Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số thể lực, trí tuệ của học sinh trường Tiểu học và trung học cơ sở xã nam Phong, Thành phố Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.18 KB, 55 trang )

LỜI CẢM ƠN

Với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin cảm ơn PGS. TS. Trần Thị Loan - người đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em nghiên cứu trong suốt quá trình thực hiện đề tài và viết luận văn.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TSKH Tạ Thuý Lan, người đã nhiệt tình
giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng biết ơn các thầy, cô giáo trong Ban Giám Hiệu, phòng Sau Đại Học, khoa
Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội II đã tạo điều kiện giúp đõ' em
trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, các thầy, cô giáo, các em học sinh Trường Tiếu học
và Trung học cơ sở xã Nam Phong, Thành phố Nam Định, đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện
luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn quan tâm, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.

Hà Nội, thảng 09 nẵm 2010
Tác giả

Đỗ Thị Thanh Bình
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đang phát triến rất mạnh mẽ để theo kịp và
hòa nhập với các nền kinh tế khác trong khu vực cũng như trên Thế giới. Điều này đòi hỏi một
nguồn nhân lực có sức khỏe, đủ năng lực trí tuệ, có trình độ học vấn cao, hiểu biết sâu rộng trong
mọi lĩnh vực, năng động với thời cuộc. Để đáp úng được nhu cầu này của xã hội thì chất lượng
Giáo dục và Đào tạo đóng một vai trị quan trọng. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta coi Giáo dục và Đào
tạo là quốc sách hàng đầu. Nhưng chất lượng giáo dục có đạt được hay khơng lại phụ thuộc rất
nhiều vào thế chất, trí tuệ của thanh niên, học sinh, sinh viên - những người chủ tương lai của đất
nước.
Chính vì lí do trên mà từ năm 1975 đến nay, ở nước ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về


thể lực cũng như năng lực trí tuệ. Đáng chú ý là cơng trình nghiên cún của các tác giả trong nhóm


đề tài “Nghiên cứu đặc điếm sinh thế con người Việt Nam, tình trạng dinh dưỡng và các biện pháp
nâng cao chất lượng sức khoề\ mã số KX - 07 - 07 do GS.TS Lê Nam Trà làm chủ nhiệm [81],
[82], [83], [84] và nhóm đề tài “Nghiên cứu cảc chỉ tiêu về2thể lực và trí tuệ ở học sinh” do
GS.TSKH Tạ Thúy Lan làm chủ nhiệm [37], [38], [39]. Kết quả nghiên cún của các cơng trình đã
cho thấy, năng lực trí tuệ của con người thay đổi theo lứa tuổi và điều kiện xã hội, đáng kể nhất là
chế độ dinh dưỡng và lượng thông tin [8], [9], [35], [40], [54]. Điều này có thể thấy rõ nhất là đối
với độ tuổi học sinh ở bậc tiểu học và trung học cơ sở (THCS). Chính vì vậy, các chỉ số này ở trẻ
em cũng phản ánh phần nào sự phát triển của đất nước. Vì thế, việc nghiên cứu thể lực, chức năng
sinh lí, trí tuệ của học sinh phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trên tất cả các địa phương
trong cả nước.
Nam Phong là một xã ngoại thành của thành phố Nam Định. Thu nhập của bà con ở đây chủ
yếu dựa vào sản xuất nơng nghiệp, nên đời sống cịn gặp nhiều khó khăn. Nhờ sự quan tâm của các
cấp chính quyền và nhân dân địa phương, nên trường tiểu học và THCS của xã được xây dựng
tương đối khang trang để đáp ứng nhu cầu học tập của các em học sinh trong vùng. Tuy vậy, đến
nay chưa có một đề tài nghiên cún nào trên đối tượng học sinh của nhà trường để có thể dựa vào đó
định hướng phương pháp giảng dạy, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và chăm sóc sức khỏe
học sinh.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tế trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
một số chỉ số thể lực, trí tuệ của học sinh trường Tiểu học và Trung học CO’sở xã Nam Phong,
Thành phố Nam Định ”

2. Mục đích nghiên cứu
-

Xác định được thực trạng một số đặc điểm thể lực của học sinh 7 - 1 5 tuổi (chiều cao, cân nặng,
vịng ngực trung bình, chỉ số pignet, chỉ số BMI).


-

Xác định được thực trạng chức năng một số hệ thống cơ quan của học sinh 7 - 1 5 tuồi (tần số tim,
huyết áp động mạch, tần số thở).

-

Nghiên cún các chỉ số năng lực trí tuệ của học sinh 7 - 1 5 tuổi (chỉ số IQ, trí nhớ, chỉ số AQ). Xác
định được mối tương quan giữa các chỉ số nghiên cứu.

3. Nhiệm vụ của đề tài
-

Nghiên cún một số chỉ số thể lực (chiều cao, cân nặng, vịng ngực trung bình, chỉ số pignet, chỉ số
BMI) và chức năng một số hệ thống cơ quan của học sinh 7 - 1 5 tuổi (tần số tim, huyết áp động
mạch, tần số thở).


-

Nghiên cứu năng lực trí tuệ của học sinh 7 - 1 5 tuổi (chỉ số IQ, trí nhớ, chỉ số AQ) và mối tương
quan giữa các chỉ số nghiên cứu.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cún
-

3

Đối tượng nghiên cứu là học sinh từ 7 - 15 tuổi của trường Tiểu học và Trung học cơ sở xã Nam
Phong, Thành phố Nam Định.


-

Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một số chỉ số thể lực, chức năng một số hệ thống cơ quan, năng
lực trí tuệ và mối liên quan giữa các chỉ số nghiên cứu của học sinh 7 - 1 5 tuổi của trường Tiểu học
và Trung học cơ sở xã Nam Phong, Thành phố Nam Định.

5. Phương pháp nghiên cửu
-

Các chỉ số thể lực và chức năng một số hệ thống cơ quan được xác định theo các phương pháp hiện
hành.

-

Năng lực trí tuệ được xác định bằng test Ravent (loại dùng cho người bình thường từ 6 tuổi trở lên).

-

Trí nhớ được xác định bằng phương pháp Nechaiev.

-

Chỉ số AQ được xác định bằng phương pháp trắc nghiệm. Bài trắc nghiệm dựa trên khuôn mẫu do
tiến sĩ Paul G. Stoltz nghiên cứu nhưng đã có sự thay đổi để phù hợp với đối tượng học sinh từ 7 1 5 tuổi.
Ket quả nghiên cứu được phân tích và xử lý trên máy vi tính bằng chương trình Microsoft
Excel.

6. Những đóng góp mới của đề tài
-


Là đề tài đầu tiên xác định được một số chỉ số thể lực và trí tuệ của học sinh trường Tiểu học và
Trung học cơ sở xã Nam Phong, Thành phố Nam Định.

-

Bước đầu nghiên cún mối liên quan giữa một số chỉ số nghiên cứu ở học sinh 7 - 1 5 tuổi.

