nvhaidh SƯU TẦM
ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN 9
Đề 1: Trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nhân vật Trương Linh vội
tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương ruồng rẫy và đánh đuỗi
nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn.
Em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tìm xem có những chi tiết nào trong truyện tác
giả muốn hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau thương cho Vũ Nương.
Những nguyên nhân nào làm cho thảm kịch đó vẫn diễn ra dẫn đến cái chết đau
thương cũa người phụ nữ đức hạnh?
Em hãy bình luận về nguyên nhân cái chết đó.
HƯỚNG DẪN
1. Đọc kĩ tác phẩm, nắm vững chi tiết, độc lập suy nghĩ để tìm ra những chi tiết
mà đề yêu cầu. Tài thắt nút và mở nút là ở chỗ ấy. Mỗi em tìm tòi theo cách của
mình miễn là hợp lí.
2. Bình luân về nguyên nhân cái chết của Vũ Nương. Có nguyên nhân trực tiếp do
tính nết cá nhân của Trương Linh và nguyên nhân sâu xa của chế độ xã hội từ đó
tìm ra ý nghĩa tố cáo và nhân đạo của tác phẩm.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ
XVI, một tập truyện văn thơ đầu tiên bằng chữ Hán ở Việt Nam. Truyện “Người con
gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm.
Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương, chồng
là Trương Linh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lai đa nghi. Triều đình bắt
lính, Trương Linh phải tòng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới
được mười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân
kết thúc, Trương Linh trở về thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ nhất định không nhận
Trương Linh làm bố. Nó nói: “Ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết
nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một ông
đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ
bế Đản cả.”
Tính Trương Linh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã vu
oan cho Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức đã nhảy
xuống sông tự vẫn.
Đọc kĩ tác phẩm, em thấy truyện không phải không hé mở khả năng có thể dễ
dàng tránh được thảm kịch đau thương đó. Tài kể chuyện của tác giả là ở chỗ đó, cởi
ra rồi lại thắt vào đẫy câu chuyện đi tới, khiến người đọc hứng thú theo dõi và suy
nghĩ, chủ đề của tác phẩmtừng bước nổi lên theo dòng kể của câu chuyện. Lời con
trẻ nghe như thật mà chứa đựng không ít điều vô lí không thể tin ngay được, nếu
Trương Linh biết suy nghĩ, người cha gì mà lạ vậy: “không biết nói, chỉ nín thin
thít” chẳng bao giờ bế con mình, mà hệt như “cái máy” - “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ
Đản ngồi cũng ngồi”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là một câu đố, giảng giải
được thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra. Nhưng Trương Linh cả ghen, ít
học, thiếu suy nghĩ, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái
chết oan uổng của người vợ mà chàng không phải không có tình yêu thương. Tất
nhiên sự đời có thế mới thành chuyện, vả lại trên đơì làm gì có sự ghen tuông sáng
suốt.
Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Linh
kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở
nvhaidh SƯU TẦM
một mình nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này,
một đêm phòng không vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ
vào bóng mình trên vách mà bảo đó là cha nó, Trương Linh mới tỉnh ngô, thấu hiểu
nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã xong. Vũ Nương không còn nữa trên đời.
Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ
ghen tuông. Không ít tác phẩm xưa nay đã viết về cái chuyện thường tình đầy tai
hoạ này. Vũ nương không may lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp
dẫn nàng đến cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự
thực vẫn là sự thực!cái chết oan uổng quá và người chồng độc đoán quá!
Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuyện
không đâu ở một lời con trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con mà phải tìm đến cái
chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài
khuôn khổ cuả một gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh
của con người trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai hoạ có thể xảy ra
bất cứ lúc nào đối với họ mà những nguyên nhân dẫn đến nhiều khi rất lạ lùng
không thể lường trước được. Đó là xã hội phong kiến ở nước ta, nhất là ở thời nó đã
suy vong. Xã hội đó đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những người đàn ông đặc
đầu óc “nam quyền”, chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông
của cá nhân cộng với tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương
Sinh độc đoán đến kỳ cục, khư khư theo ý riêng, nhất thiết không nghe ý kiến của
người khác. Đứa trẻ nói thì tin ngay, còn vợ than khóc giãi bày thống thiết thì nhất
định không tin, họ hàng, làng xóm phân giải công minh cũng chẳng ăn thua gì. Hậu
quả là cái chết thảm thương của Vũ nương mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong
kiến bất công cùng chế độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai
hoạ cho người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung.
Đề 2: Phân tích truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ
XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện
người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh
Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ,
hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa.
Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên
đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông
Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu
vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập
đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long
Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng
ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn của người chồng
nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc
lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư
nvhaidh SƯU TẦM
dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn
phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi
chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượi đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động,
nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày
tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm
mong ước được đoàn tụ làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách
biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi
thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể
nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc
khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ
đẻ mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị
nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con
kẻ khó mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân
phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách
hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có
bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống
thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”.
Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu
không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giải bày,
cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời
khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh
bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ.
Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên
xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ” lời khấn nguyện
đã làm cho người đọc xót xa - con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục
sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ
đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng
nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của
nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam
- một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực
hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun
đắp hạnh phúc gia đình, lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một
cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực
nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ
thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo,
gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng
(thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng
“nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa
quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương
Sinh sau này.
nvhaidh SƯU TẦM
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua
đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ
kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn
ông đêm nào cũng đến ”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy.
Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của
vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen
hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành
động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một
thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt
trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều
khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau
nỗi oan của người thiếu phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người
phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du,
người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ
duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương,
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn
Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những
đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật
bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét
thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật
của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu
óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của
một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong
trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của
chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm
kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp
xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ diễn biến
tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời
lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời
của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật
thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh
tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ
Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ
chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những
giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và
hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền
gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những
yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan
Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên
sông đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ
thuật lung linh huyền ảo.
nvhaidh SƯU TẦM
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền
kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương
muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà
không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa
nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong
xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy
rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp
hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng
con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại mới.
Đề 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ.
BÀI THAM KHẢO:
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước
ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truền kì mạn
lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ
nữ đếp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ
của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI.
Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng
người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “miếu vợ chàng
Trương”:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương “
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ
nương - người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh
oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc
động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nươn và dễ
dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với
mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu
đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một
người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù
Trường Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia
đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như
chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn
chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong
chàng ái gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi” , “thư
tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa ”, “ là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-
hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.
nvhaidh SƯU TẦM
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến
chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của
Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng
của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc
thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời.
Vũ nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất
là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ
Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể
hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng
phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ “
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng
thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ
Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày
Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn
bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường
gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là
nguyên nhân gây ra cái tội thậtt vô tình).
Nôi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc
đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời
đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông
vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà
con, cô bác, trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng
ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ
rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh
trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất
vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất
vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm
đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép
bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ
phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội
tình gì. Mãi đến sau cái chết đo, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình.
chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi
dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ
nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen tuông
ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như Trương
Sinh- là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công-
“chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan niệm đặc
điểm truyền thống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vô tội của
mình bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một câu nói
thơ ngây của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm mất đi người
nvhaidh SƯU TẦM
vợ quý trên đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát lòng này chính là do chiến
tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam quyền trong xã hội ngày trước.
Đề 4: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của chính Hữu ( Ngữ văn 9 - Tập 1).
HƯỚNG DẪN CÁCH VIẾT:
Bài thơ “Đồng chí” ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của
quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp cuối năm
1947 lên khu căn cứ địa Việt Bắc. Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính trị viên đại
đội thuộc trung đoàn Thủ đô, cùng đơn vị của mình tham gia chiến đấu suốt chiến
dịch. Đầu năm 1948 Chính Hữu viết bài thơ này. Bài thơ là kết quả của những trãi
nghiệm thực va những cảm xúc sâu xa của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt
Bắc. Bài thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người
lính cách mạng mà phần lớn họ xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài thơ cũng thể
hện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn thiếu thốn.
Bài thơ” Đồng Chí” viết theo thể thơ tự do, với hai mươi dòng thơ, chia làm
ba đoạn. Cả bài thơ đều tập trung vào thể hiện chủ đề về tình”Đồng Chí”.
Cái bắt gặp đầu tiên của những người lính là từ những ngày đầu gặp mặt. Họ
đều có sự tương đồng về cảnh ngộ nghèo khó ”quê hương anh nước mặn đồng
chua, lành tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Những người lính là những người của làng
quê nghèo lam lũ, vất vả với cày cấy, ruộng đồng với những làng quê khác nhau. Họ
từ các phương trời không hề quen nhau ”từ muôn phương về tụ hội trong hàng ngũ
của những người lính cách mạng”. Đó chính là cơ sở của tình đồng chí sự đồng cảm
giai cấp của những người lính cùng chung nhiệm vụ chiến đấu để giải phóng quê
hương, đất nước. Diễn đạt ý nghĩa đó, tác giả đã diễn tả bằng hình ảnh:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”.
“Súng - đầu” sát bên nhau là tượng trung cho ý chí và tình cảm, cùng chung lí
tưởng, nhiệm vụ chiến đấu, sát cánh bên nhau. Tình đồng chí, đồng đội nảy nở và
hình thành bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui.
Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả đã biểu hiện bằng một
hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Sau câu thơ này, nhà thơ hạ một câu, một dòng thơ, hai tiếng “Đồng chí” vang lên
như một “nốt nhấn”, là sự kết tinh của mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Câu thơ “Đồng
chí” vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, đồng thời lại như một cái bản
lề gắn kết đoạn đầu với đoạn thứ hai của bài thơ. Dòng thơ hai tiéng “Đồng chí”
như khép lại, như lắng sâu vào lòng người cái tình ý sáu câu thơ đầu của bài thơ,
như một sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí. Sáu câu thơ trước hai tiếng “Đồng
chí” ấy là cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí keo sơn giữa những người
đồng đội.
Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai trong đoạn thơ thứ
hai là những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí và sức mạnh của tình đồng chí. Sự
biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh của nó được tác giả gợi bằng hình ảnh ở
những câu thơ tiếp:
“ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”
nvhaidh SƯU TẦM
“Đồng chí”- đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Ba
câu thơ trên đưa người đọc trở lại với hoàn cảnh riêng của những người lính vốn là
những người nông dân đó. Họ ra đi trở thành những người lính nhưng mỗi người có
một tâm tư, một nỗi lòng về hoàn cảnh gia đình, người thân, công việc đồng quê. Họ
gửi lại tất cả cho hậu phương, gửi bạn thân cày cấy ruộng nương của mình. Họ nhớ
lại những gian nhf trống không “mặc kệ gió lung lay”. Nhưng đành để lại, đành gửi
lại, họ phải ra đi vì nghĩa lớn “cứu nước, cứu nhà.”
Giờ ở tiền tuyến, họ nhớ về hậu phương với một tình cảm lưu luyến khó quên.
