Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Những thay đổi trong tư duy, quan điểm, hành động của đảng ta tác động đến việc VN hội nhập kinh tế với ASEAN giai đoạn 1986 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.29 KB, 23 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao
***
TIỂU LUẬN
Môn: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài:
VIỆT NAM THAY ĐỔI TƯ DUY, QUAN ĐIỂM, HÀNH
ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ VỚI
ASEAN GIAI ĐOẠN 1986-2006
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Hoàng Như Thanh
Nhóm thực hiện :
Nguyễn Phương Anh - CT40E
Trần Hoàng Linh Chi - CT40E
Bùi Thị Hồng - CT40E
Lưu Thùy Linh - CT40E
Trần Thị Minh Trang - CT40E
Nguyễn Quốc Việt - CT40E
Hà Nội – tháng 6/2015
1
MỤC LỤC
2
Đại hội Đảng VI năm 1986 mang một ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh
dấu bước chuyển mình của đất nước, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Từ
nhận thức về những hạn chế trong quá khứ, Đảng ta đã mạnh dạn nhìn nhận
những khuyết điểm trong công tác chỉ đạo và những thiếu sót, chủ quan
trong các chính sách ban hành, thẳng thắn nhận sai và sửa sai. Từ giữa
những năm 1990, Việt Nam bắt đầu đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế
của mình như là một phần của chính sách “Đổi mới” và chủ trương mở rộng
quan hệ hợp tác với tất cả các đối tác, trong đó phải kể đến sự mở rộng hợp
tác kinh tế với ASEAN.


Việc thay đổi tư duy, quan điểm, hành động trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đã mang lại sự thay đổi lớn lao cho nền kinh tế đất nước.
Việc chuyển từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế kinh
tế thị trường nhiều thành phần là một sự lựa chọn đúng đắn, không phải do
ý muốn chủ quan của ai đó, càng không phải là sự chuyển hướng đi sang tư
bản chủ nghĩa mà nó phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với tất yếu
lịch sử, mở ra một con đường mới, một cơ hội phát triển và hội nhập quốc
tế của nước ta dù còn nhiều khó khăn và thách thức.
Nhận thấy được sự quan trọng trong quyết định đổi mới của Đảng,
nhóm lớp CT40E đã quyết định chọn đề tài “Những đổi mới trong tư duy,
quan điểm, hành động trong hội nhập kinh tế với ASEAN giai đoạn 1986-
2006” làm đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu rõ hơn những thay đổi bên
trong và thực tế của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn này, đồng thời cũng
làm rõ hoạt động hội nhập kinh tế Việt Nam – ASEAN.
Tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích những đổi mới trong tư duy về
kinh tế sau năm 1986 dẫn đến những đổi mới trong quan điểm chỉ đạo của
Đảng, đồng thời thể hiện rõ qua những hành động cụ thể khi Việt Nam chủ
động và tích cực hơn trong quá trình tham gia vào ASEAN. Quá trình đổi
mới và hội nhập kinh tế đã đem lại nhiều cơ hội, triển vọng song cũng có
nhiều nguy cơ, thách thức phải vượt qua nhất là vấn đề chủ quyền trong hội
nhập. Qua những điểm đổi mới này, ta có thể đánh giá những gì đã làm
được và chưa làm được trong quá trình hội nhập, đồng thời nhìn lại chặng
đường 20 năm đổi mới của nền kinh tế Việt Nam và những triển vọng trong
tương lai của nền kinh tế năng động của khu vực Đông Nam Á.
Trong quá trình tiến hành thực hiện tiểu luận, nhóm còn gặp nhiều
khó khăn về khả năng tiếp cận và phân tích vấn đề, việc tiến hành tìm hiểu
tài liệu tham khảo đề hoàn thành nghiên cứu nhưng với sự nỗ lực, quyết tâm
3
của nhóm và sự giúp đỡ của thầy Nguyễn Hoàng Như Thanh, hy vọng bài
tiểu luận về đổi mới kinh tế Việt Nam trong hội nhập kinh tế với ASEAN

sau năm 1986 sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn sinh
viên nghiên cứu về vấn đề này. Một lần nữa nhóm nghiên cứu xin chân
thành cám ơn.

Nhóm nghiên cứu lớp CT40E
4
1.Việt Nam thay đổi tư duy trong quá trình hội nhập kinh tế với ASEAN
giai đoạn 1986 - 2006
1.1.Bối cảnh
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Vào thập kỷ 80, những biến động của tình hình thế giới phát triển
nhanh và dồn dập hơn, đã dẫn tới những đảo lộn lớn trong bàn cờ thế giới.
Thời gian này, các nước XHCN đều lần lượt lâm vào tình trạng trì
trệ, khủng hoảng toàn diện và trầm trọng. Đây là cuộc khủng hoảng “có tính
chất mô hình”, CNXH mà các nước đang xây dựng thực chất là CNXH thời
chiến, bắt nguồn từ kinh nghiệm của Liên Xô, từng thích hợp với những
điều kiện đặc biệt của nước Nga Xô Viết, nhưng lại được coi là mô hình
duy nhất, phổ biến cho tất cả các dân tộc khi lựa chọn con đường phát triển
theo CNXH. Vì vậy, ở các nước XHCN lần lượt diễn ra quá trình cải tổ, cải
cách, đổi mới…dù tên gọi khác nhau nhưng đều giống nhau về mô hình
chung. Có thể thấy, dù kết quả điều chỉnh khác nhau, song trào lưu cải tổ,
cải cách và đổi mới…đã phản ánh nhu cầu khách quan, giúp tháo gỡ được
những rào cản to lớn về nhận thức và tạo thuận lợi cho việc phát triển công
cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Ở các nước TBCN, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ diễn ra và
phát triển như vũ bão đã tác động mạnh mẽ đến chiến lược phát triển của tất
cả các quốc gia, làm thay đổi tư duy trong việc đánh giá sức mạnh tổng hợp
của đất nước, trong đó nước nào cũng thấy rõ nhân tố kinh tế là nhân tố
đóng vai trò quan trọng và nổi trội nhất.Cách mạng khoa học – công nghệ
khiến cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, thúc đẩy quá trình toàn cầu