-

Ket quả trong luận văn có thể góp phần vào việc bổ sung số liệu cho hướng nghiên cún về thể lực,
sinh lý, trí tuệ của học sinh 7 - 1 5 tuổi, cung cấp dẫn liệu cho quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa
học.
CHƯƠNG 1 TỎNG QUAN TÀI LIỆU
NGHIÊN cứu 1.1. Nghiên cứu thể lực của học sinh từ 7 - 1 5 tuổi
Vấn đề thể lực tù’ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Song tất cả đều thống nhất
rằng, thể lực phản ánh cấu trúc tổng họp của cơ thể, nó liên quan chặt chẽ với thế trạng, hình thái,
sức khoẻ, sức lao động, thấm mĩ và là khả năng, năng lực vận động của mỗi cá nhân con người. Thể
lực phản ánh mức độ phát triển của mỗi cơ quan, hệ cơ quan trong quá trình phát triển chung của cơ


thể. Sự phát triển về thể lực diễn ra liên tục nhưng đến một độ tuổi nhất định thì ngừng phát triển và
điều này phụ thuộc vào từng cá nhân. Sự phát triển diễn ra dần dần từ nhỏ đến lớn, từ chưa biệt hố
4
đến biệt hố, từ chưa hồn chỉnh đến hồn chỉnh. Đây chính là sự thay đổi hình dáng cấu trúc, chức
năng sinh lý của cơ thế con người trong quá trình sinh trưởng, phát triến. Mà chính sinh trưởng,
phát triển là một trong những dấu hiệu cơ bản của sự sống [93].
Thể lực của con người là một chỉ tiêu phức họp. Một trong những biểu hiện cơ bản của thể
lực là những số đo về kích thước của cơ thể. Trong đó, chiểu cao, cân nặng, vòng ngực là những chỉ
số đặc trưng đế phản ánh thế lực của con người. Từ ba chỉ số cơ bản này có thể tính thêm một số

chỉ tiêu khác biếu hiện mối liên quan giữa ba chỉ tiêu đó như chỉ số pignet, chỉ số BMI... Các chỉ số
này có ý nghĩa cao trong việc đánh giá sự phát triển của học sinh
[52].
Chiều cao là một trong những chỉ số được dùng nhiều trong điều tra cơ bản về nhân trắc học
và để đánh giá thể lực, sức khoẻ của mỗi cá thể và của cả cộng đồng. Sự phát triến chiều cao phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố bên trong cơ thể như di truyền và những yếu tố bên
ngoài như yếu tố dinh dưỡng, điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội. Các yếu tố này tác động lên sự phát
triển chiều cao một cách dần dần, liên tục và không đồng nhất. Trên Thế giới sự phát triển chiều cao
của con người ở mỗi châu lục diễn ra khác nhau và ngay trong cùng một châu lục, ở mỗi quốc gia
cũng có sự phát triển khác nhau (theo[39]).
Chỉ số tiếp theo khơng thể thiếu trong q trình nghiên cún thể lực đó là cân nặng. Các tác
giả cho thấy, cân nặng là chỉ số phát triển tổng hợp, biểu thị mức độ và tỷ lệ giữa hấp thụ và tiêu
hao năng lượng. So với chiều cao, cân nặng cơ thể ít phụ vào yếu tố di truyền hơn mà có liên quan
chủ yếu tới chế độ dinh dưỡng [4], [61], [65]. Sự phát triển cân nặng liên quan tới nhiều yếu tố khác
cho nên thường dùng để khảo sát nhằm đánh giá thể lực của con người.
Cân nặng cơ thể cũng thay đổi theo lứa tuổi. Cân nặng cơ thể tăng khơng đồng đều trong q
trình phát triển của con người. Ở các châu lục khác nhau, cân nặng cơ thể của con người cũng khác
nhau và trong cùng một nước ở mỗi vùng miền cũng có sự khác nhau. So với cân nặng cơ thế của
người châu Âu, châu Mỹ, người Việt Nam nhẹ cân hơn [25], [26].
Một chỉ số quan trọng không thể thiếu khi nghiên cún thể lực đó là vịng ngực. Vịng ngực là
số đo thường được dùng với chiều cao và cân nặng để đánh giá thể lực và các hệ số tương quan
giữa ba số đo [55]. Khác với cân nặng, vòng ngực chỉ tăng nhanh khi cơ thế bước vào giai đoạn dậy
thì và phát triển đến một giai đoạn nhất định thì dừng lại. Ở nữ, tuồi dậy thì đến sớm hơn ở nam và


thường là từ 11 - 13 tuổi, ở nam 1 3 - 1 5 tuổi [41].
Từ giữa thế kỉ XVIII, việc nghiên cứu về sự tăng trưởng và phát triển ở trẻ em bắt đầu được
5
chú ý. Cơng trình đầu tiên nghiên cứu về thể lực của con người là do Christian Friedrich Jumpert
tiến hành vào năm 1754. Khi đó ông đã nghiên cún về chiều cao, cân nặng và một số chỉ tiêu khác

của trẻ em từ 1 đến 25 tuổi. Ket quả của cơng trình này được giới nghiên cứu đánh giá cao (theo
[84]). Cũng trong thời gian này P.Monbeilard (theo [80]) đã nghiên cứu thực tế trên chính con trai
của mình trong suốt 18 năm liên tục. Từ đó đến nay vấn đề thể lực ln được nhiều người quan tâm
nghiên cún.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về thế lực được tiến hành muộn hơn so với trên thế giới. Tác phẩm
“Những đặc điếm nhân chủng và sinh học của người Đông Dương” của Huard p và Bigot A, và
“Hình thái học người và giải phẫu thấm mỹ học” của Huard p và Đỗ Xuân Hợp có thế được coi là
những tác phấm đầu tiên đề cập đến vấn đề nghiên cứu thể lực của người Việt Nam (theo [83]).
Nghiên cún hình thái học ngày càng chun mơn hoá và đươc đánh dấu bằng sự ra đời của bộ mơn
hình thái học tại một số trường đại học. Cơng trình “Hằng số sinh học người Việt Nam” [87] của
Nguyễn Tấn Gi Trọng và cs đã đề cập tương đối đầy đủ về các chỉ số thể lực của người Việt Nam ở
mọi lứa tuổi. Đây là chỗ dựa tin cậy cho các cơng trình nghiên cứu sau này.
Đề tài KX - 07 - 07 với “ Kết quả bước đầu nghiên cún một số chỉ tiêu sinh học người Việt
Nam ” thì thế lực người Việt Nam cuối thế kỷ 20 đã được nghiên CÚOI khá toàn diện [83]. Các tác
giả nhận thấy, các kích thước hình thái người Việt Nam nhỏ hơn so với người châu Âu và châu Mỹ.
Đa số kích thước thể lực của nam lớn hon của nữ và tăng dần đến một độ tuổi nhất định tuỳ mỗi cơ
thể [81], [82], [83].
Các công trình nghiên cứu [6], [56], [59], [60] ,[70], [77] cho thấy, chiều cao phụ thuộc rất
nhiều vào vùng miền, điều kiện kinh tế, chế độ dinh dưỡng. Các tác giả đã đặt ra câu hỏi liệu có
phải tập qn, mơi trường đã ảnh hưởng đến sự phát triển của con người trong các giai đoạn phát
triển khác nhau?
Năm 1980, 1982, 1987, Đoàn Yên và cs [95] đã nghiên cứu một số chỉ
tiêu sinh học của người Việt Nam từ 3 đến 110 tuổi như chiều cao,
cân năng. Các tác giả nhận thấy, chiều cao và cân nặng trung bình
của người Việt Nam nhỏ hơn người Âu và Mỹ ở mọi lứa tuối, nhịp độ
tăng trưởng chậm, thời kỳ tăng trưởng kéo dài hơn và bước vào thời
kỳ nhảy vọt tăng trưởng dậy thì cũng muộn hơn.