Hậu phương, tiền tuyến (người ở lại nơi giếng nứơc, gốc đa)không nguôi nhớ
thương người thân của mình là những người lính nơi tiền tuyến. Tuy dứt khoát,
mạnh mẻ ra đi nhưng những người lính không chút vô tình. Trong chiến đấu gian
khổ, hay trên đường hành quân họ đều nhớ đến hậu phương- những người thân yêu
nhất của mình:
“ Ôi! Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồi hồi nhớ mắt người yêu”
(Nguyễn Đình Thi)
“Đồng chí”-đó là cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người
lính với những hình ảnh chân thực, xúc động, gợi tả và gợi hình (từng cơn ốm lạnh
sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi,áo rách vai, quần vài mãnh vá, miệng cười buốt
giá, chân không giày) những ngày tháng ở rừng.
Để diển tả được sự gắn bó, chia sẻ, sự giống nhau vế cảnh ngộ người lính tác
giả đã xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng với nhau trong từng cặp, từng câu:
“ Anh với tôi biết từng cơn ốm lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua tất cả?
Hình ảnh” thương nhau tay nắm lấy bàn tay” biểu hiện thật giản đị và xúc
động của tình cảm đồnh chí, đồng đội thiêng liêng của những người lính. Tình cảm
đó là nguồn sức mạnh và niềm vui để họ vượt qua. Cái “bắt tay”(như bàn tay biết
nói) chính là tình cảm của người lính truyền cho nhau sức mạnh và niềm tin để họ
vượt qua tất cả những gian lao, thiếu thốn, thử thách trong chiến đấu.
Tình đồng chí, đồng đội còn biểu hiện ở sự thử thách. Đoạn thơ cuối thật cô
đọng bằng hình ảnh khi nhà thơ viết:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Đây là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, đồng đội- một bức tranh đặc sắc
và có ý nghĩa.
Bức tranh trên là mội cảnh thực trong mội đêm phục kích “chờ giặc tới” tại
một cảnh ”rừng hoang sương muối” hoang vắng lạnh lẻo nổi bập lên ba hình ảnh
gắn kết với nhau ”vầng trăng khẩu súng và người lính” vầng trăng như treo khẩu
súng của người lính. Người lính thì “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.
Câu thơ “đầu súng trăng treo” (chỉ có 4 chữ) gây cho người đọc một sự bất
ngờ lí thú “ súng và trăng” sao lại hoà quỵên vào nhau đẹp thế! Hình ảnh thơ nói
nvhaidh SƯU TẦM
lên ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ trong
những năm đầu khánh chiến chống Pháp.
Bài thơ có ba khổ, ba tứ thơ, chủ yếu tạo thành ý chung xuyên suốt toàn bài
thơ “Đồng chí”.“Đồng ch í -thương nhau nắm lấy bàn tay - đầu súng trăng treo”
Bài thư hàm xúc, mộc mạc, chân thực trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, giợi
tả, có sức khái quát cao, khắc hoạ được một trong những phẩm chất tốt đẹp của anh
bộ đôi cụ Hồ. Đó là mối tình đồng chí, đồng đội gắn bó, keo sơn, thắm đượm tình
cảm, gian khổ có nhau, sống chết có nhau. Bài thơ có thực, có mơ toạ nên vẻ đẹp
của bài thơ, gây cho người đọc những suy tư sâu sắc những cảm xúc sâu lắng. Bài
thơ “Đồng chí” có những nét thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh người lính
cách mạng trong thơ ca kháng chiến.
Đề 5: Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”của Phạm Tiến
Duật
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội
Trường Sơn” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ.
Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với những bài thơ “ Trường
Sơn đông-Trường Sơn tây, lửa đèn, giửi em cô thanh niên xung phong, nhớ ”đã
góp phần trẻ hoá thơ Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “bài thơ về tiểu đội xe
không kính” được rút ra trong tập thơ “vầng trăng-quầng lửa” của tác giả. Trong
bài thơ tác giả đã xây dựng một hìng tượng độc đáo những “chiếc xe không kính”
chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chiến trường miền Nam ruột thịt.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giải thích vì sao tất cả xe trong tiểu đội đều “không
có kính” vì bom đạn giặc Mỹ làm “kính vỡ đi rồi”. Chỉ một chi tiết nhỏ “không có
kính vì xe không có kính-bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi” tác giả đã làm cho
người đọc hiểu được sự ác liệt, tàn bạo của cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra.
Những chiếc xe này đã làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến
đường Trường Sơn trong những năm chống Mỹ cứu nước.
Thế mà, những người lính trên những chiếc “xe không kính” vẫn “ung dung
buồng lái ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!”
Thái dộ ung dung và “cái nhìn” của anh lái xe như bất chấp, coi thường tất cả
nguy hiểm ở phía trước mác dù “bụi phun tóc trắng như người già”, cho dù “mưa
tuôn mưa xối như ngoài trời” các anh vẫn “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hoặc
tếu táo “phì phèo châm điếu thuốc” hay “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Hình ảnh trong các câu thơ trên đã làm nổi rõ cái hiên ngang, dũng cảm, bất
chấp mọi nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe, để lái những chiếc xe không kính ra mặt
trận với một niềm tin niềm vui của tuổi trẻ.
Khung kính đã bị vỡ, không có gì để chắn gió trời ùa vào, đập thẳng vào mắt.
Thế mà, tác giả lại viết: “ nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”.