hóa, khu vực hóa kinh tế, buộc các nước phải đề ra chiến lược phát triển,
điều chỉnh cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp, đổi mới chính sách theo hướng
mở cửa, giảm dần và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo
điều kiện cho việc lưu thông buôn bán hàng hóa, luân chuyển vốn, lao động
và kỹ thuật trên phạm vi toàn cầu, mở rộng hợp tác kinh tế trên toàn thế
giới. Đặc biệt còn phải kể đến sự thay bậc đổi ngôi của các ngành kinh tế.
Ngành công nghiệp nặng không phải lúc nào cũng là ưu tiên hàng đầu mà
còn có sự ra đời và chiếm lĩnh vị thế của các ngành mới: điện tử, tin học,
vật liệu mới, công nghệ sinh học, du hành vũ trụ,…Ngoài ra còn có xu thế
rút ngắn con đường phát triển với sự nổi lên của nhứng nước công nghiệp
mới nổi.
5
Bên cạnh đó, hầu hết các nước cũng tích cực tham gia vào các cơ cấu
tổ chức kinh tế, thương mại và tài chính – tiền tệ toàn cầu, thích ứng với
“luật chơi chung” của thế giới. Điển hình như việc tham gia Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO).
Việc hợp tác liên kết khu vực ngày càng phát triển đã dẫn đến sự ra
đời của hàng loạt các tổ chức hợp tác kinh tế, thương mại. Trong số đó có
thể kể đến: Liên minh châu Âu (EU); Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN); Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC)….
Có thể thấy, hợp tác liên kết quốc tế đã trở thành xu thế chung, dỡ bỏ
được nhiều rào cản thương mại, nhờ đó hoạt động sản xuất và trao đổi
thương mại giữa các nước ngày càng được thúc đẩy mạnh theo hướng nhất
thể hóa. Nói cách khác, tất cả các nước đều nỗ lực tìm cách hội nhập vào xu
thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế để tồn tại. Đây thực chất là quá trình
“vừa hợp tác vừa đấu tranh” trong quan hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế, trước
hết về kinh tế là xu thế tất yếu, và là nhu cầu cấp bách trong bối cảnh quốc
tế trước năm 1986.
1.1.2. Bối cảnh trong nước

Sau năm 1975, với thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, Việt Nam – một nước công nghiệp lạc hậu đã quyết định tiến lên
CNXH mà bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Không thể phủ nhận đây là
một hướng đi mới, song chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn và thử thách.
Trong giai đoạn 1976-1985, trải qua hai lần kế hoạch Nhà nước 5 năm,
Đảng và Nhà nước ta vừa tìm tòi, vừa thử nghiệm con đường đi lên CNXH
và đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nhiều lĩnh vực đời sống xã
hội như: tiếp quản và ổn định vùng giải phóng, hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục kinh tế, cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế ở cả hai miền Nam-
Bắc, chuyển từ kinh tế chủ yếu được xây dựng, hoạt động phục vụ chiến
tranh sang hòa bình xây dựng. Cơ sở vật chất, kĩ thuật của CNXH được xây
dựng và bắt đầu phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. An ninh chính trị
được đảm bảo, độc lập chủ quyền quốc gia được giữ vững.
Song cách mạng cũng gặp không ít những khó khăn và yếu kém.
Điển hình từ giữa những năm 80, Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội, lạm phát tăng cao…Không những thiếu những chuyên gia
về quản lý kinh tế mà ta còn phải chịu sức ép do bị cắt giảm các nguồn viện
6
trợ từ Mỹ, các vụ bạo loạn, kích động, quấy phá cách mạng nổi lên, nhất là
ở khu vực biên giới Tây Nam và phía Bắc. Nhu cầu chi ngân sách đột ngột
tăng vọt do phải chi cho các chính sách xã hội và xây dựng, đặc biệt trong
thời gian này Việt Nam còn phải chi viện cả sức người và sức của giúp nhân
dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Ponpôt. Kết quả là bội chi ngân
sách không ngừng gia tăng, đỉnh điểm tăng đến 30%/năm. Nền kinh tế của
Việt Nam lúc đó tồn tại hai hệ thống giá, hai hệ thống phân phối và phân
phối lại. Ngân hàng thiếu tiền mặt trầm trọng trong khi lạm phát tiếp tục gia
tăng. Ngoài ra, trong lĩnh vực phân phối lưu thông, nước ta đã phải công bố
lệnh đổi tiền lần thứ tư với tỷ lệ: một đồng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
mới bằng mười đồng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũ để điều chỉnh sức
mua và thu nhập do một số cá nhân làm ăn bất chính gây ảnh hưởng đến

nền kinh tế quốc gia. Song do không lường trước được những hậu quả có
thể xảy ra, đã khiến lượng tiền xuất ra nhiều hơn trước, phần lớn số tiền
phát ra bị “tài chính hóa”. Nhìn chung, nền kinh tế nước ta lúc đó gắn liền
với bức tranh khủng hoảng trầm trọng: thiếu tiền trong Ngân hàng, lạm phát
phi mã; vật tư, hàng hóa chủ yếu vẫn tuột khỏi tay Nhà nước, ….Nhân dân
ngày càng mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước.
Nguyên nhân là do Đảng đã vấp phải những sai lầm rất nghiêm trọng
cả về đối nội (bao gồm cả kinh tế) và đối ngoại, với nhiều hậu quả lâu dài,
mà chủ yếu là do sự chủ quan, duy ý chí, không hiểu thế giới và không hiểu
chính bản thân nước ta: tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH…
Vậy là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp với
điều kiện nước ta lúc bấy giờ. Để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy sự
nghiệp cách mạng chủ nghĩa xã hội, yêu cầu cấp thiết đối với Đảng và nhà
nước ta là phải đổi mới. Và Đại hội VI của Đảng (1986) đã mở ra bước
ngoạt trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.
1.2. Đổi mới tư duy trong quá trình hội nhập kinh tế với ASEAN
Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhân tố quốc tế - thời đại, đặc
biệt là vấn đề quan hệ vs các nước láng giềng và khu vực, có những ảnh
hưởng nhất định đến tiến trình phát triển cách mạng Việt nam.
Tiến sĩ Vũ Dương Huân trong bài viết “ Về vấn đề đổi mới tư duy đối
ngoại của Việt Nam” đã đưa ra một định nghĩa như sau: “Đổi mới tư duy
đối ngoại là đổi mới nhận thức, quan niệm, cách tiếp cận, cách đánh giá về
7
tình hình thế giới và quan hệ Quốc tế, trước hết là các vấn đề thời đại như
nội dung, tính chất, đặc điểm, vấn đề chiến tranh và hòa bình, các lực lượng
Cách mạng, chủ nghĩa tư bản và hiện đại và các xu thế phát triển của thế
giới hiện nay.
1.2.1. Tư duy hội nhập kinh tế giai đoạn sau khi giải phóng dân
tộc (1975) đến trước 1986

