khi
việc tăng lãi suất có dấu hiệu không tiếp tục mang lại hiệu quả thì cần xem xét
tới biện pháp duy trì lãi suất ổn định và có xu hướng giảm dần.
Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch
hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện
lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới
(WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên
50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh
toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN

thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các
NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt
là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực
hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động
Vì vậy, NHNN phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền
trong lưu thông, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng
với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ
rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay
cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro
đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại
tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn
đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các
khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn
trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng
đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy
ra là điều khó tránh khỏi.
T
r

1.5.2 Tác động của lạm phát tới việc phân phối lại thu nhập:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là tỷ số phản ảnh giá cả của một rổ hàng hóa
chọn lựa qua các năm khác nhau so với giá của cùng rổ hàng hóa đó trong một
năm được chọn là năm gốc. Đó là một thước đo của lạm phát. Giá tiêu dùng
tăng cao ắt sẽ dẫn đến lạm phát. Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong
nước.Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi
tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn.
Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong tương lai của họ bị
giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến
khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các
hoạt động sản xuất

Ví dụ: Khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửi thì
dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai
khiến giá cả đất đai tăng cao ).
Lạm phát cao đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập
không tăng kịp mức tăng của giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu
nhập cố định như là những người hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi
và mức sống của họ sẽ bị giảm đi.
1.5.3 Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm.
Trong điều kiện lạm phát vừa phải sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển vì
nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho
các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích thích sự tiêu dung của chính phủ và nhân
dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có quan hệ nghịch biến.Nhà kinh tế đoạt giải
Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát vừa phải sẽ là “ dầu bôi trơn”
cho kinh tế Lạm phát khuyến khích nhà đầu tư mở rộng sản xuất.Việc làm
được tạo thêm.Tỉ lệ thất nghiệp giảm.Có thể nhận thấy qua mô hình đường
Phillips.
T
r

Mô hình đường cong Phillip
1.5.4 Tác động của lạm phát đến chi phí xã hội:
− Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền
và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm
phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải
thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật
ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng
như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có
lạm phát.
− Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh

nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
− Giá cả tương đối biến đổi mạnh hơn: Làm thay đổi giá tương đối một cách
không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá
(và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không
tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh
nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá.
Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm
phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
− Thay đổi gánh nặng thuế: lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của
các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính
đến ảnh hưởng của lạm phát.
Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi
nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu
nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
T
r

Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này
co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của
mình.
1.6 Chính sách tiền tệ
1.6.1 Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do NHTW khởi thảo và
thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu:
ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế. Cụ thể,
chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHTW thông qua các hoạt
động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ
cho việc thực hiện các mục tiêu KT – XH của đất nước trong một thời kì nhất
định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh

tế – tài chính vĩ mô của chính phủ.
1.6.2 Phân loại
- Chính sách tiền tệ mở rộng (chính sách tiền tệ nới lỏng): được áp dụng trong
điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, thất nghiệp gia tăng. Trong trường hợp này
việc nới lỏng làm cho lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế tăng, tạo công ăn
việc làm cho người lao động, thúc đẩy đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Chính sách tiền tệ thu hẹp (chính sách tiền tệ thắt chặt): được áp dụng khi nền
kinh tế có sự phát triển quá nóng, lạm phát ngày càng gia tăng. Việc thắt chặt
làm giảm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, giúp kiểm soát lạm phát.
1.7 Các công cụ của chính sách tiền tệ
1.7.1 Dự trữ bắt buộc
- Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền do NHTW quy định mà các NH
phải gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay và
thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của
khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân
hàng.
- Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến
số nhân tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của các NHTM. Mặt khác khi tăng (giảm)
T
r

tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm
cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm
(tăng).
- Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý nhà nước nên giúp NHTW
chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng
rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng
tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì
việc tổ chức thực hiện nó rất chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng
không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.