Bàn về các thông số sinh học và đặc điểm chức năng của người Việt Nam,

Trịnh Bỉnh Dy và cs [10], [11] nhận xét rằng, sau khi bộ xương hoàn tất q trình phát
triển thì sự suy thối chức năng được thể hiện.
Năm 1992, khi nghiên cứu ở học sinh Hà Nội, Thấm Thị Hoàng Điệp cho rằng,
trẻ em nữ phát triển mạnh lúc 12 tuổi còn trẻ em nam phát triển mạnh lúc 13 -15 tuổi,
cân nặng tăng mạnh nhất lúc 13 tuổi ở nữ và 15 tuồi ở nam [13]. Năm 1996, Thẩm Thị
Hoàng Điệp và cs [14] đã nghiên cứu sự phát triển chiều cao, vòng đầu, vòng ngực
của người Việt Nam từ 1 - 55 tuổi. Kết quả cho thấy, chiều cao của nam tăng nhanh
đến 18 tuổi, của nữ tăng nhanh đến 14 tuổi.
Đào Huy Khuê [35] nghiên cứu sự phát triến thể lực của học sinh 6 - 1 7 tuối ở
thị xã Hà Đơng và nhận thấy, đa số các chỉ số hình thái đều tăng theo tuổi nhưng tăng
không đều. Từ 10 - 15 tuối, kích thước của nữ cao hơn của nam, nhưng từ 16 - 17 tuổi
kích thước của nam lại cao hơn của nữ.
Năm 1996, với cơng trình nghiên cứu hình thái trẻ em ở lứa tuổi học sinh Trần
Văn Dần và cs [7] nhận thấy, thơng số hình thái của trẻ em cao hơn so với số liệu
trong quyển “Hằng số sinh học của người Việt Nam” [87] và ở cùng một độ tuối thế
lực của trẻ em thành phố tốt hơn thế lực của trẻ em nông thôn.
Nghiêm Xuân Thăng [70] đã tiến hành nghiên cứu 17 chỉ số hình thái của
người Việt Nam từ 1 - 25 tuối ở tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Ket quả nghiên cứu cho
thấy, các chỉ số về chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu của cư dân Nghệ An và
Hà Tĩnh phần lớn thấp hơn so với các chỉ số này của dân cư vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Tác giả cịn nhận thấy, có sự khác biệt về các chỉ số hình thái theo giới tính. Ở tất cả
các độ tuổi, chiều cao của nam luôn lớn hơn của nữ. Theo tác giả, điều kiện sống đã
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển các chỉ số hình thái của con người.
Năm 1995, khi nghiên cứu trên học sinh ở thị xã Thái Bình, tác giả Trần Đình
Long và cs [54] cho thấy, các chỉ tiêu cân nặng, chiều cao, vòng cánh tay của học sinh
thị xã Thái Bình lớn hơn so với số liệu trong quyến “HSSH” nhưng thấp hơn so với
học sinh của quận Hoàn kiếm. Chỉ số pignet có xu hướng cao do trẻ đang lớn, phát


triển ưu thế về phần xương, nhưng khơng có sự khác biệt so với học sinh của quận

Hoàn Kiếm.
Ket quả nghiên cứu của Trần Đình Long và cs [55] trên 7111 học sinh từ 6 - 1 5
tuổi ở quận Hồn Kiếm cho thấy, cân nặng, chiều cao, vịng đầu tăng dần theo tuổi,
cân nặng tăng nhanh nhất lúc 12 - 14 tuổi ở nam, 1 1 - 1 3 tuổi ở nữ. Chỉ số pignet của
nam tăng dần đến 12 tuổi và ở nữ tăng dần đến 11 tuổi sau đó giảm dần.
Năm 1996, [17] nhóm tác giả Goman A, Nguyễn Công Khanh, Dương Bá Trục,
Trần Thu Hà, Ligdgren G đưa ra nhận xét rằng, các chỉ số sinh học của trẻ em tăng
dần từ 7 - 11 tuổi.
Theo Phan Thị Sang [68], chiều cao của nữ học sinh Huế tăng mạnh từ 1 1 - 1 2
tuổi, còn từ 16 - 17 tuổi, các chỉ số này tăng rất ít
Năm 1997, Nguyễn Yên và cs [96] đã chỉ ra rằng, từ 12 - 13 tuổi các chỉ tiêu
hình thái của nữ lớn hơn của nam cùng tuối. Chỉ số pignet của nữ lớn hơn của nam,
chứng tỏ, thể lực của nam tốt hơn của nữ.
Tạ Thuý Lan, Đàm Phượng Sào [45] nghiên cứu sự phát triển thế lực của học
sinh từ 6 - 14 tuổi ở Hà Tây cho thấy, chiều cao của học sinh tăng dần từ 6 đến 14
tuổi.
Trần Thị Loan [48], [52] đã đưa ra kết luận, các chỉ số thể lực của học sinh
tăng dần theo tuổi nhung tốc độ tăng không đồng đều, có thời điểm tăng nhanh, có
thời điểm tăng chậm.
Năm 2009, Đỗ Hồng Cường [6] nghiên cứu trên đối tượng học sinh THCS các
dân tộc của tỉnh Hồ Bình đã nhận thấy, các chỉ tiêu hình thái tăng dần theo tuổi và
khác nhau giữa các trẻ em thuộc các dân tộc khác nhau.
Một số cơng trình nghiên cứu khác về các chỉ số thế lực [8], [9], [21], [43],
[56], [67], [68], [93] cũng cho thấy, sự biến đổi hình thái tăng dần theo tuổi và khác
nhau giữa các vùng miền.
Các tác giả còn nhận thấy, sự phát triến thế lực của trẻ em phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố và là kết quả của sự tác động qua lại giữa cơ thể với môi trường [3], [41],


[93], [95]. Dưới tác động của yếu tố di truyền và điều kiện sống, đã diễn ra quá trình

cải tổ về mặt hình thái, chức năng làm cho cơ thể trẻ em ngày càng hoàn thiện.

1.2. Nghiên cứu chức năng một số hệ thống cơ quan của học sinh từ 7 - 1 5
tuổi
Chức năng cơ bản đảm bảo cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho toàn bộ cơ
thể là hoạt động của hệ tuần hồn. Trong đó, tần số tim và huyết áp động mạch là
những chỉ số cơ bản biểu hiện hoạt động của hệ tuần hoàn. Vì vậy, việc nghiên cứu
tần số tim của trẻ em đã được nhiều tác giả thực hiện. Các cơng trình nghiên CÚ4I
cho thấy, tần số tim của trẻ em giảm dần theo tuổi. Sự giảm tần số tim của trẻ em có
liên quan đến sự giảm hoạt động của nút xoang và giảm ảnh hưởng của các dây thần
kinh ngoài tim [51], [52], [81], [87].
Tần số tim có thể thay đổi theo trạng thái cơ thể, khí hậu, bệnh lí. Tần số tim
của trẻ em nhanh hon của người lớn, càng nhỏ càng nhanh và rất dễ thay đổi như khi
khóc, sợ hãi, làm việc gắng sức [63].
Khi nghiên cún trên trẻ em trước tuổi đến trường và trẻ em tuổi học đường,
nhiều tác giả đã nhận thấy, huyết áp động mạch của học sinh tăng dần theo tuổi nhưng
tăng không đều, thời điểm huyết áp tăng nhảy vọt ở nữ là 9 - 12 tuổi, ở nam là 9 - 13
tuổi [9], [10], [50], [52], [58], [95].
Một số tác giả cho rằng, có sự khác biệt huyết áp theo
giới tính. Ờ các châu lục khác nhau, huyết áp động mạch
của trẻ em cũng khác nhau. Nghiên cứu của các tác giả cho
thấy, huyết áp động mạch phụ thuộc rất nhiều vào di
truyền và yếu tố dinh dưỡng [10], [52], [87] .


Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng [70] đã đưa ra nhận xét, tần số tim và huyết
áp ở bất kỳ độ tuối nào cũng chịu ảnh hưởng của khí hậu. Ngồi ra, tần số tim còn bị
chi phối bởi các yếu tố xã hội như lao động và trạng thái tâm lý.
Phạm Thị Minh Đức [16] đã đưa ra kết luận, huyết áp tâm thu bình thường có
trị số là 90 - 1 lOmmHg, nếu trên 140 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới

90mmHg là hạ huyết áp.
Ket quả nghiên cứu của Trần Thị Loan [51], [52] cho thấy, tần số tim của học
sinh giảm dần theo tuổi và tốc độ giảm của tần số tim không đều.
Các chỉ số chức năng của hệ tuần hồn cịn được đề cập trong các cơng trình
nghiên cứu khác [16], [17], [24], [41], [42], [48], [50], [51], [52], [95].
Trong giai đoạn bào thai, sự trao đối khí được thực hiện qua nhau thai. Ngay
sau khi được sinh ra, trẻ bắt đầu thở bằng phổi. Sau động tác thở đầu tiên, tần số thở
của trẻ tăng dần lên và thời gian thở tương đối dài hơn. Ở thời kỳ sơ sinh và trong
mấy tháng đầu, trung tâm hơ hấp chưa hồn thiện, nên tần số thở của trẻ em dễ bị rối
loạn. Nguyên nhân là do có sự ức chế tù' trung khu hô hấp [24].
Trong những năm tiếp theo, tần số thở của trẻ giảm dần theo lứa tuổi [5]. Cụ
thể, ở trẻ sơ sinh tần số thở 40 - 60 lần/phút, trẻ dưới 6 tháng thở 40 - 35 lần/phút, trẻ
từ 7 - 12 tháng thở 35 - 30 lần/phút, trẻ 2 - 3 tuổi thở 3 0 - 2 5 lần/phút, trẻ 10 - 12
tuổi thở 22 - 20 lần/phút, trẻ 14 - 15 tuổi thở 2 0 - 1 8 lần/phút. Như vậy, tần số thở
của trẻ em giảm nhanh trong nhũng năm đầu, sau đó giảm dần ở những năm tiếp theo
cho đến 15 tuổi. Sau 15 tuổi thì tần số thở của trẻ em gần như khơng giảm nữa và bắt
đầu đi vào ổn định. Tần số thở của trẻ em nam và trẻ em nữ có sự chênh lệch nhỏ.
Dưới 2 tuối, trẻ em nam thở nhanh hơn trẻ em nữ, nhưng đến khi 10 tuối trẻ em nữ
thở nhanh hơn trẻ em nam. Nguyên nhân là do khi bước vào tuổi dậy thì có sự thay
đối hoạt động của một số hệ cơ quan trong cơ thể [79].