Sau sự kiện Việt Nam giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước,
Hoa Kỳ đã ngay lập tức triển khai lệnh cấm vận đối với nước ta. Tuy nhiên
sau đó không phải là không có cơ hội cho Việt Nam trong việc cải thiện
quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Hoa Kỳ đã đề xuất gỡ bỏ lệnh cấm vận với
Việt Nam với các điều khoản trao trả hài cốt binh sĩ Mỹ và không đặt vấn
đề bồi thường chiến tranh. Thậm chí vào ngày 4 tháng 5 năm 1977, Hoa Kỳ
còn đồng ý cho Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc. Bên cạnh đó, các nước
Tây Âu và một số quốc gia tại Đông Nam Á cũng bày tỏ mong muốn giúp
đỡ, tạo dựng mối quan hệ hữu nghị với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đã
không tranh thủ bối cảnh quốc tế khá thuận lợi này. Trong giai đoạn sau khi
thống nhất đất nước đến trước 1986, Việt Nam chủ yếu quan hệ với các
nước trong khối Xã hội chủ nghĩa, tham gia vào hội đồng tương trợ kinh tế
SEV (1978). Một khó khăn lớn với chúng ta lúc bấy giờ là việc cắt giảm
viện trợ từ phía các nước Xã hội chủ nghĩa và việc Trung Quốc cắt viện trợ
hoàn toàn đối với Việt Nam. Trong giai đoạn này, Việt Nam chịu ảnh
hưởng bởi tư duy Chiến tranh lạnh và 2 cuộc đấu tranh ác liệt trong suốt 30
năm qua. Vì thế mà ta không nhìn thấy được những cơ hội để hội nhập khu
vực, thế giới đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Tư duy của ta trong giai đoạn
này không thật sự tỉnh táo, từ đó không có được những chính sách thức thời
để phát triển đất nước thông qua phát triển kinh tế.
1.2.2. Tư duy hội nhập kinh tế quốc tế từ Đại hội VI 1986
Đứng trước một bối cảnh thế giới mới, một hoàn cảnh mà đất nước
đang rất cần những bước đi đúng đắn để cải thiện nền kinh tế đang tụt hậu,
Việt Nam đã có những đổi mới về tư duy trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đó
là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ kinh tế - xã hội đến chính trị và
cả trong tư duy đối ngoại.
Trong hoạt động đối ngoại, Đảng ta xác định nội dung cơ bản của
chính sách đối ngoại là lấy kinh tế đối ngoại làm ưu tiên hàng đầu. Kinh tế
đối ngoại có vai trò to lớn trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước như góp phần tạo vốn; thúc đẩy quá trình đổi mới kỹ thuật – công

8
nghệ theo hướng hiện đại hóa; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tạo điều kiện khai thác tốt lợi thế so
sánh của đất nước, thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế - xã hội. Theo
báo cáo Chính trị Đại hội VI: “Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong
chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học – kĩ thuật và
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến nhanh hay chậm, điều
đó phục thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại”. (Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, tr 81)
Đầu tiên, đổi mới tư duy trong hội nhập kinh tế xuất phát từ việc ta
đổi mới tư duy về quan hệ quốc tế: Xuất phát điểm từ lợi ích dân tộc, ta
nhìn nhận thế giới tùy thuộc lẫn nhau chuyển từ đối đầu sang đối thoại, ta
tham gia tích cực vào phân công lao động, hòa bình cùng tồn tại. Lúc này
lợi ích quốc gia, dân tộc là định hướng cho tư duy về quan hệ quốc tế.
Tiếp theo, đổi mới trong tư duy đánh giá tình hình quốc tế cũng tác
động đến tư duy trong quá trình hội nhập kinh tế: Trong thời điểm này
(1986) ta nhìn nhận thế giới đang trong giai đoạn hòa bình, mâu thuẫn tuy
vẫn tồn tại nhưng biểu hiện tùy từng hoàn cảnh, phát triển kinh tế là xu thế
chung của toàn thế giới. Trong quá trình phát triển kinh tế toàn cầu, hợp tác
– đấu tranh luôn là hai mặt biện chứng, thống nhất.
Đặc biệt phải kể đến đổi mới tư duy trong việc xác định mối quan hệ
giữa các phạm trù, trong đó đổi mới quan điểm về cặp phạm trù an ninh và
phát triển tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới việc đổi mới tư duy trong hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trước đây khi nói đến an ninh – phát triển,
chúng ta chỉ nghĩ đến sức mạnh quân sự, sức mạnh chuyên chính vô sản.
Trong bối cảnh các nước tuy độc lập nhưng vẫn phụ thuộc vào nhau để phát
triển, cùng với đó là sự phát triển không ngừng của công nghệ, khoa học kĩ
thuật. Đó chính là lí do giải thích tại sao nền an ninh của mỗi quốc gia phải
dựa vào sự phát triển kinh tế. Nền kinh tế có mạnh thì mới đảm bảo được

độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia. Vì vậy Đảng ta quyết định đổi mới tư
duy trong quá trình hội nhập kinh tế, đưa kinh tế Việt Nam phát triển theo
xu hướng hòa nhập toàn cầu, hợp tác kinh tế khu vực và thế giới. Đảng đã
khẳng định vai trò quan trọng của sức mạnh kinh tế thông qua nghị quyết 13
Bộ Chính trị tháng 5/1988: “Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng
vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta càng
9
có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội hơn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 13/BCT, ngày 20/5/1988)
1.2.3. Đổi mới tư duy cụ thể trong hội nhập kinh tế với ASEAN
1.2.3.1. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN
Đầu tiên chúng ta phải hiểu rõ hơn về hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á – ASEAN.
Từ sau năm 1945, các quốc gia Đông Nam Á lần lượt giành được độc
lập, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào các nước đế quốc bằng những con
đường khác nhau. Đến giữa năm 1960, tình hình thế giới chuyển biến đa
dạng, các trào lưu hợp tác khu vực ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Vì mục
tiêu phấn đấu chung, một số quốc gia Đông Nam Á đã hình thành những
liên kết: Hiệp hội Đông Nam Á (ASA), MAPHILINDO… Nhưng các tổ
chức này đều có những mâu thuẫn, tranh chấp nên không thể tồn tại được
lâu dài. Trong bối cảnh đó, ngày 08/8/1967 Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (Association of Southeast Asian Nations) gọi tắt là ASEAN. Hiệp
hội ra đời gồm có 5 quốc gia thành viên: Indonesia, Malaysia, Singapor,
Philippin, Thái Lan. Mục tiêu của hiệp hội là thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
xã hội, văn hóa thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng nhằm
tạo cơ sở cho một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình ở Đông Nam Á.
1.2.3.2. Đổi mới tư duy cụ thể trong hội nhập kinh tế với ASEAN
Những nhận định về tình hình, xu thế phát triển trong khu vực là
nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sự thay đổi tư duy trong hội nhập kinh tế
giữa Việt Nam và ASEAN. Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng

đã nêu ra những nhận định mang tính đổi mới này: “Châu Á – Thái Bình
Dương là một trung tâm đấu tranh gay gắt giữa cách mạng và phản cách
mạng, đồng thời ở khu vực này, quan hệ giữa các nước có chế độ chính trị
khác nhau cùng ở trong xu thế chung là đấu tranh trong hình thái cùng tồn
tại hòa bình”(Đảng cộng sản Việt Nam, Văn hiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.37).
Rõ ràng sự phát triển của Việt Nam phụ thuộc một phần quan trọng
vào việc mở rộng hợp tác với bên ngoài, đặc biệt là hợp tác với các nước
trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó phải kể đến tổ chức các
quốc gia Đông Nam Á ASEAN. Xuất phát từ nhận thức đó, Nghị quyết Hội
10
nghị lần thứ VI BCH TW khóa VI đã chủ trương “mở rộng và đa dạng hóa
quan hệ với các nước, phát triển quan hệ với các nước Châu Á – Thái Bình
Dương” (”(Đảng cộng sản Việt Nam, Văn hiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr.40). Như vậy lúc này, Đảng đã
định hướng rõ hội nhập kinh tế với các nước, nhóm nước trong khu vực là
một nhu cầu bức thiết hàng đầu.
Đối với trở ngại trong quan hệ Việt Nam – ASEAN, Nghị quyết đại
hội VI và các hội nghị trung ương, Bộ Chính Trị khóa VI đã thể hiện quyết
tâm giải quyết “vấn đề Campuchia”. Đây là một bước đổi mới tư duy quan
tọng nhằm giải tỏa trở ngại, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế với khu
vực, thế giới, đặc biệt với ASEAN.
Theo giáo sư Vũ Dương Ninh, những năm cuối cùng của Thế kỷ XX,
trong khu vực cũng đang tồn tại những mâu thuẫn và nhiều nhân tố có thể
gây mất ổn định. Ta nhận thức tầm quan trọng của khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương với việc xây dựng, phát triển nền kinh tế Việt Nam, chủ trương
của Đảng là: “Cần coi trọng Châu Á – Thái Bình Dương cũng như Đông
Nam Á trong quan hệ đối ngoại của mình”. Như vậy, nhân tố ASEAN ngày
một được đề cao trong chính sách đối ngoại hợp tác kinh tế của Việt Nam.
Tóm lại, Đại Hội VI thể hiện chuyển biến tư duy, nhận thức về đối

ngoại kinh tế trong quan hệ với đối ngoại chính trị, khẳng định kinh tế đối
ngoại có vai trò quan trọng hàng đầu.
11
2. Các văn kiện của Đảng liên qua n tới đổi mới tư duy về phát triển kinh
tế
2.1. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc khóa VI (1986)
Từ bối cảnh thực tiễn, nhận thức về đổi mới tư duy trong hợp tác kinh
tế khu vực và quốc tế, Đảng đã cụ thể hóa những quan điểm, nhận thức đó
thông qua Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc khóa VI.
" Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất
khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu. Tham gia ngày càng rộng rãi vào sự
phân công lao động quốc tế, trước hết và chủ yếu là phát triển quan hệ
phân công, hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các
nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Chủ động cùng các nước anh
em xây dựng và thực hiện chương trình của Hội đồng tương trợ kinh tế giúp
đỡ Việt Nam, chương trình tổng hợp tiến bộ khoa học - kỹ thuật đến năm
2000 của Hội đồng tương trợ kinh tế. Tích cực phát triển quan hệ kinh tế và
khoa học, kỹ thuật với các nước khác, với các tổ chức quốc tế và tư nhân
nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Thực hiện nghiêm túc
các cam kết của nước ta trong quan hệ kinh tế với nước ngoài " - Nghị
quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam
(18/12/1986) (Trích)
2.2. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc khóa VII (1991)
Giai đoạn 1992 - 1995 là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đối với
thắng lợi của công cuộc đổi mới, tạo thế và lực cho sự phát triển."Quán
triệt Nghị quyết VII của Đảng, chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc
đổi mới nhằm phát huy cao độ các tiềm năng về lao động và trí tuệ, ruộng
đất và tài nguyên, vốn và tài sản trong mỗi gia đình, mỗi tập thể và trong
toàn XH, động viên mọi người ra sức cần kiệm với ý chí tự lực tự cường rất
cao để xây dựng đất nước, đồng thời tích cực mở rộng kinh tế đối ngoại,

thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài, tạo chỗ đứng trên thị trường quốc
tế, không chủ quan mất cảnh giác hoặc bi quan, dao động, không ỷ lại
trông chờ nhưng cũng không co mình lại." - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, ngày 4/12/1991 về nhiệm vụ và
giải pháp ổn định, phát triển kinh tế - xã hội trong những năm 1992 - 1995.
2.3. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc khóa VIII (1996)
Đảng ta nhận định: " Giai đoạn từ 1996- 2000 là bước rất quan trọng
của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
12
nước" - Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
1996 -2000 (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khóa VII tại
Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (trích)
Đại hội Đảng VII (6/1996) đặt vấn đề đẩy mạnh hơn nữa việc điều
chỉnh cơ cấu thị trưởng để hội nhập khu vực, chủ động tham gia vào tổ chức
quốc tế và khu vực. (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu
toàn quốc lân thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.90). Với
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Văn kiện Đại hội khẳng định chủ
trương của Việt Nam là tích cực, chủ động hội nhập khu vực để phục vụ
cho sự nghiệp, phát triển đất nước.
2.4. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc khóa IX (2001)
Thông qua Đại hội khóa IX (4/2001), Đảng coi trọng phát triển quan
hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng, nâng cao hiệu quả và chất
lượng hợp tác với các nước ASEAN.
Đại hội đã đề ra mục tiêu tổng quát cho phát triển kinh tế đất
nước:"Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, đạt bước chuyển biến quan
trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ
bản trở thành 1 nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 ",
đồng thời đã đưa ra định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, ngành cụ thể

trong kinh tế, một trong số đó là tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế
và hoạt động kinh tế đối ngoại. - Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX về phương hướng, nhiệm vụ, phát triển kinh tế, xã hội 5 năm
2006 -2010 tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng (Trích)
2.5. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Toàn quốc khóa X (2006)
Những thành tựu trong 5 năm (2001 - 2005) và 20 năm đổi mới (1986
- 2006) làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Việc
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân
dân ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên
trước những cơ hội, nước ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn khi hội
nhập kinh tế, do vậy Đảng chủ trương"Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
13
văn minh.". Chủ trương như vậy bởi vì Đảng nhận định: "Hội nhập kinh tế
quốc tế là công việc của toàn dân. Nhân dân là chủ thể của hội nhập và
được hưởng thành quả từ hội nhập" - Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban
Chấp hành Trung ương khóa 10, ngày 5 tháng 2 năm 2007 về 1 số chủ
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt
Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.
3. Đổi mới trong hành động hội nhập kinh tế với ASEAN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là bước ngoặt có tính
lịch sử quan trọng, đột phá về đổi mới tư duy, quan điểm, hành động với
công cuộc hội nhập kinh tế với ASEAN nshằm đưa nền kinh tế nước ta sớm
thoát khỏi tình trạng trì trệ, hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Sau khi Đại
hội VI năm 1986 diễn ra, Đảng ta đã có những hành động cụ thể, từng bước
đưa nền kinh tế “vượt rào” đi lên.
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Việt Nam và các
nước ASEAN đã chủ động bàn đến các vấn đề hợp tác kinh tế và an ninh

chính trị. Tuy nhiên trong những năm 80, “vấn đề Campuchia” đã làm quan
hệ hai bên trở nên căng thẳng, thậm chí là đối đầu. Sau Đại hội VI tháng
12/1986, việc đổi mới tư duy trong đánh giá tình hình quốc tế của Đảng đã
tạo cơ hội bình thường hóa quan hệ Việt Nam – ASEAN.
Sự giải tỏa căng thẳng giữa các nước và khối nước (Việt Nam và các
nước thành viên ASEAN) làm dịu bớt xung đột do đối đầu về hệ tư tưởng,
tranh chấp về ảnh hưởng chính trị. Mở ra khả năng, điều kiện để xây dựng
nền hòa bình, quan hệ hữu nghị và hợp tác các nước trong khu vực. Các
nước Đông Nam Á tranh thủ môi trường hòa bình khu vực quốc tế để xây
dựng, phát triển đất nước. Nhưng đồng thời nảy sinh những thách thức lớn.
Giai đoạn này, chạy đua kinh tế dần thay đổi chạy đua vũ trang, hợp tác liên
kết kinh tế trở thành xu hướng chung.
3.1 Quá trình hội nhập kinh tế trước khi Việt Nam chính thức gia
nhập ASEAN
Mặc dù chưa chính thức là thành viên của hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á nhưng với việc đổi mới tư duy, quan điểm về hội nhập kinh tế với
ASEAN, Việt Nam đã có những bước đi đầu tiên thể hiện thiện chí mong
muốn hợp tác, cùng phát triển.
 Việt Nam rõ ràng có những lợi thế, thế mạnh để hội nhập kinh tế
với ASEAN:
14
- Việt Nam là một thị trường rộng lớn với dân số khoảng 70 triệu dân
vào năm 1986.
- Vị trí địa lý thuận lợi: Việt Nam là cửa ngõ giao thương trong khu
vực Đông Nam Á. Với đường biển dài, tiếp giáp với nhiều vùng biển của các
quốc gia trong khu vực, hợp tác kinh tế khu vực giữa Việt Nam và các thành
viên ASEAN sẽ càng trở nên thuận lợi.
- Việt Nam là một quốc gia có nên chính trị ổn định. Đặc biệt sau Đại
hội VI năm 1986, tư duy đối ngoại về hợp tác kinh tế đã có sự chuyển biến
tích cực, đây là một “đòn bảy” hữu hiệu cho việc Việt Nam gia nhập