1.7.2 Lãi suất
- Khái niệm: NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho
vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh
hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý
mức cung tiền của mình.
- Cơ chế tác động: việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho
lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
- Đặc điểm: giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục
tiêu của từng thời kỳ. Điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện
để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Song, nó dễ làm mất đi tính
khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của
vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong
nến kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho
các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.7.3 Hạn mức tín dụng
- Khái niệm: là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không
được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định (một năm) để
thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình. Việc định ra hạn mức tín
dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩmô (tốc độ
tăng trưởng, lạm phát ). Sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các
NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định.
- Cơ chế tác động: đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với
lượng tiền cung ứng. Việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho
T
r

nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục
tiêu của NHTM.
- Đặc điểm: giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi

các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao
trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh
tế. Song nhược điểm của nó rất lớn: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các
NHTM, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ phát sinh nhiều
hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm
hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên.
1.7.4 Nghiệp vụ thị trường mở
- Khái niệm: là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện
trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ, qua đó điều tiết lượng tiền
cung ứng.
- Cơ chế tác động: khi NHTW mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơsố tiền
tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm
thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R), nếu bao gồm cả công chúng thì
nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông (C).
- Đặc điểm: do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một
công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của chính sách tiền tệ vì khối
lượng chứng khoán mua (bán) tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều
chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện
thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham
gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát
triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
1.7.5 Tỷ giá hối đoái
- Khái niệm: tỷ giá hối đoái là đại lượng biều thị mối tương quan về mặt giá trị
giữa hai đồng tiền. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền
tệ nước này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền tệ nước khác.
- Cơ chế tác động: tác động đến hoạt động kinh tế, từ hoạt động XNK đến sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa.
- Đặc điểm: NHTW có thể ấn định tỷ giá cố định hay thả nổi theo quan hệ cung
cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Bên canh đó còn có tỷ giá cố định

T
r

nhưng di động khi cần thiết và tỷ giá thả nổi có quản lý. Khi vận dụng công cụ
này không phải NHTW đẩy tỷ giá lên cao hay kéo tỷ giá xuống thấp mà ổn
định tỷ giá ở một mức độ hợp lý phù hợp với đặc điểm điều kiện thực tế của
đất nước trong từng giai đoạn để tác động chung cuộc của nó là tốt nhất.
T
r

2. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KIỂM SOÁT
LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY
2.1 Tác động của công cụ điều tiết chính sách tiền tệ đến lạm phát giai đoạn
2008 đến 2010
- Từ cuối năm 2007, các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã được vạch
ra cho năm 2008 khi mà các tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái
kinh tế toàn cầu đã manh nha xuất hiện tại Việt Nam. Những tháng cuối của năm
2007, lạm phát đã tăng lên 2 con số và đạt mức 12.6% vào tháng 12/2007. Những
tháng tiếp theo của năm 2008, lạm phát tiếp tục tăng cao, chỉ tính riêng 3 tháng
đầu năm 2008, chỉ số CPI đã tăng là 9.1% (đây là quý có mức tăng cao nhất tính
từ năm 1995) và đã vượt xa chỉ tiêu của Chính phủ đặt ra cho cả năm 2008 là:
GDP tăng từ 6.7 – 7% và giữ CPI thấp hơn mức này.
- Tháng 3 năm 2008, mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát đã trở thành mục tiêu
hàng đầu trong các quyết sách điều hành kinh tế của Chính phủ. Lãi suất cơ bản
được nâng lên (12% rồi 14%), dự trữ bắt buộc với lãi suất rất thấp được áp đặt,
tín phiếu bắt buộc được phân bổ, biện pháp hạn chế tín dụng “hà khắc” được áp
đặt lên các ngân hàng thương mại, cắt giảm đầu tư Tất cả biện pháp này gây ra
gánh nặng lớn cho các ngân hàng thương mại cũng như doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Với những chính sách thắt chặt như vậy, hệ thống ngân hàng gặp rất nhiều
khó khăn.

- Một trong các biện pháp mạnh tay giai đoạn này của Chính phủ đó là Nghị quyết
10/2008/NQ-CP ngày 17/4/2008 về 8 giải pháp đồng bộ để kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Với mục
tiêu tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) một cách chặt chẽ, thận trọng và
chủ động; sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các công cụ CSTT theo nguyên tắc
thị trường để kiểm soát quy mô, tốc độ tăng tín dụng và tăng tổng phương tiện
thanh toán một cách hợp lý nhằm đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam,
góp phần thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức cao, nhưng đồng
thời đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng kinh tế… và
điều tiết có hiệu quả vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) và kiểm soát
tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng ngay từ đầu
năm. Rõ ràng, với một năm hết sức khó khăn về thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng
trong bối cảnh kinh tế suy thoái, các biện pháp kích cầu nền kinh tế tạo điều kiện
T
r