1.3.

Nghiên cứu trí tuệ của học sinh từ 7 - 1 5 tuối
Trí tuệ đã tạo ra tiến bộ trong xã hội lồi người. Vì thế, nghiên cún trí tuệ đã trở

thành một ngành khoa học góp phần quan trọng trong việc phát triển xã hội loài


người.

ít có lĩnh vực nào trong khoa học và trong sinh hoạt lại có nhiều tên gọi như
lĩnh vực trí tuệ: trí tuệ, trí thơng minh, trí khơn, trí óc (theo [62]). Mỗi thuật ngữ mang
trong mình một sắc thái riêng và được dùng trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong
tiếng La Tinh, trí tuệ có nghĩa là hiểu biết, thơng thái. Cịn trong tiếng Việt, thuật ngữ
trí tuệ thường được dùng để chỉ khả năng hoạt động trí óc của con người, là khả năng
suy nghĩ và hiểu biết, là khả năng nhận thức lí tính đạt đến một trật tự' nhất định. Trí
tuệ được dùng đế mơ tả cấu trúc hoạt động trí óc nhằm đảm bảo sự thích nghi giữa
chủ thể với điều kiện sống ln ln thay đối. Trí tuệ là một phấm chất rất quan trọng
trong hoạt động của con người, có liên quan đến cả thể chất và tinh thần [94].
Mở đầu cho những nghiên cứu đầy đủ, khoa học về trí tuệ là những nghiên cứu
theo thuyết liên tưởng vấn đề tư duy trí tuệ. Đại diện của thuyết liên tưởng này là các
nhà triết học Anh D.Ghatli (1705 - 1836), H.spencer (1820 - 1903). Thuyết liên tưởng
dựa vào học thuyết của I.P.Pavlov về phản xạ làm cơ sở sinh lý thần kinh của các mối
liên tưởng tâm lý (theo[33]).
Ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi tâm lý học bước vào giai đoạn
mới và trở thành một môn khoa học độc lập, các nhà tâm lý học bắt đầu tìm tịi đưa
khoa học tâm lý vào con đường khách quan, thì khoa học về nguồn gốc nảy sinh trí
tuệ của trẻ em cùng khoa học về nguồn gốc nảy sinh nhận thức của Piagie ra đời (theo
[20]). Năm 1920, Piagie cơng bố một loạt cơng trình nghiên cứu của mình, trong đó
có cơng trình nghiên cứu về sự nảy sinh, hình thành và phát triển trí tuệ của trẻ em. Từ
đó, ơng đề xuất một lý thuyết khá hồn chỉnh về phát triến trí tuệ của trẻ em và được
gọi là thuyết thao tác. Thuyết này xác định quá trình phát triển trí tuệ của trẻ qua ba
giai đoạn cảm giác: vận động, tiền thao tác tư duy, nhiều thao tác cụ thể. Ơng định
nghĩa, trí tuệ là sự thiết lập và vận hành các thao tác được sắp xếp cấn thận và có khả
năng chuyển hố qua lại (theo [19]).
Jean Pie cho rằng, trí tuệ xuất phát từ hành động ngay trong biếu hiện cao cấp
của nó. Quan điểm này cho thấy, trí tuệ được tạo ra chính trong hoạt động nhận thức


(theo [33]).

Theo Claparede và Stem, trí tuệ là sự thích nghi của tinh thần đối với hoàn
cảnh mới (theo [53]). Cịn J.Piagie (theo [33]) cho rằng, sự phát triến trí tuệ của trẻ em
về nguyên tắc giống như sự phát triển của sinh học. Nó là một bộ phận của tồn bộ sự
phát triển cá thể nhằm thích ứng với mơi trường sống. Quan điểm này cho thấy, tiến
trình phát triển trí tuệ của trẻ từ nhỏ đến tuổi trưởng thành, trên nhiều bình diện khác
nhau có tính tổng qt cho các giai đoạn phát triển khác nhau.
Sự phát triển trí tuệ của trẻ em là q trình tạo lập ra các cấu trúc trí tuệ mới
theo khuynh hướng kế thừa và phủ định những cấu trúc đã có của bản thân cá nhân
các em. Đe có được cấu trúc mới đó, chủ thể phải tiến hành các hoạt động với mơi
trường, nhằm tích luỹ, xây dựng và hồn thành nhũng tri thức, thao tác đã có để đến
khi chín muồi sẽ chuyển hố thành cấu trúc mới có chất lượng cao hon. Q trình này
phụ thuộc vào sự chín muồi của các cấu trúc sinh học của cơ thể đặc biệt là cấu trúc
của thần kinh [28], [66].
Nguyễn Ke Hào [23] coi trí thơng minh là một phẩm chất cao của trí tuệ, mà
cốt lõi là tính chủ động linh hoạt và sáng tạo của tư duy để giải quyết tối ưu hố vấn
đề nào đó trong tình hình mới phức tạp.
Cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiếu khác nhau về trí tuệ và có thế thấy rõ có
ba khuynh hướng chính. Khuynh hướng thứ nhất coi trí tuệ là năng lực nhận thức,
năng lực học tập của cá nhân. Trí tuệ là khả năng lĩnh hội tri thức, phán xét, đánh giá
và sáng tạo. Trí tuệ là một hệ thống tri thức có tổ chức tốt, được thể hiện không phải
chỉ trong những biểu tượng cụ thể về những sự vật hoặc sự kiện riêng biệt mà cịn
được khái qt thành khái niệm [92]. Năng lực trí tuệ trước hết phải là các phẩm chất
trí tuệ, biếu hiện năng lực nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn của con người. Hệ
thống những thuộc tính trí tuệ là những năng lực chung đảm bảo cho sự lĩnh hội tri
thức một cách rõ ràng và có hiệu quả [85], [86].
Khuynh hướng thứ hai coi trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng. Theo tài liệu
[93], chức năng của trí tuệ là sử dụng có hiệu quả các khái niệm. Hạt nhân của trí tuệ


là các thao tác tư duy như phân tích, tống hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá.