ASEAN.
Chính vì những lí do trên mà các nhà đầu tư đến từ ASEAN hoàn toàn
có thể an tâm.
 Từ năm 1992, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam – ASEAN sôi động
hẳn lên. Điều đó là nhờ việc chúng ta tham gia vào hiệp ước Bali, trở thành
quan sát viên của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
 Ký kết hiệp định tương trợ hợp tác Việt Nam – Malaysia
(11/8/1992). Đây là hiệp định tương trợ song phương giữa 2 quốc gia đầu
tiên mà Việt Nam ký với một nước trong ASEAN.
 Đến cuối năm 1992, Việt Nam đã ký kết với các nước ASEAN gần
40 hiệp định về kinh tế: bảo hộ, đầu tư, tránh đánh thuế hai lần, hiệp định
hàng không – hàng hải.
 Kim ngạch buôn bán Việt Nam – ASEAN năm 1985 là 60.6 triệu
USD nhưng đến năm 1995 đã đạt 2975 triệu USD. (Đào Huy Ngọc, ASEAN
và sự hội nhập của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.120)
3.2. Quá trình hội nhập kinh tế từ khi Việt Nam chính thức gia
nhập ASEAN
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của đất
nước Brunei Darussalam, Quốc Kỳ Việt Nam đã tung bay phấp phới cùng cờ
của 6 thành viên ASEAN khác, mở ra một trang sử mới của khu vực: Việt
Nam chính thức là thành viên thứ 7 của ASEAN. Sự kiện này là một dấu son
trên con đường hội nhập khu vực và thế giới, đưa nước ta tiến lên con đường
phía trước trên con đường xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng là nguyện vọng của những
người sáng lập ra ASEAN và nhân dân trong khu vực về một hiệp hội bao
15
gồm 10 nước trong khu vực, một ASEAN của Đông Nam Á, do Đông Nam
Á, và vì Đông Nam Á, trong đó các quốc gia thành viên cùng nhau hợp tác
vì hoà bình, ổn định, phát triển, phồn vinh, góp phần vào sự nghiệp hoà bình
và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Dấu mốc quan trọng này đã đánh

dấu một bước đi mới, mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn trong hội nhập kinh tế
giữa Việt Nam và ASEAN.
 Trước những năm 80 thế kỷ XX, Việt Nam quan hệ chủ yếu với các
nước XHCN như Liên Xô, Cuba… Từ thập kỷ 1990 đến nay, quan hệ nước
ta chủ yếu là với đối tác ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khu vực
Đông Nam Á.
 Đầu năm 1996, Việt Nam trình danh mục hàng hóa mà nước ta sẽ cắt
giảm thuế quan theo quy định AFTA. Đây là một trong những bước đi mạnh
mẽ đầu tiên trong lĩnh vực thương mại kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN.
Nó tạo điều kiện thuận lợi cho những hợp tác thương mại, trao đổi hàng hóa
sau này giữa 2 bên.
 Trong giai đoạn 1996 – 1997, “dòng đầu tư từ các nước ASEAN tiếp
tục tăng và buôn bán Việt Nam – ASEAN vượt xa con số của 2 năm trước
đây. Đầu năm 1996, Việt Nam công bố 857 mặt hàng ở diện giảm thuế 5-0%
khi tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đang dần từng
bước thực hiện tiến trình AFTA. Với 60% các mặt hàng đã có sẵn mức thuế
5% hoặc thấp hơn 5%. Việt Nam theo đánh giá của Tổng thư ký ASEAN
Ajit Singh, sẽ không mấy khó khăn trong việc thực hiện yêu cầu của AFTA
về giảm thuế quan. Nhiều nhà lãnh đạo của các nước trong ASEAN đánh giá
sự thành công của Việt Nam trong việc tham gia ASEAN là vượt quá sự
trông đợi” (Nguyễn Phương Bình, Quan hệ Việt Nam – ASEAN và những
vấn đề đặt ra trong tương lai, tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 4(19) tháng 8-
1997, tr25.)
Những năm cuối thế kỷ XX, dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính tiền tệ, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang ASEAN vẫn ở mức
cao. Đến năm 1998 buôn bán Việt Nam – ASEAN đạt 6.03 tỷ USD.
 Đến tháng 7 năm 1999, tổng vốn đầu tư ASEAN vào Việt Nam tăng
lên 9.5 tỷ USD (20% vốn đầu tư nước ngoài) so với 1.1763 tỷ USD giai đoạn
1987 – 1994.
16

 Theo bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, Việt Nam sẽ cố gắng
xây dựng lộ trình cụ thể tham gia AFTA vào năm 2006, phát triển hành lang
Đông – Tây, hợp tác tiểu khu vực sông Mê Công, hợp tác Đông Nam Á.
 Một hoạt động khác không thể không kể đến trong hoạt động hợp tác
kinh tế Việt Nam – ASEAN sau khi chính thức gia nhập tổ chức này là Việt
Nam đang thực hiện hiệu quả thuận lợi hóa thương mại đầu tư trong
ASEAN.
Như vậy sau khi chính thức gia nhập hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á ASEAN, các hoạt động hợp tác kinh tế của Việt Nam với các thành viên
và tổ chức này ngày một mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Tất cả đều nhằm mục
tiêu hợp tác cùng phát triển, đưa ASEAN ngày một vững mạnh, trở thành
một trung tâm kinh tế thực sự trên thế giới.
4. 20 năm nhìn lại quá trình hội nhập kinh tế với ASEAN của
Việt Nam và những triển vọng cho chúng ta trong thời kì toàn cầu hóa.
4.1. 20 năm nhìn lại
Sau Đại hội VI – 1986, Đảng đã lãnh đạo và khởi xướng sự nghiệp
đổi mới. Trong sự nghiệp trọng đại này, đối ngoại là một thành tựu quan
trọng của ta. Trong đó đổi mới đối ngoại kinh tế, hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới đã góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội, tạo nên một sự thay đổi toàn diện, làm nâng cao vị thể của Việt
Nam trên trường quốc tế. Đặc biệt những thành tựu hội nhập kinh tế với
ASEAN càng nổi bật trong bối cảnh chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
sụp đổ, Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết tan rã.
Trong suốt 20 năm (từ 1986 – 2006), trong sự nghiệp đổi mới, bên
cạnh những gì đã làm được ta vẫn còn những điều chưa làm được. Sau quá
trình phân tích, đánh giá những đổi mới về tư duy, hành động, quan điểm
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam với ASEAN sau Đại hội VI –
1986, nhóm nghiên cứu xin đưa ra những suy ngẫm, đánh giá về đường lối
đổi mới trong hội nhập kinh tế khu vực của ta, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm đích thực cho thời đại toàn cầu hóa hiện nay.