cho lạm phát bùng lên, và những chính sách tiền tệ như trên đã góp phần ổn định,
kiềm chế lạm phát.
- Về cuối năm 2008, nhận thấy lạm phát đã có những chuyển biến tích cực nhưng
tăng trưởng kinh tế lại bị đe doạ, Chính phủ đã dần linh hoạt nới lỏng CSTT bằng
cách hạ lãi suất cơ bản (từ 14% xuống dần 13%, 12% rồi 8.5%), giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc… khi có dấu hiệu tăng trưởng khó khăn, nhất là khi tình trạng suy thoái
kinh tế đang lan tỏa ra toàn cầu và có thể tác động mạnh đến nền kinh tế Việt
Nam trong năm 2009 nếu Việt Nam không có giải pháp ứng phó.
- Với những chính sách mạnh tay như vậy, lạm phát đã có xu hướng giảm qua các
tháng của năm 2008, tuy nhiên so với năm 2007 đã tăng đến 19.89%, vẫn là một
con số rất lớn, đáng để Chính phủ lưu tâm cho công tác điều hành CSTT trong
các năm tiếp theo. CPI các tháng có sự sụt giảm như sau:
- Tháng 1: +2.38%; tháng 2: +3.56%; tháng 3: +2.99%; tháng 4: +2.2; tháng 5:
+3.91%; tháng 6: +2.14%; tháng 7: +1.13%; tháng 8: +1.56%, tháng 9: + 0.18%,

tháng 10: -0.19%, tháng 11: -0.76%, tháng 12: -0.68%.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ: Biến động chỉ số CPI qua các tháng trong năm 2008
- Năm 2009, kinh tế thế giới tiếp tục lún sâu vào khủng hoảng và Việt Nam cũng
không nằm ngoài điều đó. Mục tiêu cuối cùng của CSTT từ cuối năm 2008 đã
được Chính phủ xác định chuyển từ ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, đảm bảo an sinh xã hội, phấn đấu duy trì tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên
ngăn chặn suy giảm tăng trưởng, coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an
sinh xã hội. Thực hiện áp dụng mô hình kiểm soát khối lượng tiền, kết hợp với
kiểm soát giá cả tiền tệ, để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát ở
mức hợp lý. Theo đó, NHNN coi việc triển khai hỗ trợ lãi suất là công việc ưu
tiên hàng đầu; các công cụ CSTT được NHNN điều hành chủ động và linh hoạt
và thận trọng trên cơ sở dự báo tốt về diễn biến kinh tế vĩ mô, diễn biến tiền tệ,
tín dụng.
- Lãi suất cơ bản được giữ ổn định trong năm 2009 và chỉ tăng 1% vào tháng
12/2009. Dự trữ bắt buộc được điều chỉnh giảm từ 6% xuống 3% đối với tiền gửi
không kì hạn và có kì hạn dưới 12 tháng, giảm từ 2% xuống 1% đối với kì hạn từ
12 tháng trở lên, áp dụng suốt năm 2009. NHNN cũng liên tục thực hiện bơm
vốn vào nền kinh tế thông qua thị trường mở, với sự điều hành linh hoạt phù hợp
với diễn biến của thị trường. Trong bối cảnh thị trường ngoại hối diễn biến phức
T
r

tạp, những chính sách quyết liệt của NHNN đối với thị trường này cũng góp phần
kiềm chế biến động tỷ giá, ổn định lạm phát.
- Như vậy, trong năm 2009, CSTT của Việt Nam đã được điều hành một cách linh
hoạt, thận trọng, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế
vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế. Và
quan trọng nhất, tuy ưu tiên vực dậy tăng trưởng kinh tế nhưng lạm phát vẫn
được duy trì ở mức có thể chấp nhận được. Lạm phát được kiểm soát ở mức