Đặc trưng của trí tuệ là tích luỹ vốn tri thức và các thao tác trí tuệ [88], [89].
Khuynh hướng thứ ba coi trí tuệ là năng lực thích nghi của con người đối với
thế giới khách quan. Theo tác giả [72], [73], thì trí tuệ là năng lực thích ứng chung của
con người đối với điều kiện và nhiệm vụ mới trong đời sống. Trí tuệ là năng lực
chung của nhân cách, được thể hiện trong hoạt động có mục đích, trong sự phán đốn
thơng hiểu và làm cho mơi trường thích nghi với những khả năng của mình [98]. Trí
tuệ là một hình thái nhất định của sự cân bằng, hình thành trên cơ sở tri giác, kỹ xảo.
Bản chất của trí tuệ bộc lộ trong mối quan hệ mới giữa cơ thế với mơi trường. Do đó,
bất kỳ một q trình trí tuệ nào cũng là sự thích nghi của cơ thể với môi trường [97].
Sự tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về trí tuệ và mỗi khái niệm chỉ nêu được
một số mặt, chúng tỏ, trí tuệ là một loại hoạt động phức tạp của con người.
Đe có cách hiểu bao qt về trí tuệ, cần tính đến các đặc trưng của nó. Trí tuệ
có bốn đặc trưng cơ bản: trí tuệ là yếu tố tâm lý có tính độc lập tương đối với các yếu
tố tâm lý khác của cá nhân; trí tuệ có chức năng đáp ứng mối quan hệ tác động qua lại
giữa chủ thế với mơi trường sống, tạo ra sự thích úng tích cực của cá nhân; trí tuệ
được hình thành và biểu hiện trong hoạt động của chủ thể; sự phát triển của trí tuệ
chịu ảnh hưởng của yếu tố sinh học và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hố - xã hội
[62].
Việc nghiên cứu trí tuệ ở Việt Nam được tiến hành trong vài chục năm gần đây.
Trước năm 1975, các cơng trình nghiên cứu trí tuệ của con người chưa được quan tâm
nhiều, chỉ có rất ít cơng trình do cán bộ ngành y tế nghiên cứu để chẩn đốn trí tuệ của
bệnh nhân tâm thần ở bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện nhi Thuỵ Điển [73], [74]. Từ
cuối những năm 1980 đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu trí tuệ của học sinh
Việt Nam. Một số tác giả quan tâm đến bản chất và cấu trúc của trí tuệ [30], [31],
[73], [88]. Kết quả nghiên cứu của các cơng trình [1], [2], [27], [29], [31], [37], [38],
[69], [71] cho thấy, có thể sử dụng test trí tuệ để chẩn đốn khả năng hoạt động trí tuệ
của trẻ em Việt Nam.


Trần Trọng Thuỷ (1989) [71], [72] là một trong số các tác giả đầu tiên nghiên

cứu về trí tuệ của học sinh Việt Nam. Qua nghiên cứu, ông đã xác định chiều hướng,
cường độ, trình độ và chất lượng phát triển trí tuệ của học sinh. Tác giả nhận thấy, sự
phân bố học sinh Việt Nam theo IQ gần sự phân phối chuấn, có sự khác biệt giữa học
sinh thành thị và học sinh nơng thơn, có sự liên quan giữa học lực và thành phần gia
đình.
Trịnh Văn Bảo [4] nhận thấy, có sự phù họp giữa chỉ số IQ và nhận thức trong
quá trình học tập của học sinh. Trong đó, yếu tố di truyền là tiền đề, là cơ sở của sự
phát triển trí tuệ của học sinh.
Năm 1991, Ngơ Cơng Hồn [27] nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của học sinh
thành phố Huế và Hà Nội nhận thấy, có sự chênh lệch về mức độ phát triến trí tuệ
giữa học sinh bình thường và học sinh chun tốn.
Tạ Thuỷ Lan, Võ Văn Tồn [37], [38], [39] nghiên cứu khả năng hoạt động trí
tuệ của học sinh bằng test Raven và điện não đồ. Nghiên cún cho thấy, năng lực trí tuệ
của học sinh tăng dần theo tuổi và có mối tương quan thuận với kết quả học tập. Ở
đầu cấp tiểu học, điểm trí tuệ của học sinh thấp hơn so với điểm chuẩn quốc tế, cịn ở
các lớp trên thì lại cao hơn. Điểm trí tuệ của học sinh Hà Nội cao hơn so với học sinh
Quy Nhơn cùng tuổi.
Nguyễn Công Uẩn và cs [90], Đức Uy [91 ] cũng đề cập đến vai trò và sự
tương tác gen, văn hố, mơi trường đối với sự phát triển trí tuệ của con người.
Cơng trình nghiên cứu của Tạ Thuý Lan, Trần Thị Loan [40], [42], [43] cho
thấy, khả năng hoạt động trí tuệ của học sinh tăng dần theo tuổi nhung tốc độ tăng
không đều. Năng lực trí tuệ của học sinh nơng thơn thấp hơn so với chuấn và so với
học sinh Hà Nội cùng tuổi, cịn học sinh Hà Nội lại có điểm trí tuệ cao hơn so với
chuẩn. Mức độ hoạt động trí tuệ giữa học sinh nam và học sinh nữ khơng có sự khác
biệt rõ, chứng tỏ hoạt động trí tuệ của học sinh khơng phụ thuộc vào giới tính.
Nguyễn Thạc, Lê Văn Hồng (1993) [69], đã nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của
học sinh Hà Nội từ 10 - 14 tuổi. Kết quả cho thấy, sự phát triển trí tuệ tăng theo lứa


tuổi và có sự phân hố từ 11 tuổi trở đi, trong đó trí tuệ của nam cao hon của nữ. Các

tác giả còn đề cập đến ảnh hưởng của điều kiện sống tới sự phát triển trí tuệ của học
sinh.
Nghiên cún của Tạ Thuý Lan, Mai Văn Hưng [44] cho thấy, năng lực trí tuệ
của học sinh Thanh Hố tăng dần theo tuổi và có mối tương quan thuận với học lực.
Nghiên cứu của Trần Thị Loan [47], [48], [52] cho thấy, năng lực trí tuệ tương
quan thuận với chỉ số BMI và tương quan nghịch với chỉ số pignet, tuy nhiên mối
tương quan này rất thấp, chứng tỏ, trí tuệ ít chịu ảnh hưởng của thể lực.
Đồn Văn Điểu [15] nghiên cún ở học sinh THCS Thành phố Hồ Chí Minh đã
nhận xét rằng, mối quan hệ giữa trí lực và khả năng học tốn của các em khá cao.
Sự phát triển trí tuệ của học sinh 7 - 1 5 tuổi diễn ra rất phức tạp. Học sinh ở
lứa tuổi này có khả năng phân tích, tổng họp phức tạp hơn khi nhận thức về sự vật
hiện tượng. Khi khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch, có trình tự
và hồn thiện hơn. Lứa tuối này trí nhớ mang tính chất của những q trình được điều
chỉnh, điều khiển và có tố chức. Những kĩ năng tố chức hoạt động tư duy, kĩ năng nắm
vững phương tiện ghi nhớ được phát triển. Khi ghi nhớ, các em đã biết tiến hành các
thao tác so sánh, hệ thống hoá, phân loại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng ghi nhớ tài
liệu tăng lên. Ghi nhớ máy móc dần nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ có ý
nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn. Mọi hoạt động ghi nhớ đều phụ thuộc vào
khả năng tập trung chú ý [36], [75].
Nhiều cơng trình cũng chỉ ra rằng, khối lượng chú ý ở lứa tuổi này tăng lên
đáng kể, khả năng di chuyến chú ý từ thao tác này đến thao tác khác, từ hoạt động này
đến hoạt động khác cũng được tăng cường rõ rệt. Các em có thể chuyển từ môn học
này sang môn học khác mà vẫn chú ý được bình thường [23], [30], [46], [49], [52],
[75].
Trong giai đoạn 7 - 1 5 tuổi, hoạt động tư duy của học sinh cũng có những biến
đổi cơ bản. Nội dung các mơn học phong phú đa dạng, phức tạp, địi hỏi tính mới mẻ
của cơng việc lĩnh hội tri thức, đòi hỏi phải dựa vào tư duy độc lập, khả năng khái


qt hố, trùn tượng hóa, so sánh, phán đốn mới rút ra kết luận được, mới hiểu được

tài liệu học [30], [31].
Qua mỗi cấp học ở trường, khả năng tư duy, trừu tượng,
phân tích, so sánh, tổng họp phát triển hon để phù họp
với sự gia tăng về số lượng môn học cũng như khối lượng
của mỗi môn học [23]. Sự thay đổi mối quan hệ giữa tư duy
hình tượng cụ thể sang tư duy trừu tượng là đặc điểm cơ
bản về hoạt động tư duy của lứa tuối này. Tuy nhiên,
những hình tượng cụ thế của tư duy bộ phận không giảm
xuống, mất đi mà vẫn tồn tại và được phát triển. Nó vẫn
giữ một vai trị quan trọng trong cấu trúc tư duy. Sự coi
thường những đặc điếm của tư duy trực quan - hình tượng
của lứa tuổi này sẽ dẫn đến tình trạng phân tích những
dấu hiệu bản chất trùn tượng này một cách hình thức [52].