Đường lối đổi mới của Việt Nam mở đầu bằng Nghị quyết 32/BCT
(7-1986) và tiếp nối bằng những nghị quyết khác của Đại hội và Trung
ương đã đem lại những bước đột phá lí tưởng cho sự nghiệp phát triển của
Việt Nam. Nhìn lại 20 năm từ 1986 đến 2006, chúng ta có quyền khẳng
định những thành tựu trong tư duy đối ngoại, hành động đối ngoại trong
17
hợp tác kinh tế khu vực mà cụ thể là ASEAN. Việc đổi mới tư duy về đánh
giá cục diện thế giới và khu vực dựa trên nền tảng căn bản là lợi ích quốc
gia đã khẳng định Việt Nam cần một nền kinh tế mạnh và một mối quan hệ
quốc tế rộng mở để giữ vững độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì lẽ đó
chúng ta đẩy mạnh hợp tác kinh tế khu vực, đem lại lợi ích cho quốc gia về
kinh tế, đồng thời cũng tạo ra mối liên kết bền chặt về kinh tế - an ninh cho
khu vực Đông Nam Á. Việt Nam cũng đã có sự đổi mới đúng đắn, thức thời
trong đường lối và chính sách đối ngoại: “Ngoại giao phải ưu tiên giữ vững
hòa bình để phát triển kinh tế” (Nghị quyết 32/BCT). Các đường lối, chính
sách của ta trong giai đoạn này đều nhằm giữ vững hòa bình để phát triển
kinh tế. Đó chính là nền tảng để Việt Nam sẵn sàng và tích cực trong công
cuộc hợp tác kinh tế với ASEAN.
20 năm không phải là một quãng thời gian quá dài, nhưng nó cũng đủ
để Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới từng bước, song song với đó là
sự nhìn nhận, đánh giá về chính những đổi mới đó. Trong thời gian này,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong quá trình hợp tác kinh
tế với ASEAN.
 Phá thế bao vây cấm vận, đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước
trong ASEAN. Thắng lợi nổi bật của chủ trương đa dạng hóa phải kể đến
dấu mốc tháng 7 năm 1995. Thời điểm đó ta đã đạt được bình thường hóa
với Hoa Kỳ, ký kết hiệp định khung hợp tác với EU, và đặc biệt gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN. Hợp tác ngày một bền vững,
hợp tác kinh tế khu vực và thế giới được xem như kim chỉ nam của Việt
Nam. Không chỉ đem lại những lợi ích to lớn về mặt kinh tế mà nó còn giúp

Việt Nam nâng tầm địa vị trên trường quốc tế.
. Thiết lập quan hệ kinh tế khu vực một cách ổn định và lâu dài với
các nước lớn, các trung tâm kinh tế. Phải kể đến những ký kết thương mại
làm tăng tính bền vững trong hợp tác kinh tế với ASEAN.
 Chủ động hội nhập kinh tế khu vực Đông Nam Á. Ngoại giao kinh
tế ngày một được đẩy mạnh góp phần đưa hội nhập tiến lên tuần tự, vững
chắc từ khu vực đến liên khu vực, phát triển đến châu lục và sau đó là hội
nhập toàn cầu. Việc ta gia nhập ASEAN, AFTA, sáng lập nên ASEM là
minh chứng cho sự chủ động hội nhập kinh tế mà chủ trương của ta đã đề
ra.
18
Tuy nhiên nhìn lại 20 năm qua trong quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế, Việt Nam vẫn còn đó những tồn tại:
Hoạch định đường lối trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế chưa
đạt được sự nhât trí cao nên chính sách chưa thực sự đồng bộ và toàn diện.
 Mối quan hệ giữa kinh tế - an ninh – chính trị chưa gắn kết, đôi khi
vẫn còn bộc lộ những sơ hở.
 Ngoại giao phục vụ cho kinh tế chưa có sự phát triển cao đúng như
kì vọng. Để phát huy hợp tác kinh tế khu vực mà cụ thể là ASEAN, không
chỉ có cơ quan đại diện ngoại giao phục vụ mà còn cần những ngành khác
như thương mại, kế hoạch – đầu tư cùng chung tay góp sức.
 Về nội tại nền kinh tế, ta chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế chưa
nhanh để có thể bắt nhịp với tốc độ hội nhập kinh tế khu vực.
Từ những thành tựu cũng như những tồn tại của quá trình hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới trong giai đoạn 1986 – 2006, ta có thể rút ra
được những bài học hữu ích cho thời đại toàn cầu hóa hiện nay:
 Hội nhập kinh tế phải gắn liền với công cuộc giữ vững độc lập tự
chủ, bản sắc dân tộc. Quá trình hội nhập phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa
nội lực, giữ vững độc lập tự chủ, định hướng Xã hội chủ nghĩa, bản sắc văn
hóa dân tộc.

 Kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao – kinh tế - an ninh – quốc phòng.
Trong giai đoạn này, kinh tế có vai trò tối quan trọng, là nền tảng cho quân
sự và ngoại giao. Mỗi quan hệ giữa những trụ cột này là vô cùng chặt chẽ.
Từ việc phân tích, đánh giá những đổi mới tư duy, quan điểm, hành
động trong quá trình hội nhập kinh tế với ASEAN giai đoạn 1986 - 2006, ta
thấy rằng đây là một giai đoạn vô cùng quan trọng và có ý nghĩa then chốt
trong quá tŽnh đổi mới nền kinh tế, tạo bước đà cho việc hội nhập đa
phương trên mọi lĩnh vực. Với nền tảng 20 năm trong quá hình hội nhập
kinh tế, Việt Nam hứa hẹn sẽ còn phát huy mạnh mẽ hơn nữa nội lực quốc
gia, mở rộng mối quan hệ quốc tế, đóng góp cho sự phát triển chung của
ASEAN và của nhân loại.
4.2. Triển vọng
19
Trong gần 30 năm qua, kể từ sau 1986, Việt Nam đã và đang không
ngừng tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt
Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế,
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực.
Giữ vững phương châm ấy, Việt Nam đón một năm 2015 với đầy
triển vọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Năm 2015 có ý
nghĩa rất quan trọng, là năm cuối thực hiện các nhiệm vụ của Đại hội Đảng
lần thứ XI, chuẩn bị cho Đại hội XII. Đồng thời là năm có nhiều hoạt động
kỷ niệm lớn: 85 năm thành lập Đảng, 40 năm giải phóng miền Nam thống
nhất đất nước. Đây còn là năm quan trọng để triển khai chủ trương tích cực