6.88%, thấp hơn nhiều so với mức 19.89% của năm 2008 và thấp hơn chỉ tiêu
dưới 10% của Quốc hội đặt ra và đạt mục tiêu của Chính phủ dưới 7%, đây là
một thành công trong kiềm chế lạm phát của Chính phủ trong năm 2009 với
những CSTT rất linh hoạt. Chỉ số CPI qua các tháng trong năm tăng nhẹ, nhưng
vẫn được duy trì ổn định với mục tiêu tăng kích thích tăng trưởng được đặt lên
hàng đầu. Chỉ số CPI qua các tháng trong năm 2009 như sau:
- Tháng 1: +0.32%; tháng 2: +1.17%; tháng 3: -0.17%; tháng 4: +0.35%; tháng 5:
+0.44%; tháng 6: +0.55%; tháng 7: +0.52%; tháng 8: +0.24%, tháng 9: +0.62%,
tháng 10: +0.37%, tháng 11: +0.55%, tháng 12: +1.38%.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ: Biến động chỉ số CPI qua các tháng trong năm 2009
- Năm 2010, với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, NHNN đã thực thi nhiều biện
pháp điều hành CSTT nhằm đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, kiềm chế lạm
phát, chỉ đạo và giám sát các đơn vị trong toàn Ngành thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ đề ra. Mục tiêu của năm 2010 vẫn là tăng trưởng ổn định và lạm phát
được giữ ở mức trung bình. NHNN đã ổn định lượng tiền cung ứng cho nền kinh
tế, có những biện pháp nhằm giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
- Những chính sách nổi bật là việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7%
xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12
tháng; linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng và lãi suất hợp lý và
giảm lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, hoán đổi ngoại tệ cũng như tái cấp vốn
trực tiếp cho NHTM có quy mô nhỏ nhằm ổn định thị trường tiền tệ. Với việc
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lượng tiền được đưa ra lưu thông đã tăng lên, giúp
tăng trưởng sản xuất kinh doanh, kích thích tiêu dùng. Bên cạnh đó, NHNN đã 2
lần điều chỉnh tăng tỉ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng, điều hành lãi suất
phù hợp, giúp lãi suất huy động và cho vay VND của các NHTM giảm dần (mức
giảm khoảng 1%), đồng thuận lãi suất huy động không vượt quá 14%/năm.
T
r


- Tuy nhiên, với những chính sách ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng như vậy, lạm phát
sau khi được ổn định ở 2 năm trước thì đến năm 2010 đã có cơ hội gia tăng trở
lại. Chịu tác động rất lớn từ những sự kiện như sự gia tăng mạnh của giá dầu thế
giới, đầu tư mạnh cho Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, lũ lụt gây thiệt hại
nặng nề ở miền Trung, giá vàng và USD liên tục leo thang,… nhưng những chính
sách tiền tệ vẫn chưa quan tâm đến kiềm chế chỉ số CPI một cách thoả đáng,
khiến lạm phát năm 2010 diễn biến xấu đi so với chỉ tiêu mong đợi từ đầu năm.
Mặc dù các tháng giữa năm CPI tăng nhẹ nhưng những biến động ở đầu và cuối
năm đã khiến chỉ số này gia tăng đột biến. Với nỗ lực kiềm chế lạm phát cả năm
ở mức 7-8% từ đầu năm thì rõ ràng, điều hành CSTT trong năm đã ưu tiên nhiều
cho tăng trưởng, không đạt được hiệu quả ổn định lạm phát như mong đợi, dẫn
đến lạm phát 2010 đạt mức 2 con số, lên tới 11.6%. Và con số này cũng đặt ra áp
lực rất lớn cho CSTT năm 2011 nhằm kéo chỉ số CPI trở lại mức thấp như từng
đạt được trong năm 2009.
- Biến động chỉ số CPI trong năm 2010 như sau:
- Tháng 1: +1.36%; tháng 2: +1.96%; tháng 3: +0.75%; tháng 4: +0.14%; tháng 5:
+0.27%; tháng 6: +0.22%; tháng 7: +0.06%; tháng 8: +0.23%, tháng 9: +1.31%,
tháng 10: +1.05%, tháng 11: +1.86%, tháng 12: +1.98%.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ: Biến động chỉ số CPI qua các tháng trong năm 2010
2.2 Tác động của công cụ điều tiết chính sách tiền tệ đến lạm phát trong
năm 2011 và nửa năm 2012.
Chính sách thắt chặt tiền tệ của nền kinh tế có biểu hiện suy thoái, nên năm
2009 Chính phủ đã thông qua gói kích cầu nền kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp
vay vốn với tỷ lệ 4% lãi suất, điều này đã làm cho ngân sách nhà nước tăng
vọt.
Đồng thời gói kích cầu kinh tế năm 2009 đã để lại tác động lạm phát trong
năm 2010 và năm 2011. Năm 2010, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu thực hiện
chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt để kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng thông qua Nghị quyết số 18/ NQ-CP ngày

06 tháng 4 năm 2010 về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và đạt
tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010.
T
r

Năm 2011, Chính phủ đưa ra mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và
kiểm soát lạm phát thông qua Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về các
giải pháp chủ yếu nhằm tập trung kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm
bảo an sinh xã hội trong năm 2011.
- Để thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ, Ngân
hàng Trung ương đã triển khai một số nội dung về công tác điều hành chính sách
tiền tệ về lãi suất; tỷ giá, thị trường ngoại hối , bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín
dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập
trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp,
nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ
và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực Thống đốc NHNN đã chỉ đạo các
NHTM tập trung triển khai các nội dung như chấp hành nghiêm quy định về việc
ấn định tỷ giá theo Quyết định số 230/QĐ-NHNN ngày 11/2/2011, chủ động
hoàn thiện quy định nội bộ và áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi to cần thiết
trong kinh doanh ngoại tệ Cụ thể các công cụ chính sách tiền tệ trong năm
2011 như:

Lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ trong điều tiết chính sách tiền tệ
trọng yếu nhất trên cơ sở truyền dẫn tiền tệ nhằm thực hiện quản lý lượng
tiền cung ứng trong các thời kỳ.

Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu
Nhằm bảo đảm tính thanh khoản bù đắp thiếu hụt cho các NHTM,
NHNN đã điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn qua các thời kỳ.

T
r

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong tháng 12 năm 2011, NHNN tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình thanh
khoản của hệ thống và từng TCTD, xem xét cho vay tái cấp vốn đối với các TCTD
có khó khắn về thanh khoán, đồng thời giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay từ
nguồn tái cấp vốn của TCTD.

Lãi suất huy động
Văn bản Lãi suất
VNĐ
(%/n
ăm)
Văn bản Lãi suất
USD(
%/nă
m)
Số 02/TT/2011 ngày 3/3/2011 14% 09/TT/2011 ngày 9/4/2011 1-3%
Số 30/TT/NHNN ngày 28/9/2011 14%
14/TT/NHNN ngày
1/6/2011
0,5-2%
Số 05/TT/NHNN ngày 12/3/2012 13%
Số 08/TT/NHNN ngày 10/4/2012 12%
Số 17/TT/NHNN ngày 15/5/2012 11%
Số 19/TT/NHNN ngày 25/5/2012 9%
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
T
r

Văn bản quyết
định
Lãi suất tái
cấp vốn
Lãi suất tái
chiết khấu
Ngày
hiệu lực
1289/QĐ-NHNN 10% 8%
01/07/201
2
1196/QĐ-NHNN 11% 9%
11/06/201
2
1081/QĐ-NHNN 12% 10%
28/05/201
2
693/QĐ-NHNN 13% 11%
11/04/201
2
407/QĐ-NHNN 14% 12%
13/03/201
2
2210/QĐNHNN 15%
10/10/201
1
929/QĐ-NHNN 14% 13%
01/05/201
1
692/QĐ-NHNN 13%

01/04/201
1
379/QĐ-NHNN 12% 12%
08/03/201
1
271/QĐNHNN 11%
17/02/201
1
447/TB-NHNN 9% 7%
01/12/201
0

Biện pháp tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát được thể hiện qua biểu lãi
suất trên từ 14%->9%/năm. Lãi suất huy động tiền gửi theo quy định của
NHTW 14%/năm trong năm 2011, tuy nhiên điều này lại không được thực
thi hiệu quả, đã có nhiều NHTM tăng lãi suất huy động tiền gửi lên 18-19%
và có khi lên đến 21%/năm nên lãi suất cho vay của các ngân hàng bị đẩy
lên mức khá cao có khi lên đến 24-25%/năm. Tình trạng này do nhiều
nguyên nhân, trong đó có một số ngân hàng nhỏ do khó khăn về thanh
khoản đã lách luật đẩy lãi suất lên cao, do đó các ngân hàng lớn muốn giữ
chân khách hàng cũng tăng lãi suất theo. Cứ thế, các ngân hàng đua nhau
tăng lãi suất, tạo ra vòng luẩn quẩn. Lãi suất cao khiến nhiều doanh nghiệp
không dám vay ngân hàng, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn,
kinh tế vĩ mô không ổn định, lạm phát vẫn ở mức cao, điều này làm cho
lạm phát năm 2011 tăng 18,13% vượt so với kế hoạch 8%/năm, biểu hiện
qua chỉ số CPI trong năm 2011.
THÁNG 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
CPI (%) 1,74 2,09 2,17 3,32 2,21 1,09 1,17 0,93 0,82 0,36 0,39 0,53
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Cùng với sự leo thang của lãi suất VND, lãi suất USD cũng liên tục nóng

lên và tăng cao nhất vào tháng 3/2011. Nhằm thực hiện chính sách
chống đô la hóa, ngày 09/4/2011, NHNN đã ban hành Thông tư số
09/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng USD
của tổ chức, cá nhân tại TCTD. Theo đó, phải đảm bảo lãi suất huy động
vốn tối đa bằng USD của tổ chức là 1,0%/năm và của cá nhân là
3,0%/năm. Sau quy định này, lãi suất huy động USD đã giảm xuống trong
những tháng đầu, trong khi đó lãi suất cho vay USD vẫn ở mức cao. Tiếp
tục kiên quyết với chủ trương ngày ngày 01/6/2011, NHNN đã ra Thông
tư số 14/2011/TT-NHNN giảm trần lãi suất USD xuống còn tương ứng
2% và 0,5%.

Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát theo Nghị
quyết 11/NQ-CP. Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ lệ bắt buộc các thời
kỳ như:
T
r

Ngày 9/4/2011, NHNN ban hành quyết định số 750/QĐ-NHNN điều
chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD thêm 2% thay
thế quyết định 74 ngày 18/1/2010.
Ngày 1/6/2011, NHNN đã ban hành QĐ số 1209/QĐ-NHNN về điều
chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD, đối với tiền gửi
không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng ngoại tệ, tỷ lệ DTBB là 7%
trên tổng số dư tiền gửi phỉa DTBB, đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên 5%
trên tổng số dư tiền gửi phải DTBB.
Tháng 9, NHNN đã ban hành quyết định số 1925/QĐ-NHNN ngày
26/8/2011 điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD,
tiền gửi dưới 12 tháng bằng ngoại tệ 8% và từ 12 trở lên 6%.
Từ 26/8/2011 đến nay NHNN chưa có điều chỉnh chính sách tỷ lệ dự trữ

bắt buộc.

Tỷ giá hối đoái
Điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng và ban hành cơ chế điều hành
tỷ giá mới từ ngày 11/2/2011.
Để kiểm soát thị trường ngoại hối, ngày 29/4/2011, Thống đốc đã ban
hành Thông tư số 11/2011/TT-NHNN quy định về chấm dứt huy động cho
vay vốn bằng vàng của TCTD.
Năm 2012, tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô (Nghị
quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012).
Có thể nhận thấy, cho tới 2010 và nửa đầu 2011, mục tiêu tăng trưởng vẫn là
mục tiêu ưu tiên, mặc dù lạm phát không còn là dấu hiệu mà đã thực sự bùng
phát cộng với những ảnh hưởng bởi độ trễ của chính sách kích cầu năm 2009.
Chỉ tới nửa cuối năm 2011 cho tới nay, ưu tiên kiềm chế lạm phát mới thực sự
được thể hiện trong các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và trở thành hành động
của hai Bộ Tài chính và NHNN. Tuy nhiên, trong thực tế, Chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa được sử dụng để hướng tới các mục tiêu kinh tế với các mức
độ khác nhau. Trong đó, CSTT luôn được sử dụng như là công cụ chủ yếu để
T
r

điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong giai đoạn giảm tổng cầu, kiềm chế lạm
phát.
Theo đó, cả Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đều được yêu cầu sử
dụng triệt để các công cụ chính sách nhằm ưu tiên kiềm chế lạm phát. CSTT một
lần nữa quay lại thực hiện thắt chặt với mục tiêu trung gian gồm dư nợ tín dụng
tăng trưởng dưới 16%, M2 tăng dưới 20%. NHNN đã triển khai các chính sách
cụ thể nhằm đạt mục tiêu này, gồm có:
- Yêu cầu các tổ chức tín dụng điều chỉnh kế hoạch kinh doanh phù hợp với
mục tiêu tăng trưởng tín dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát

triển sản xuất kinh doanh, giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản
xuất trong tổng dư nợ xuống mức 22% đến 30/06/2011 và 16% đến 31/12/2011;
- Lãi suất chiết khấu tăng từ 7%/năm lên 12->13%/năm, lãi suất tái cấp vốn
và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 10->11-
>12->13->14->15->16%/năm;
- Nghiệp vụ thị trường mở thực hiện nghiệp vụ hút tiền ròng trong phần lớn
thời gian của năm 2011 (tính đến cuối tháng 6/2011, mức cung ròng qua OMO là
không đáng kể: hơn 13.000 tỷ đồng và tính đến cuối năm 2011 lượng hút ròng
111.365 tỷ đồng
4
- Tuân thủ nghiêm ngặt giới hạn tín dụng trong toàn hệ thống ngân hàng với
các chế tài xử phạt nghiêm khắc của nội bộ từng ngân hàng;
- Xây dựng và triển khai chiến lược cấu trúc lại hệ thống ngân hàng từng bước
nhằm nâng cao tính hiệu quả, giảm mức độ rủi ro và cải thiện sức mạnh cạnh
tranh của hệ thống ngân hàng. Chủ trương này cũng nhằm giải quyết tận gốc căn
nguyên của tình trạng mặt bằng lãi suất cao hiện nay (về phía ngân hàng);
- Triển khai đồng bộ các giải pháp đối với thị trường ngoại tệ, thị trường vàng
nhằm mục tiêu giảm sự di chuyển vốn lòng vòng giữa tài sản được coi như tiền
(money likes) - một trong các yếu tố gây áp lực lên lãi suất nội tệ, triệt tiêu tác
động của CSTT. Kết quả là mức tăng M2 và tín dụng của cả năm 2011 đạt dưới
10% và trên 12% (số liệu ước tính theo công bố của NHNN đầu năm 2012), thấp
T
r