“ Xoa” là cử chỉ nhẹ nhàng vuốt ve âu yếm. Qua cách diễn đạt của câu thơ thì
ở đây, gió không làm đau, làm rát mắt của người lái xe mà ngược lại gió còn vỗ về
nhè nhẹ vào đôi mắt “đắng”. Và, con đường trước mặt- con đường ra trận trở nên
gần sát hơn đang chạy ngược lại “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Vì
không có kính chắn, nên người lái xe có cảm giác và ấn tượng “Con đường chạy
thẳng vào tim”. Con đường thực trước mặt đó củng chính là con đường được nhà
thơ nâng lên thành con đường lý tưởng con đường cách mạng , con đường ở trong
nvhaidh SƯU TẦM
trái tim của người chiến sĩ. Chính là con đường đó đã giúp cho cac chiến sĩ lái xe
thêm sức mạnh, niềm tin, bất chấp bom đạn của kẻ thù, tiến lên phía trước: “ Thấy
sao trời và đột ngột cánh chim- như sa như ùa vào buồng lái”. Người lái xe vẫn vui
với “ sao trời” và “Cánh chim”, “ sao trời và cánh chim” ngày đêm như bầu bạn
với người lính lái xe. Ngày cũng nhưu đêm, thiên nhiên, đất trời luôn sát cánh với
người chiến sĩ lái xe trên suốt chặng đường dài ra trận. Với nghệ thuật nhân hoá tài
tình, nhà thơ đã biến những khó khăn trở ngại khio lái những chiếc xe không kính
trở thành gần gủi gắn bó thân thương hơn. Giọng điệu thơ có khi thật ngang, tự
nhiên, bất chấp gian khổ được thể hiện rõ trong cấu trúc đựoc lặp lại “ Ừ thì ”,
“Chưa cần rửa”, “Chưa cần thay” , “Lái trăm cây số nữa ”. Dường như gian
khổ nguy hiểm, ác liệt của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ,
trái lại, những người lính lái xe xem như là một nhịp để rèn thử thách sức mạnh và ý
chí của mình “ chí làm trai” -tuổi trẻ người lính”.
Những người lái xe còn là những chàng trai trẻ, sôi nổi, vui nhộn, lạc quan.
Họ “nhìn nhau”, “bát tay nhau”, và trên đường ra trận thì “ bếp Hoàng Cầm ta
dựng giữa trời- chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, và cứ thế “ võng mắc chong
chênh đường xe chạy”, trước mắt họ những chiếc xe lại tiến lê phía trước, là ta cứ
đi, lại đi “trời xanh thêm” không có gì ngăn cản đuợc đường ra mặt trận.
Cái gì đẫ làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ bất chấp gian nan
như vậy? Đó chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền nam là tình yêu nước nồng
nhiệt ở tuổi trẻ thời đánh Mỹ cứu nước.
Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng trơ trụi, trụi trần ”Không
có kính rồi xe không đèn- không có mui xe, thùng xe có xước” Nhưng điều kì lạ là
những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một làn nữa
lí giải bất ngờ và rất chí lí: “chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính
cách mạng- trái tim của lòng quả cảm.
Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng điệu thơ gần gủi, vui tươi,
dí dỏm, bài thơ đã nêu bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: dũng
cảm hiên ngang, với niềm vui sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó khăn, nguy
hiểm để ra trận vì Miền Nam ruột thịt thân yêu. Họ luôn đối diện với khó khăn thử
thách, mà vẫn cười đùa, tếu táo, hồn nhiên, tự tin. Đó là nét đặc sắc của bài thơ cũng
như ngôn ngữ, giọng điệu riêng của thơ Phạm Tiến Duật. Hôm nay đất nước dã hoà
bình sau hơn 30 năm giải phóng Miền Nam con đường Trường Sơn đã đi vào lịch
sử, đọc lại bài thơ này, chúng ta càng tự hào và khâm phục biết bao các chiến sĩ lái
xe ở Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội Trường Sơn đã góp phần vào chiến thắng
huy hoàng của dân tộc.
Đề 6: Cảm nhận của em về chân dung người lính lái xe trong “ Bài thơ tiểu
đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật
Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào chống Mỹ cứu nước. Năm
1964, tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Ông vào bộ đội và
xung phong vào tuyến lửa khu Bốn.
Từng là lính lái xe nên ông có những bài thơ viết rất hay về binh chủng này. “
Tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu.
Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã vượt lên hiện thực
dữ dội, ác liệt của khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ.
nvhaidh SƯU TẦM
Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho
đúng là cả một tiểu đội xe không có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra trận. Mà
độc đáo thật, vì chỉ gặp ở Việt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ.
Có thể nói “chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Nguyên nhân xe không kính là vậy. Đấy là mội hiện thực trần trụi mà tác giả
không thể hư cấu.
Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hiện lên rất đẹp.
Cứ tưởng với hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, thế
nhưng vẫn nổi lên với tư thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Nghĩa là xe cứ đi. Không những ung dung mà người lính lái xe còn tỏ ra rất
chủ động, hiên ngang vượt lên tất cả.
Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tô đậm cái nhìn
của người lái xe, chỉ trong một dòng thơ, tác giả đã sử dụng 3 lần từ “nhìn” (điệp
từ). Nhìn trời là để phát hiện máy bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái
nhìn nghề nghiệp, hiên ngang. Và cũng từ ca - bin không kính, qua cái nhìn đã tạo
nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối với người lái xe:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay tượng trưng, đều thể hiện
cái thế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe.
Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm. Cái tài của Phạm Tiến Duật
trong khổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã phải chấp nhận thì
hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn cảnh của người
lái xe trong thời gian chiến tranh ác liệt.
Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già” là lẽ đương nhiên, xe
không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên.
Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý
thức được mà còn rất quen với những gian khổ đó.
Chính vì thế:
“Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Và cao hơn:
”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.”
Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc
sống của người lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng
sao đáng yêu thế?. Cái cười “ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người
sao mà rạng ngời đến thế? Bởi vậy, đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần
nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là
cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời
và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao.
nvhaidh SƯU TẦM
Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau những chuyến vận
tải trên những chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm
chất văn xuôi rất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội
trong kháng chiến. Ở hai khổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái hình tượng thơ “xe
không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta một điều
như một điều dự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính mà tương lai còn là tiểu đội
xe không đèn, không mui xe, Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết sức
ác liệt, người lính lái xe còn phải đối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử thách: “
Không có kính rồi xe không đèn, không có mui, thùng xe có xước” nhưng nhất định
họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía trước họ là miến Nam thân
yêu và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách mạng, một trái tim quả cảm - trái tim người
lính Bác Hồ.