Hội nhập quốc tế theo Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị. Về hội nhập khu
vực, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến sẽ được thành lập vào cuối
năm 2015 được coi là một bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập toàn diện của
các nền kinh tế Đông Nam Á. AEC là một trong 3 trụ cột quan trọng của
ASEAN (Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-Xã hội). Điều này đồng
nghĩa với việc mở ra cơ hội to lớn về hợp tác và tăng trưởng kinh tế, tạo
môi trường thuận lợi về thương mại và đầu tư cho các quốc gia ASEAN và
các nước đối tác. Khi chính thức gia nhập AEC vào 2015, nền kinh tế Việt
Nam sẽ chứng kiến rất nhiều đổi thay. Nhiều cơ hội đang ở trước mắt chúng
ta: thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam sẽ ngày càng mở rộng,
thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài hơn (đặc biệt là từ các nước có
nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore , Indonesia ,…), cải cách nền
kinh tế ở trong nước theo những tiêu chuẩn của hội nhập Tuy nhiên, Việt
Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức một khi tham gia vào AEC.
Sức ép cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu, dịch vụ, đầu tư các nước ASEAN
lên các doanh nghiệp trong nước, sự chênh lệch trình độ phát triển so với
các nước ASEAN, tất cả những vấn đề đang đặt ra cho Việt Nam câu hỏi
về sự cân nhắc chọn lựa chính sách và những giải pháp hợp lý.
20
KẾT LUẬN
Sự nghiệp đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI – 1986 là một trong những
bước tiến quan trọng trong quá tŽnh phát triển của Việt Nam. Từ những
nhận thức mới về tình hình quan hệ quốc tế, Đảng ta đã quyết định đổi mới
tư duy, quan điểm, hành động đối ngoại, một trong số đó là đổi mới tư duy
về hội nhập kinh tế khu vực mà cụ thể là hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á ASEAN.
Trong những năm 80, kinh tế nước ta ở trong tình trạng kém phát
triển, trì trệ, lạc hậu, các nước xã hội chủ nghĩa anh em lâm vào khủng
hoảng, không còn giúp đỡ ta nhiều như trước, ta đứng trước 2 lựa chọn:
hoặc cô lập mình, không giao lưu, hợp tác với bất kì quốc gia nào hoặc hội

nhập với các nước khác để giúp ta phát triển hơn. Ta đã chọn con đường thứ
2.
Hội nhập kinh tế với ASEAN đã mang lại cho ta nhiều cơ hội phát
triển, đưa nước ta đến gần hơn với các quốc gia trong khu vực và nâng cao
vị trí nước ta trên trường quốc tế; tuy nhiên song song với đó, nước ta cũng
gặp phải nhiều khó khăn, thách thức như xói mòn chủ quyền, bản sắc quốc
gia dân tộc, cạm bẫy chính trị thông qua kinh tế Bởi vậy, trong quá trình
hội nhập nói chung, hội nhập kinh tế nói riêng, ta cần phải biết phát triển
nội lực quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc văn hóa để "hòa nhập
chứ không hòa tan"; đồng thời, ta cần phải phát triển kết hợp ngoại giao -
kinh tế - quốc phòng bởi chỉ khi quốc phòng vững chắc, an ninh được đảm
bảo thì kinh tế mới có thể phát triển được.
Bài nghiên cứu "Đổi mới tư duy, quan điểm, hành động trong hội
nhập kinh tế với ASEAN của Việt Nam giai đoạn 1986 -2006" đã giải thích
tại sao nước ta phải đổi mới trong hội nhập kinh tế với thế giới mà trọng
tâm là với ASEAN, mô tả sơ bộ quá trình từ đổi mới tư duy hội nhập kinh
tế đến đổi mới trong hành động, từ sự đổi mới đó, ta đã gặt hái được những
thành công ra sao, những thách thức, khó khăn gặp phải như thế nào và dự
đoán triển vọng phát triển sắp tới. Thông qua bài nghiên cứu này, nhóm lớp
CT40E muốn đưa ra một cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về đổi mới hội nhập
kinh tế Việt Nam – ASEAN từ năm 1986 tới năm 2006. Qua quá trình đổi
mới 20 năm này, ta thấy rõ, đổi mới là một quyết định đúng đắn cho công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển quan hệ đa phương
toàn diện mà trọng tâm là hợp tác kinh tế.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Vũ Dương Huân, Một số vấn đề quan hệ quốc tế - chính sách đối
ngoại và ngoại giao Việt Nam tập II, NXB Chính trị - hành chính,
2005.

2. Vũ Dương Huân, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới
(1975 – 2002), NXB Học viện quan hệ quốc tế, 2003.
3. Nguyễn Vũ Tùng, Chính sách đối ngoại Việt Nam (1975 – 1996),
NXB Thế giới, 2002.
4. Phạm Đức Thanh – Trần Khánh, Việt Nam trong ASEAN - Nhìn lại và
hướng tới, NXB KHXH, Hà Nội, 2006.
5. Đào Xuân Sâm – Vũ Quốc Tuấn, Đổi mới ở Việt Nam nhớ lại và suy
ngẫm, NXB Tri thức, 2008.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị
quốc gia.
7. Đào Huy Ngọc, ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997.
8. />phat-trien-cho-viet-nam/279930.vnp
22
9. />307957.vov
10. />23

×