hơn nhiều so với mức tăng trung bình của các năm trước. Ðây là mức thắt chặt
thấp hơn đáng kể so với mức tăng định hướng đã nêu trong Nghị quyết 11 nhằm
hướng tới giảm tổng cầu. Tuy vậy, sự quyết liệt trong giảm tổng cầu từ phía
CSTT đã không đạt được kết quả mong muốn. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng đạt
5,89% thì tỷ lệ lạm phát vẫn tiếp tục tăng tới mức kỷ lục 18,13% (mức tăng
cao so với mục tiêu đã được điều chỉnh là 15% cho năm 2011).

Trong năm 2011, những dấu hiệu đình đốn đã xuất hiện. Mặc dù NHNN
khống chế tốc độ tăng trưởng dư nợ tín ở mức 20%, nhưng mức tăng thực tế chỉ
là 12%. Thậm chí, NHNN bắt đầu thể hiện dấu hiệu nới lỏng từ quý IV năm
2011 nhưng nhu cầu tín dụng vẫn rất thấp, báo hiệu tình trạng đình đốn của khu
vực sản xuất, giảm nhu cầu tín dụng, chỉ số giá đã bắt đầu giảm từ tháng 8/2011.
Tính đến quý I/2012, dấu hiệu đình đốn sản xuất rõ nét với tỷ lệ tăng sản xuất
công nghiệp là 4,1% (so với 9,3% cùng kỳ năm 2011), mức bán lẻ chỉ là 5%
(thấp xa so với số liệu cùng kỳ từ 2006), tốc độ tăng trưởng kinh tế là 4% (thấp
nhất từ 2007 đến nay). Đến quý II, tăng trưởng GDP đã tăng nhẹ lên 4,66%,
ngành sản xuất bị đình đốn trong khi sức cầu yếu đi do áp lực lãi suất huy động
và cho vay cao, nhưng đã có những cải thiện vào cuối quý II sau những nới lỏng
nhất định về tiền tệ và tài khóa.
Hình 3: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát 2000-2012
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thực trạng này dẫn tới lượt chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát sang
thúc đẩy phục hồi kinh tế, sử dụng CSTT cho năm 2012.
Có thể nhìn thấy các động thái này qua ba lần cắt giảm lãi suất 300 điểm liên
tiếp, đưa mức trần lãi suất xuống 11% từ 25/5/2012, liên tiếp hạ lãi suất chỉ đạo,
áp trần lãi suất 15%/năm rồi giảm xuống 14%/năm cho 4 khu vực ưu tiên: nông
nghiệp, nông thôn; doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Cơ cấu lại nợ (thời hạn trả nợ, lãi suất,
cho vay mới trả nợ cũ, ) và các giải pháp khác cần thiết, phù hợp với từng loại
hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
vay được vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc quy định nới rộng tín dụng
T
r

cho khu vực bất động sản với mục đích thúc đẩy sản xuất các ngành vật liệu
xây dựng và giải phóng các khoản nợ đọng của ngân hàng trong tài sản đảm
bảo là bất động sản.