“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuọoc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
Đề 7: Phân tích cảnh ra khơi của” Đoàn thuyền đánh cá” được miêu tả trong
bốn câu đầu trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:
”Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào
năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng
Ninh. Bài thơ đã dụng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người
lao động đánh cá trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả.
Bốn câu thơ đầu diển tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một
đêm đánh cá trên biển.
Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời
gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu
giá trị gợi cảm: ”Mặt trời xuống biển như hòn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”.
Ơ câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so
sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm, ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang
vắng nhờ hình ảnh rực sáng này. Trong cản quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi
nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống
“Đêm sập cửa” thì sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Những
hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.
Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá
thì đây lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng,
đoàn thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc.
nvhaidh SƯU TẦM
Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây
dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng
hát của những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng
hát khoẻ khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những
cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.
Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày
tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Không
khí chung của bốn câu thơ mở đầu này chi phối không khí chung của cả bài thơ.
Đề 8: Phân tích bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”của Huy Cận:
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm
1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh.
Thông qua một đêm đánh cá của một đoàn thyền trên biển, nhà thơ ca ngợi không
khí lao động mới, tràn đầy niềm lạc quan, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la.
Bài thơ đã dựng được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp
của miền Bắc những năm đầu bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bài thơ mở đầu bằng cảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” và kết thúc
bằng hình ảnh “Mặt trời đội biển như màu nước-mắt cá huy hoàng muôn dặm
khơi”. Như vậy là cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá diển ra trong một đêm
ròng. Thế nhưng, bài thơ là một bức tranh với những đường nét khoẻ khoắn, màu
sắc tươi sáng lạ thường. Đánh cá trên biển mênh mông thực chất là một công việc
lao động nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà cả bài thơ là một khúc ca sảng khoái,
tràn đầy niềm vui, phối hợp nhạc điệu với những động tác khoẻ mạnh, dồn dập. Bài
thơ lặp lại nhiều lần chữ “hát”, và tiếng hát đã thực sự trở thành âm thanh chủ đạo
của bài thơ.
Cùng với tiếng hát được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, trong bài thơ
này, tác giả còn tập trung miêu tả hình ảnh những con cá, những đàn cá gợi lên một
bức tranh sinh động về cảnh biển giàu, đẹp. Hình ảnh đàn cá liên tiếp suất hiện, lấp
lánh ánh sáng màu sắc như một bức sơn mài:
“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày đệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Cá nục cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em vẩy trắng vàng choé
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”
Giữa khung cảnh biển đêm mênh mông, hình ảnh con người lao động xuất
hiện với tư thế làm chủ biển khơi, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh họ
xuất hiện thật gân guốc, khoẻ khoắn: “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng - Ta kéo xoăn
tay chùm cá nặng”. Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã dựng lên hình ảnh
những người con lao động mới với tầm vóc ngang tầm vũ tru và hoà hợp với
khung cảnh trời nước bao la:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
nvhaidh SƯU TẦM
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Trên cái không gian bát ngát, con thuyền có buồn là trăng, được lái bằng gió
lướt sóng đi phơi phới, gợi lên niềm vui niềm tự hoà chân chính của con người mới,
làm chủ thiên nhiên, hăng say lao động làm giàu cho Tổ quốc. Huy Cận đã nhìn
cảnh đánh cá trên biển khơi bằng con mắt lạc quan phơi phới của mình.
Sau một đêm đánh cá trên biển, bình minh lên, đoàn thuyền đánh cá lại trở về
bến bãi. Vẫn là câu hát nhưng đây là câu hát tràn ngập niềm vui của con người sau
một đêm lao động khẩn trương và đạt sản lượng mong muốn. Thiên nhiên như chia
sẻ niềm vui đó: ”Câu hát căng buốm cùng gió khơi” và cảnh trở nên vô cung sinh
động. Trên mặt biển mênh mông, đoàn thuyền lao vùn vụt: ”Đoàn thuyền chạy đua
cùng mặt trời”. Đoàn thuyền như chạy đua cùng với thời gian với niềm vui háo hức
để trở về với bến bờ đang nhộn nhịp đón chờ
Bài thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể hiện niềm phấn
khởi trước những thành quả lao động của mình. Hình ảnh con người hiện lên trong
bài thơ là hình ảnh conngười mới làm chủ thiên nhiên, nhiệt tình lao động sản xuất
để làm giàu cho tổ quốc, gắn với biển cả quê hương.
Đề 9: Phân tích hình ảnh người mẹ Tà -ôi trong bài thơ “Khúc hát ru
những em bé trên lưng mẹ” (của Nguyễn Khoa Điềm)
Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đời giữa những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước trên cả hai miền Bắc-Nam. Thời kì này, cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta
trên các chiến khu (phần lớn là những vùng miền núi) rất gian nan, thiếu thốn. Cán
bộ, nhân dân ta phải bám rẫy, bám đất để tăng gia sản xuất, vừa sẳn sàng chiến đấu
bảo vệ căn cứ. Bài thơ là lời hát ru những em bé dân tộc Tà-ôi lớn trên lưng mẹ ở
vùng chiến khu Trị-Thiên trong thời kì chiến tranh chống Mỹ.
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ, qua từng đoạn thơ với từng khúc hát
ru được gắn với hoàn cảnh, công việc cụ thể.