1.4.

Nghiên cứu trí nhớ của học sinh từ 7 - 1 5 tuối
Trí nhớ là một q trình tâm lý phản ánh nhũng kinh nghiệm của cá nhân dưới

hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo sau đó ở trong óc mà con
người đã cảm giác, tri giác, rung động hay suy nghĩ trước đây [74], [75], [78].
Trí nhớ là sự phản ánh của não bộ con người đối với những sự vật đã qua (theo
[64]). Nó được chia làm ba khâu: nhận thức, lưu trữ, nhớ lại hoặc nhận thức lại. Xét
tù’ góc độ xử lý thông tin, ghi nhớ là một quá trình xử lý, mã hố, lưu trữ và “ lấy ra”
những thông tin.
Quan niệm của những người theo thuyết liên tưởng (Gartli, Miler, Ben) (theo
[18]) thì liên tưởng là yếu tố quan trọng nhất của sự hình thành trí nhớ và các yếu tố
tâm lí. Sự xuất hiện một hình ảnh tâm lý trong vỏ não bao giờ cũng diễn ra đồng thời
(hoặc kế tiếp nhau) với một hiện tượng tâm lý khác. Họ đề cập đến vai trò của chú ý

có chủ định và của ý chí như là điều kiện trong ghi nhớ.
Trí nhớ là một trong những chức năng tâm sinh lý cao cấp của não bộ, có bản
chất là các đường liên hệ thần kinh tạm thời, lưu giũ' và tái hiện chúng (theo [19]).
Khi những sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan tác động vào cơ thể sẽ tạo ra
cảm giác, trên cơ sở những cảm giác đơn lẻ, não bộ phân tích tổng hợp đế cho tri giác
trọn vẹn các sự vật hiện tượng và để lại dấu vết của chúng trên vỏ não. L.Vugotxki
viết: “Bản chất của trí nhớ ở con người là con người dùng các dấu hiệu để nhớ một
cách tích cực” (theo [23]).
Một số người cho rằng tri giác là sự liên kết của nhiều cảm giác riêng biệt với
nhau. Các tác giả khác lại coi tri giác là sự nhận cảm một cách toàn diện về các hiện
tượng và sự vật, nó phụ thuộc vào kinh nghiệm chủ quan của cá thể. Pritra (1996) đã
làm thí nghiệm và đưa ra kết luận, muốn tri giác được thì phải nhớ. Dựa vào đây các
nhà khoa học đã coi “ trí nhớ là sự vận động một khái niệm đã biết trước, là kết quả
của những thay đổi xảy ra trong hệ thần kinh”. Cả động vật và người đều có khả năng
ghi nhớ. Khả năng nhớ của các lồi động vật thuộc các bậc thang tiến hố khác nhau
là khơng giống nhau. Tồn tại nhiều loại trí nhớ khác nhau, nhưng đối với tất cả các


loại trí nhớ đều có sự tham gia của việc lun trữ hình ảnh (theo [36]).
Trí nhớ là khả năng lưu giữ thơng tin về mơi trường bên ngồi tác động lên cơ
thể cũng như các phản ứng xảy ra trong cơ thể và tái hiện lại những thông tin đã được
lưu giữ hoặc những kinh nghiệm cũ [16], [22]. Trí nhớ là điều kiện để con người có
và phát triển được các chức năng tâm lí bậc cao, để con người tích luỹ kinh nghiệm và
sử dụng vốn kinh nghiệm trong cuộc sống và hoạt động đáp ứng ngày càng cao những
yêu cầu của cá nhân và xã hội
[53].
Trí nhớ gắn liền với hoạt động của toàn bộ cuộc sống của con người, do vậy,
trí nhớ của con người rất đa dạng và phong phú. Có nhiều căn cứ để phân loại trí nhớ
[88]. Dựa vào tính tích cực nổi bật nhất trong hoạt động nào đó ta có trí nhớ vận
động, trí nhớ xúc cảm, trí nhớ hình ảnh và trí nhớ tù' ngữ lơgic. Dựa vào tính mục

đích của hoạt động ta có trí nhớ khơng chủ định và trí nhớ có chủ định. Dựa vào mức
độ kéo dài của sự giữ gìn tài liệu đối với hoạt động ta có trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ
dài hạn. Dựa vào tính 1Ш thế chủ đạo của các giác quan nào đó ta có trí nhớ bàng
mắt, trí nhớ bằng tai, trí nhớ bằng mũi.
Beritơv và cs (theo [36]) đưa ra bốn loại trí nhớ khác nhau. Loại thứ nhất là trí
nhớ ngắn hạn chỉ tồn tại trong vòng vài giây đến một phút sau khi tiếp nhận một sự
kiện hay một hiện tượng nào đó. Loại thứ hai là trí nhớ dài hạn, có khả năng lưu giữ
hình ảnh trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Hai dạng trí nhớ này đều được
hình thành trên cơ sở lun giữ và tái hiện các hình ảnh về một sự vật hay hiện tượng
nào đó thì gọi là trí nhớ hình tượng. Loại thứ ba là trí nhớ phản xạ, là đường liên liên
hệ thần kinh tạm thời và cuối cùng là trí nhớ cảm xúc. Loại trí nhớ này có khả năng
lưu giữ và tái hiện lại các cảm xúc về các hiện tượng có ý nghĩa và có quan trọng đối
với cuộc sống.
Aristot trước cơng ngun (theo [53]) cho rằng, hình thái của trí nhớ được quy
định bởi các mối liên hệ giữa các thuộc tính của các động vật tác động vào ta.
Năm 1946, Pavlov đã phác hoạ đường đi của hưng phấn trong phản xạ có điều


kiện. Đó chính là đường liên hệ thần kinh tạm thời. Các đường liên hệ thần kinh giữa
các trung khu là cơ sở sinh lý của quá trình học tập và ghi nhớ (theo [36]). Khi chúng
ta nhớ lại một sự vật hiện tượng nào đó cũng có nghĩa là nhũng đường liên hệ thần
kinh tạm thời được thành lập trước đây đã được phục hồi lại [86].
Theo Anokhin, trí nhớ là một hệ thống chức năng phức tạp có cấu tạo động,
trong đó hung phấn chạy theo những vịng neuron khác nhau và mỗi vòng giữ một
nhiệm vụ chuyên biệt riêng có một hiệu quả thích ứng trong q trình thực hiện một
cử động hay một hành vi (theo [36]).
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có nhiều tác giả nghiên cứu về trí
nhớ. Phạm Minh Hạc [19], [20] đã chứng minh, thùy đỉnh và thuỳ trán đều có vai trị
quan trọng trong sự ghi nhớ. Ổng cũng đă đưa ra, trong q trình lưu giữ thơng tin thì
thuỳ đỉnh giữ vai trị quyết định.

Trịnh Văn Bảo và cs [3] nghiên cứu trí nhớ của học sinh lóp năng khiếu trường
Marie - Curie và trường THCS Tơ Hồng - Hà Nội đã nhận thấy, trí nhớ của học sinh
năng khiếu tốt hơn so với học sinh bình thường.
Trần Thị Loan [46], [49], [52] nghiên cứu trí nhớ của học sinh Hà Nội cho
thấy, trí nhớ của học sinh tăng dần theo tuổi và khơng có sự khác biệt giữa nam và nữ.
Nghiêm Xuân Thăng [70] nghiên cún khả năng ghi nhớ của học sinh và sinh
viên Nghệ Tĩnh từ 10 - 20 tuổi trong các điều kiện khác nhau cho thấy, khả năng ghi
nhớ của học sinh biến đổi theo sự biến đổi của nhiệt độ, độ ẩm, cường độ bức xạ và sự
đối lưu khơng khí.
CĨ trí nhớ tốt là một điều kiện để học tập có kết quả, cơng tác thành cơng và là
cơ sở hình thành năng lực sáng tạo. Muốn sáng tạo phải có kinh nghiệm, muốn có
kinh nghiệm phong phú phải có trí nhớ. Nhiệm vụ của các thầy, cơ giáo là phải nâng
cao tính tích cực của học sinh khi ghi nhớ.
1.5. Nghiên cứu chỉ số vượt khó (chỉ số AQ) của học sinh từ 7 - 1 5 tuổi
Khi cuộc sống phát triển, những áp lực trong công việc cao hơn thì EQ (chỉ số
cảm xúc) cao hay IQ (chỉ số thơng minh) cao khơng hồn tồn quyết định thành công.