Các đợt giảm và hoãn thuế cũng được sử dụng từ 2011, tiếp tục được sử dụng
cho hỗ trợ doanh nghiệp trong năm 2012 với quy mô khoảng 29.000 tỷ
đồngnhằm: i/ Gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh
nghiệp (TNDN) đối với một số doanh nghiệp; ii/ Giảm tiền thuê đất, miễn thuế
môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối… Tuy vậy,
hiệu ứng hỗ trợ của chính sách thuế sẽ rất khiêm tốn bởi: i/ Một số doanh nghiệp
đang ở trong diện gia hạn nộp thuế từ đợt gia hạn năm 2011, kỳ gia hạn này chỉ
kéo dài hơn thời hạn chứ không tạo nên sự hỗ trợ vật chất thực sự; ii/ Một bộ
phận doanh nghiệp không nhỏ đang trong giai đoạn cầm cự và tồn tại. Với tỷ lệ
tồn kho cho đến tháng 5/2012 khoảng 30 - 40% bình quân thì khả năng có nguồn
nộp thuế để hưởng chính sách giảm thuế là không khả thi trong một vài tháng tới;
iii/ Gói hỗ trợ được dự tính ảnh hưởng khoảng 9% thu ngân sách sẽ gây áp lực
lên mức bội chi ngân sách vốn đã rất nặng nề có thể sẽ có những hệ lụy khác.
Tuy nhiên, kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2012, Tăng trưởng GDP đã có cải
thiện nhưng khó khăn vẫn còn nhiều. GDP đạt tốc độ tăng trưởng 4,66% trong
quý II, cao hơn mức 4% của quý I nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng 5,75%
của cùng kỳ năm 2011. Trong đó, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ và
công nghiệp trong đó quý II (5,57% và 4,76%) tăng nhẹ so với quý I(5,3% và
4,03%), còn ngành xây dựng mặc dù có nhiều cải thiện nhưng vẫn giảm -0,8%
trong quý II so với mức giảm -3,85% của quý I.
Sự cải thiện của tăng trưởng GDP do chính sách nới lỏng tiền tệ, tài khóa được
triển khai đồng bộ trong quý II, tác động tích cực tâm lý doanh nghiệp và người
dân. Kết quả và tác động của việc thực hiện các giải pháp sẽ thể hiện rõ ràng hơn
trong quý III.
Tổng cầu được cải thiện nhưng còn khá yếu, thể hiện qua kim ngạch xuất nhập
khẩu và giá trị bán lẻ của 6 tháng đầu năm.
T
r

Với xuất nhập khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 53,1 tỷ USD(+22,2% y-o-

y) chủ yếu là do tăng lượng hàng xuất khẩu trong khi giá cả hàng hóa ít có biến
động. Đây là yếu tố tích cực trong bối cảnh khó khăn hiện này. Còn kim ngạch
nhập khẩu đạt 53,8 tỷ USD (+3,6% y-o-y sau khi đã trừ đi yếu tố giá). Kim
ngạch nhập khẩu tăng ít chủ yếu là do lượng hàng tồn kho còn nhiều (+26% y-o-
y) và lãi suất còn khá cao.
Về giá trị bán lẻ, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ
đạt 1.137,4 nghìn tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm 2012, với mức tăng trung bình
là 21,29%/tháng, thấp hơn mức 22,7%/tháng cùng kỳ của 2011. Điểm đáng lưu ý
là tốc độ tăng trưởng của kinh doanh thương nghiệp và nhà hàng giảm liên tục kể
từ đầu năm đã khiến cho tốc độ tăng trưởng của tổng mức bán lẻ và dịch vụ
chung giảm.
Mục tiêu kiếm chế lạm phát đã hiện thực hóa trong 6 tháng đầu năm khi CPI
cả nước chỉ tăng 6,9% so với cùng kỳ, trong đó CPI tháng 6 đã âm 0,26% so với
tháng 5 sau 38 tháng. CPI giảm do nhiều yếu tố, trước hết là sức mua giảm sau
chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa suốt năm 2011 và những tháng đầu năm
2012.
Giá xăng dầu thế giới biến động giảm sau dự báo hạ tăng trưởng tín dụng của
FED, kéo theo giá xăng dầu trong nước giảm theo, khiến chi phí đầu vào của
nhiều doanh nghiệp cũng giảm.
Tăng trưởng tín dụng chỉ tăng 0,76% trong 6 tháng năm 2012, có thể thấy
trong 2 tháng nới lỏng gần đây, tiền bơm ra cho nền kinh tế chủ yếu vẫn từ ngân
sách thông qua các dự án cơ sở hạ tầng trong khi nguồn vốn từ hệ thống NHTM
vẫn chưa được khơi thông đến doanh nghiệp.Thúc đẩy hoạt động cho vay của hệ
thống ngân hàng cho hoạt động đầu tư tư nhân sẽ là điểm mấu chốt quyết định sự
tăng trưởng của nền kinh tế trong 6 tháng cuối năm. Với việc lạm phát ở mức
thấp và tỷ giá vẫn nằm trong tầm kiểm soát, mục tiêu tiên quyết của điều hành
chính sách trong 6 tháng cuối năm chính là tập trung tăng trưởng.
T
r

×