Có một yếu tố quan trọng góp phần làm nên kết quả cuối cùng, đó là chỉ số AQ (chỉ số
vượt khó). Vậy AQ là gì?
AQ là chữ viết tắt của Adversity Quotient. AQ là đại lượng đo khả năng đối
diện và xoay sở của một người trước các thay đối, áp lực và các tình huống khó khăn
trong cuộc sống. Chỉ số AQ do nhà tâm lý học người Mỹ Paul G. Stoltz đưa ra và đặt
nền móng đầu tiên cho bộ môn khoa học này. Chỉ số AQ ra đời, đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển tâm lý học cuối Thế kỷ 20. Nó chứng tỏ, việc
lượng hố những phẩm chất tâm lý bậc cao là một điều có thể làm được, như đã từng
làm với IQ và EQ.
Vào những năm 90, sau gần 2 thập kỷ nghiên cứu, Paul G. Stoltz đưa ra giả
thuyết, khả năng giải quyết khó khăn trong cuộc sống một cách nhanh chóng và hiệu
quả của một người sẽ là yếu tố quyết định lớn cho sự thành cơng của người đó. Những

người có AQ thấp được xếp vào những người thù ghét khó khăn, tránh né thử thách
đến những người lì lợm từ chối bước ra khỏi vịng an tồn. Trong khi đó, những người
có AQ cao lại sẵn sàng đón nhận khó khăn, thậm chí cịn tìm kiếm thử thách. Họ vững
chãi và tập trung vượt qua thời điếm không thuận lợi. Những người này thường làm
việc có hiệu quả hon, kiểm sốt stress tốt hơn và sống một cuộc sống thú vị hơn [102].
Như vậy, chỉ số AQ bậc cao vẫn có trong đời thường, trong những người bình
dị mà cao cả (dù hữu danh hoặc vô danh) chứ không chỉ tồn tại trong các bậc anh
hùng xuất chúng. Bill Gates (chủ tịch Tập đoàn Microsoft) có nói: “Những ai tự chế
được bản thân hoặc tự vượt lên chính mình dù chỉ trong khoảnh khắc cũng đều có
“máu” anh hùng. Những lúc như vậy, chỉ số AQ nơi họ tăng đột biến”. Nhờ rèn luyện
và “tiêm nhiễm” từ những tác động tích cực, từ những mơi trường tích cực (nhất là
mơi trường giáo dục nhân bản), con người có thể được “truyền máu” anh hùng từ tuổi
thơ. Cuộc khảo sát của các nhà tâm lý trong suốt 15 năm theo dõi 10 đứa trẻ đã chứng
minh điều đó.
Thường những ai có chỉ số EQ cao thì AQ cũng có phần cao. Nhưng khơng
phải bao giờ và ở bất kỳ ai giữa EQ và AQ đều có tỉ lệ thuận. Thực tế cho thấy rất


nhiều người tốt về cảm xúc, tốt về nhân cách nhưng... việc khơng thành, cuộc đời vẫn
lắm bất hạnh. Nói như tác giả của chỉ số AQ (Paul G.Stoltz): “Người tốt vẫn có thể là
người khơng bền lịng theo đuổi mục đích” [101].
Tiến sĩ Paul G. Stoltz nói: “Nếu chúng ta sẵn sàng đón nhận khó khăn thì
chúng ta sẽ tự làm tăng AQ của mình lên. AQ cao biến chúng ta thành con người kiên
cường, gan dạ và khoẻ mạnh”. Như vậy, nếu bạn gặp phải một vấn đề khó khăn, hãy
xem nó như một thử thách ý chí của bạn [100].
Theo Paul G. Stoltz, chỉ số AQ có thể đo mức độ hoài bão, nỗ lực, sự sáng tạo,
năng lượng, sức khoẻ lý tính, xúc cảm và hạnh phúc của một người. Nó cũng chính là
một chỉ báo về 4 mức độ cao thấp của bản lĩnh sống:

1. Đối diện khó khăn

2. Xoay chuyển cục diện
3. Vượt lên nghịch cảnh
4. Tìm được lối ra.
Cả 4 mức độ này đều có thể thay đổi nhờ vào rèn luyện [103].
Tiến sĩ Paul G. Stoltz đã chứng minh, nếu một người nào đó có được bốn đức
tính sau thì sẽ dễ dàng vượt qua trở ngại khó khăn của cuộc sống và có thể thay đổi
mức độ cao thấp của bản lĩnh sống. Khi làm được điều này tức là bạn đã cải thiện
được rất nhiều chỉ số AQ của mình.

-

Biết kiểm sốt
Khi gặp phải khó khăn, bạn đừng vội cho rằng mình bất lực. Những người có
AQ thấp thường chấp nhận thua cuộc trước khi đấu tranh. Họ là những người ln
thất bại.
Hãy tin tưởng rằng mình có thể điều khiển, kiểm sốt được mọi tình huống. Và
với lịng tin ấy, hãy đặt ra nhũng hành động cụ thể để có thể làm chủ được tình huống.
Điều này khiến mọi con đường của bạn đều hướng về phía trước.

-

Hãy cố gắng thế hiện khả năng của mình.


Đừng đắm chìm mãi trong việc thương tiếc bản thân. Neu bạn gặp khó khăn,
đừng than thở: “Tình huống xấu này luôn luôn xảy ra với tôi. Tôi sẽ chẳng bao giờ
khá được”. Hãy cố gắng thể hiện khả năng của mình. Trước hết là chấp nhận thất bại
và thua thiệt. Sau đó là cố gắng tập trung phát triển cơng việc.

-


Biết nhìn xa trơng rộng
Hãy thử suy nghĩ cho thật kỹ: Liệu khó khăn này có hủy hoại mọi thứ trong
công việc của bạn? Nếu bạn tin rằng những thất bại tạm thời đó báo hiệu cơng việc
của bạn chấm hết, bạn sẽ nản lịng. Điều này có thế dẫn tới thái độ làm việc tiêu cực
và đưa ra các quyết định tồi. Vói những kết quả đó, bạn có thế hủy hoại chính tương
lai của mình.

-

Bình tĩnh suy nghĩ chu đáo
Hãy tỉnh táo suy nghĩ xem cái gì đã xảy ra trước khi quyết định tiếp theo sẽ
làm gì. Những người có AQ thấp thường thất bại vì lý do họ chi có một mình đế giải
quyết khó khăn. Tự nhận trách nhiệm thái quá có thế sẽ bẻ gãy cố gắng, hy vọng và tự
tin của họ. Thay vào đó, hãy tự hỏi: Ai, cái gì gây ra khó khăn này? Và tơi có thế giải
quyết nó được bao nhiêu?
Theo tiến sĩ Paul G. Stoltz, một trong những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu
về khả năng vượt khó của con người thì câu trả lời nằm ở khả năng khắc phục khó
khăn trong cuộc sống của mỗi người [100]. Theo ơng thì khả năng vượt khó được tích
lũy từ khi cịn bé, tích lũy thơng qua những thử thách lớn, bé mà ta phải đối mặt hàng
ngày. Với hơn 40 năm nghiên cứu, tiến sỹ Paul G. Stoltz đã chứng minh được rằng,
khi phải đối phó lại với những nghịch cảnh thì đó chính là cơ hội để rèn luyện và tăng
khả năng kiểm soát để đối mặt với bất kỳ tình huống nào xảy ra.
Những người có khả năng vượt khó thấp khi đối mặt với nghịch cảnh thường
trở lên yếu đuối, thậm chí vơ dụng. Không những thế, những người này sẽ không giám
chịu trách nhiệm về những hành động của mình và họ dường như thấy rằng mình
khơng thể kiểm sốt được cuộc sống của chính mình.
Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, để thực hiện được bốn vấn đề trên là một



điều rất khó mà khơng phải ai cũng làm được. Những người làm được điều đó phải là
những người đã khẳng định được bản thân, biết nỗ lực vươn lên và đặc biệt là không
phản ánh tiêu cực trước những vấn đề khó khăn của cuộc sống.
Theo tiến sĩ Paul G. Stoltz, tồn tại bốn đặc điểm của một người có chỉ số AQ

-

cao [99].
Lắng nghe
Điều đầu tiên để có thể đưa ra một quyết định khôn ngoan khi đối diện với
nghịch cảnh là bạn phải lắng nghe chính mình. Học cách cảm nhận nguy hiểm trước
khi nó vượt khởi tầm kiếm soát. Và bạn cũng phải xác định xem liệu chỉ số AQ của
bạn là cao hay thấp. Neu AQ thấp thì cần nhiều thời gian để suy nghĩ, đế đưa ra những
phản ứng tích cực hơn. cần chú ý là, nghịch cảnh - chính nó giúp bạn nhanh chóng
nâng cao khả năng phản ứng của bạn.
Khám phá ở đây bao gồm cả việc tìm hiểu nguồn gốc và chủ động tìm các giải
pháp để làm chủ tình hình. Neu một cá nhân khơng có tính tự chủ thì họ sẽ khơng
hành động. Những người có chỉ số AQ cao cũng có thể đổ lỗi cho tình huống nhưng

-

cũng khơng vì thế mà ngừng hành động.
Phân tích
Điều quan trọng để kiểm sốt nghịch cảnh là từng bước phân tích thông qua
những chúng cứ thực tế hoặc thông qua các tình huống giả định. Bạn cần phải kiểm
tra và xem xét bất cứ yếu tố nào gây cản trở đến bạn. Hãy đối diện với nghịch cảnh đế

-

cải thiện tình hình chứ đừng nên trốn tránh nó.

Làm điều gì đó
Hãy hành động nhưng cần thận trọng. Hãy suy nghĩ mình cần thơng tin gì, cần
hành động ra sao để giúp vượt qua được nghịch cảnh. Những câu hỏi: cái gì, ở đâu,
khi nào, những câu hỏi tại sao luôn cần thiết để có thể giúp bạn tìm ra lời giải đáp.
Đừng dừng lại ở việc liệt kê các hành động mà hãy thực hiện nó. Mọi người ít nhiều
đều phải đối mặt với những tình huống khó khăn trong cuộc sống. Những thách thức
mà chúng ta gặp phải không phải đế chúng ta phải đắm chìm trong những ý nghĩ tiêu


cực và tuyệt vọng [99].
Chỉ số AQ của một người được biểu hiện bằng bốn chỉ số thành phần. Mỗi chỉ
số thành phần phản ánh một góc độ nào đó của q trình vượt qua khó khăn, trở ngại.
Bốn chỉ số thành phần đó là: c, o, R, E

-

Chỉ số c (Control): Kiểm sốt, điều khiển
Những nguời có AQ cao có thể kiểm sốt được tốt các tình huống xảy ra hơn là
người có AQ thấp. Ngay cả trong tình huống xuất hiện quá khả năng của họ thì những
người có AQ cao vẫn có thể tìm thấy giải pháp. Những người có AQ thấp thì ít hoặc
khơng kiểm sốt tốt.
Đo chỉ số c để xác định mức độ kiểm sốt của một người khi họ trải qua trở
ngại. Đó là khả năng phục hồi về thể chất và tinh thần.

-

Chỉ số o (Ownership): Quyền sở hữu
Những người có AQ cao thường có trách nhiệm giữ mình đế đối phó với bất kì
tình huống nào do họ gây ra. Những người có AQ thấp thường cảm thấy cơ đơn và
cần giúp đỡ.

Đo chỉ số o đế xác định mức độ chịu trách nhiệm và khả năng xử lý tình huống
hành động.

-

Chỉ số R (Reach): Phạm vi hoạt động
Những người có AQ cao chấp nhận thất bại và thách thức trong mọi thời điếm,
không cho chúng ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống của họ. Những người có AQ
thấp thường rơi vào trạng thái thê thảm khi bị thất bại.
Đo chỉ số R đế xác định mức độ, phạm vi tiếp cận sự kiện, sức chịu đựng các
cấp độ căng thẳng.

-

Chỉ số E (Endurance): Khả năng chịu đựng, tính nhẫn lại
Những người có AQ cao ln đối diện khó khăn với thái độ lạc quan và giữ
vững hy vọng. Những người có AQ thấp xem trở ngại như là khó khăn không giải
quyết nổi.
Đo chỉ số E để xác định thời gian chịu đựng các sự kiện


xấu, là thước đo sự lạc quan, hi vọng.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu

2.1.

Đối tưọìig nghiên cứu
Đối tượng nghiên cún là học sinh tò 7 - 15 tuổi tại trường Tiểu học và Trung


học cơ sở xã Nam Phong, Thành phố Nam Định. Tất cả có 9 nhóm với 9 độ tuối khác
nhau, từ 7 - 15 tuối. Đối tượng nghiên cún ở trạng thái hoàn toàn khoẻ mạnh, khơng
có dị tật về hình thế và bệnh mãn tính.
Bảng 2.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu
Ti
Chung

Nam

Nữ

7

91

44

47

8

88

44

44

9

99


47

52

10

96

49

47

11

92

46

46

12

96

49

47

13


87

43

44

14

89

46

43

15

94

47

47

Tơng sơ

832

415

417


2.2.

Phương pháp nghiên cứu

2.2.1.

Phương pháp nghiên cửu các chỉ số thể lực

-

Chiều cao được đo ở tư thế đứng thẳng trên nền phẳng, hai gót chân sát vào nhau, mắt
nhìn thẳng, đồng thời đảm bảo 4 điểm (chẩm, lưng, mơng, gót) chạm vào thước đo.
Tư thế đứng thẳng được xác định khi đi mắt và lỗ tai ngồi cùng ở trên đường
thẳng nằm ngang, song song với mặt bàn cân.

-

Cân nặng được xác định bằng cân điện tử SECA của Nhật Bản. Cân phải đặt trên nền


nhà bằng phang, đo xa bữa ăn. Khi đo học sinh nên mặc quần áo mỏng, không đi giày
dép. Cân vào buổi sáng khi chưa ăn. Khi đọc cân nặng cố gắng đọc chính xác đến 100
gam.

-

Vỏng ngực trung bình được đo bằng thước dây không co giãn của Trung Quốc, có
vạch chia độ chính xác tới mm. Vịng ngực đo ở tư thế thẳng đứng, vòng thước quấn
quanh ngực, phía sau vng góc với cột sống sát dưới xương bả vai, phía trước qua

mũi ức, sao cho mặt phẳng do thước dây tạo ra song song với mặt đất.

-

Chỉ số pignet được tính theo cơng thức:
Pignet = Chiều cao đứng (cm) - [Cân nặng (kg) + vòng ngực trung bình (cm)] Phân
loại thể lực theo chỉ số pignet (theo[6]) được trình bày trong bảng 2.2.
Bảng 2.2. Phân loại thể lực theo chỉ số pignet
Phân loại
pignet
Cực khoẻ
Rât khoẻ

23,0 - 28,9

Khoẻ

29,0 - 34,9

Trung bình

35,0-41

Yêu

41,1 - 47,3

Rât yêu

47,5 - 53


Cực yêu

-

<23

>53

Chỉ số BMI gọi là chỉ số khối cơ thể tính theo công thức: BMI =
Khối lượng cơ thể (kg) / [Chiều cao đứng (m)]2 Chỉ số BMI được
đánh giá theo CDC [104] (hình 2.1 và 2.2). Biểu đồ BMI đã chia
ra làm 4 cấp độ
BMI < bách phân vị thứ 5: suy dinh dưỡng BMI =
bách phân vị thứ 5-85: bình thường BMI = bách phân
vị thứ 85 -95: nguy cơ béo phì BMI > bách phân vị
thứ 95: béo phì


×