Ơ khúc thứ nhất, người mẹ hiện lên với dáng tần tảo, lam lũ, vất vả với công
việc giả gạo nuôi bộ đội. Mẹ giã gao, con vẫn trên lưng mẹ. Câu thơ: “Vai mẹ gầy
nhấp nhô làm gối” thật cảm động. Mẹ gầy vì công việc giúp nuôi bộ đội đánh giặc.
Mẹ gầy vì nuôi cho con nhanh lớn. Nhưng trái tim của mẹ vẫn hát về ước mơ:
“Mai sau con lớn vung chày lún sân”
Trong khúc ru thứ hai, diễn tả công việc mẹ lên núi trỉa bắp. Câu thơ: “Lưng
núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” hình thành theo kết cấu đối lập làm nổi bật hình ảnh me
với công việc vất vả. Núi thì to, nương bắp thì rộng, mà sức mẹ có hạn. Trên lưng
mẹ, em vẫn ngủ say:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
Hình ảnh “Mặt trời” trong câu thơ sau được chuyển nghĩa (ẩn dụ): Cu Tai là
mặt trời của mẹ. Em còn là tất cả của mẹ, là lí tưởng, là hi vọng của mẹ. Mẹ mơ ước
về con:
“Mai sau lớn lên phát mười Ka-lưi”
Đến khổ thứ ba, lời ru đồn đập, mạnh mẻ, gấp rút, bởi “giặc Mỹ đến đánh”,
đuổi ta phải rời suối rời nương “Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối”. Mẹ phải
nvhaidh SƯU TẦM
chuyển lán, đạp rừng , cùng tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trường, em vẩn trên
lưng:
“Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trương Sơn”
Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ước: “Mai sau con lớn làm người tự
do”.
Ba khúc hát ru cũng là ba đoạn thơ điển tả công việc cùng tấm lòng của mẹ ở
trong chiến khu gian khổ, người mẹ Tà-ôi trong bài thơ còn thắm thiết yêu con và
cũng nặng tình thương buôn làng, quê hương, bộ đội và khao khát mong cho đất
nước độc lập, tự do.
Lời ru gắn với tình yêu con tha thiết của người mẹ dân tộc Tà-ôi.
Lời ru thủ thỉ những điều đang diển tả trong thực tại mà người con chưa thể
biết:
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”
Lời ru theo nhịp giã gạo, mỗi câu bị ngắt nhịp làm hai như theo nhịp chày,
nhịp thở. Hai mẹ con cùng chung một nhịp, mẹ làm việc, con ngủ ngon “Nhịp chày
nghiêng giấc ngủ em nghiêng”. Hai từ “Nghiêng” đứng trong một câu thơ thể hiện
niềm say mê của mẹ hoà cùng giấc ngủ của bé. Mẹ làm việc khổ cực trong hiện tại,
nhưng lời ru của mẹ cao vút đến ngày mai. “Mai sau con lớn vung chày lún sân!!
Lời ru trên nương khi trỉa bắp ở trên núi Ka-lưi, vẫn theo nhịp “chọc lỗ” trỉa
bắp nhưng hình ảnh lúc này thiên về đối lập “Lưng núi to- lưng mẹ nhỏ” và đối
xứng “Mặt trời của bắp- mặt trời của mẹ”, tất cả toát lên tình thương vô hạn của
người mẹ nghèo vẫn thương con, thương cách mạng, “mặt trời của mẹ em nằm trên
lưng”- người mẹ vừa chịu đựng cái nóng vừa tha thiết yêu thương.
Lời ru của mẹ không chỉ hướng vào thực tại mà còn hướng về tương lai:
“Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi
Mẹ thương A-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-Lưi”
Khi chuyển lán, trong lời ru thứ ba, nhịp thơ vẫn ngắt đôi, mỗi dòng theo
bước chân đi nhưng lời thơ xếp theo lối hùn điệp, đuổi nhau giục giã, khẩn trương:
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”.
Cũng như đoạn thơ trên, lời ru của mẹ hướng vào đất nước, hướng vào tương
lai chiến thắng”
“ Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi
Mẹ thương A-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do”.
Tình yêu thương con của người mẹ gắn liền với tình cảm đối với cán bộ, xóm
làng, đất nước. Tình yêu của người mẹ Tà- ôi gắn liền với tình cảm cao đẹp khác.
nvhaidh SƯU TẦM
Đó là lòng thương yêu bộ đội, yêu thương dân làng, yêu thương đất nước. Những lời
ru của người mẹ còn thể hiện ước mơ và ý chí của nhân dân ta. Người mẹ mong con
lớn lên giúp mẹ giã gạo “vung chày lún sân”, giúp mẹ trỉa ngô, làm rẫy “phát mười
Ka-lưi”. Đó là niềm mong ước mọi người được sống ấm no “hạt gạo trắng ngần,
hạt bắp lên đều”. Lời hát ru còn thể hiện ý chí chiến đấu, khát vọng tự do và niềm
tin vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do ”
Bài thơ xây dựng hình ảnh người mẹ Tà-ôi, nuôi con thơ mà làm đủ mọi việc
cho công cuộc chống Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung cho đất nước. Một người
mẹ tuy lao động nhọc nhằn mà ước mơ bay bổng, toát lên một niềm tin vững chắc
cho tương lai. Đây là một hình tượng hiếm có trong thơ ca cách mạng hiện đại, sánh
cùng với những hình tượng khác hình ảnh người mẹ khác trong hai cuộc chiến của
dân tộc ta đó là: mẹ Tơm, mẹ Suốt, người mẹ-người cầm súng Út Tịch đã góp nên
một bài ca của những người mẹ Việt Nam anh hùng: “Anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang” với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng.
TRUYỆN KIỀU - NGUYỄN DU
Đề 10: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ văn 9,
tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của
Truyện Kiều.
Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn
bạo (nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói của
thương cảm trước số phận (thời đại) bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo
những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những
khát vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do,
công lý, khát vọng tình yêu hạnh phúc
Tiếng nói nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong truyện
Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là một người con
gái tài sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ đày.
Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ
những bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch
tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.
Tình yêu Kim Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí tưởng với “Người quốc
sắc,kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”, “nước chảy
hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ và không bao giờ hàn gắn được-tuy “màn đoàn
viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu”.Hạnh phúc nàng
toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất.
Kiều là người luôn có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà đạp về
nhân phẩm. Nàng trở thành “món hàng” để kẻ buôn người họ Mã “cò kè bớt một
thêm hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh, phải “Thanh
lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời Kiều chính là: “Thân lươn
nvhaidh SƯU TẦM
bao quản lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Có nổi đau nào lớn hơn
khi con người trọng nhân phẩm, luôn có ý thức về nhân phẩm mà cuối cùng phải
tuyên bố từ bỏ nhân phẩm?
Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những bi
kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống,
bị đạp xuống sâu thêm một tầng nữa.
Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài của Kiều
đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của Kiều Ng.Du đã sử dụng bút
pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hoá để trân trọng một vẽ đẹp. “ Một hai
nghiêng nước nghiêng thành-sắc đành đồi một tài đành hoạ hai”.
Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương thể hiện ở tấm lòng vị tha, nhân
hậu. Nàng hi sinh tình yêu để cứu gia đình, cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ
tới cha mẹ với những tình cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp
“Tựa cửa hôm mai” của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt không nguôi vì một
nổi là không được chăm sóc cha mẹ già: “Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”.
Thuý Kiều là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có điều
kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang mình, nhưng nàng vẫn thấy công
ơn đó không gì có thể đền đáp nổi “Nghìn vàng gọi chút lễ thường-mà lòng phiếu
mẫu mấy vàng cho cân”.
Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc
và khát vọng về quyền sống.
Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan
hệ Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện nói với
nhau một lời, mà mối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng, khiến người ta
choáng váng đê mê:
“Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê ”
Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng
thoăn thoắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo vườn
khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong trắng. Ng.Du đã
dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm có một khong
hai trong lịch sử văn học Việt Nam.
Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do , chủ
động của hai người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt của cha
mẹ, Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều táo bạo, chủ
động nhưng đồng thời cũng là người thuỷ chung nhất trong tình yêu.
Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện cho
con người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư
thế chính nghĩa:
“Nàng rằng: Lồng lộn trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.
Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng lên
đòi quyền sống, đòi lẽ công bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự sống và
sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong nhiều truyện nôm khuyết danh khác
cũng như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ khác Một bên
nhiều khi con người mượn yếu tố thần linh phụ trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị
nhân dân và con người quyết định theo công lí của mình”- (Cao Huy Đỉnh)
nvhaidh SƯU TẦM
Với nhân vật Thuý Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu
thương rất mực đề cao con người, đề cao những khát vọng chân chính của con
người- đặc biệt là thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công,
tàn bạo và lễ giáo phong kiến.
Đề 11: Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rỏ “Với bút pháp
tinh diệu, Nguyển Du không những xây dựng lên hai chân dung “Mỗi người một vẻ
mười phân vẹn mười” mà dường như còn nói được cả tính cách, thân phận toát ra
từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng”.
Đoạn trích “Hai chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đàu của câu chuyện. Trong
đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả hai chân dung tuyệt mỹ của chị em
Thuý Kiều. Đằng sau những nét bút miêu tả tinh tế và độc đáo, người đọc có thể
nhận thấy tấm lòng ưu ái, trân trọng đặc biệt của Nguyễn Du đối với nhân vật của
mình. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, hai chị em Thuý Kiều đều xinh đẹp, nhưng
“mỗi người (tài tình) mỗi vẻ” với dự báo trước số phận, tính cách, cuộc đời của mỗi
nhân vật, đặc biệt là Thuý Kiều, nhân vật của truyện.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em với bốn
câu thơ:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Cả hai chị em đều có vẻ đẹp toàn mỹ, từ hình thức bên ngoài “Mai cốt cách”
đến vẻ đẹp bên trong tâm hồn “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân được miêu
tả ở bốn câu thơ tiếp:
“Vân xen trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách toàn vẹn từ khuôn
mặt, nét ngài, màu da, mái tóc đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý Vân hiện ra
qua những hình ảnh, những tính chất ước lệ của văn học cổ trung đại. Nguyễn Du
tập trung tô đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là cách thức quen
thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con
người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua nét vẻ thân tình của Nguyễn du
bổng rở nên sống động là nhờ đã chứa đựng trong đó quan niệm về tài sá của chính
nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan trang phúc hậu của Thuý Vân-
một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường nhịn “Mây thua nước tóc tuyết nhường
màu da”-như dự báo trước một cuộc đời, một số phận êm đềm, tròn trịa, bình yên
của nàng.
Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng vẻ
đẹp và giàu sức gợi tả, được lọc qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Ng.Du đã khắc hoạ
khá sống động vẻ đẹp đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức sống của Thuý
Vân, biểu hiện một tâm hồn vô tư, dự báo trước một cuộc đời yên ổn, vinh hoa, phú
quý sẽ mỉm cười, vui vẻ rước đón nàng.
Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, không phải là chủ đích nghệ thuật
của tác giả. Đó thực chất chỉ là việc tạo tiền đề, tao ra một điểm tựa nghệ thuật “tả
nvhaidh SƯU TẦM
khách hình chủ” để làm nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của
tác phẩm.
Khác với Thuý Vân, Th Kiều có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” cả tài lẫn sắc
đạt tới mức tuyệt vời.Cũng những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng trưng, qua ngòi bút
miêu tả tài hoa của Ng Du, hình ảnh nàng Kiều hiện lên lộng lẫy, sắc nước hương
trời đến hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”.
Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin xắn, tươi non
như sắc núi mùa xuân “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của Thuý Vân
trời xanh còn có thể nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều, thiên nhiên tạo
hoá cũng trở nên đố kị ghen ghét
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan bạc mệnh, cái sắc đẹp “sắc
sảo mặn mà” khiến thiên nhiên cũng phải đố kị, ghen ghét ấy đã dự báo trước một
cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng. Ng Du đã không tiếc lời ca ngợi sắc đẹp
và tài nghệ của nàng Kiều. Khác hẳn Thuý Vân, Th Kiều thông minh, đa tài, đa cảm,
một con người nhất mực tài hoa: Tài thơ, tài hoạ, tài đàn của Th Kiều đạt tới mức
tuyệt diệu:
“ Thông minh vốn sẳn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.
Cả diện mạo bên ngoài và diên mạo tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số
phận của nàng Kiều.
Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi gắm quan niệm
“Tài hoa bạc mệnh” vào đấy - dự báo trước cuộc đời, số phận long đong, lận đận,
đầy bất hạnh của nàng.
Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với ngòi
bút tài hoa, chắt lọc, trau chuốt ngôn từ, Ng.Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức
chân dung Th.Vân và Th.Kiều, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từ tính cách,
từng số phận riêng, không lẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong tâm hồn người
đọc. Đây là thành công trong bút pháp nghệ thuật miêu tả người của Ng.Du. Đã hơn
hai thế kỉ rồi, với truyện Kiều và nghẹ thuật tả người đặc sắc, tinh tế của Ng.Du, đẫ
là bậc thầy làm rung động và sự cảm phục, trân trọng của bao thế hệ đối với đại thi
hào dân tộc Ng.Du.
Đề 12: Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng:
Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ phải rơi vào một tên
cò mồi Mã Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép được Kiều tiếp
khách làng chơi, Tú Bà bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra, đây cũng chỉ là
khoảnh khắc tạm thời yên thân để rồi sau đó, đời nàng bị xô đẩy đi giữa bao mưu
mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng chưa lường hết được. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân
vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình.
nvhaidh SƯU TẦM
Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng
nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái
hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạn xoáy sâu vào tâm can
nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là
vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài
vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.
Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, không
một tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy:
“Trống trải, đơn côi”:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”
Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh
trăng vằng vặc, nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của chang và tự hứa
với lòng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ.
Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li không nói
với nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tinh sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”,
cứu được cha, em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa,
cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình không được
chăm sóc, không được hầu hạ:
“Xót người tựa của hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khi phải mãi
mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng
sớm hôm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý Kiều “Xuân xanh đang tuổi
đến tuần cập kê”-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi
buồn mênh mông như đè nặng, bao quang lấy nàng.
Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nôi buồn
của nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình, đối với
người con gái họ Vương tài-sắc này như một định mệnh không sao thoát được!
Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều lại
quay về với chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của
chính mình.
Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí của
nàng một nét buồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của mình. Nổi
nvhaidh SƯU TẦM
buồn sâu sắc của Thuý Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tô
đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo “Buồn trông”
”Buồn trông cửa bể chiều hôm”
”Buồn trông ngọn nước mới sa”
”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”
Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó tả, cũng
có trời nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mãi miết cuốn trôi những
càng hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”, “sóng xô” giữa cái mênh
mông của biển trời, lại vào
lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cách
buồng thấp thoáng phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm
trạng buồn chán về cuộc đời, về số phận của mình.
Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi,
bấp bênh thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống
vô định, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì
nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”
Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái thân phận
bé nhỏ bất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp
đó. Phải chăng như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ” . Qua điệp khúc “Buồn trông ” của Kiều, ta cảm nhận được nổi đau
đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quảng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có
“Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”.
Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm trong bút pháp
Nguyễn Du: cảnh và tình bao giờ cũng hoà hợp, tả cảnh là để tả tình, trong tả cảnh
đã có tả tình. Truyện Kiều có hơn ba ngàn câu (3254 câu). Đoạn trích ở trên chỉ
chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được nhièu người
biết đến và quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhà thơ, nhưng trước hết là vì cái tình
lớn của nhà thơ đối với nhân vật, đối với con người, đối với cuộc đời.
Đề 13: Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích, nhưng thực chất là bị Tú Bà giam lỏng ở
đấy, dùng “Mưu ma chước quỷ” lừa gạt nàng, để buộc nàng phải ra tiếp khách ở lầu
xanh. Sau lưng nàng là những tai biến, đau đớn, nhục nhã, ê chề: gia đình bị mắc
oan, phải trao duyên cho Thuý Vân, bị Mã Giám Sinh giả danh cưới về làm lẽ và bị
gã lừa gạt, làm nhục ngay ở dọc đường, bị Tú Bà xỉ nhục và dở trò đánh đạp để ra
uy. Từ tâm trạng của mình, nhìn cảnh vật bên ngoài, do đó, những ghi nhận về cảnh
là những ghi nhận về tình. Vì mối quan hệ tình cảnh đó, người đọc càng hiểu sâu sắc
tâm trạng của Thuý Kiều trong đoạn trích này:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngon nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
nvhaidh SƯU TẦM
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.
Mã Giám Sinh nói dối, mua Kiều về làm vợ lẽ. Kiều đã “thất thân” với Mã.
Thật ra Mã mua Kiều về cho mụ Tú Bà. Tú Bà khi biết hành vi của Mã đã nổi giận
đùng đùng, đánh đập Kiều, bắt Kiều tiếp khách. Phẫn uất khi bị lừa dối, bị hành hạ,
Kiều quyết định tự vẫn. Lo ngại vì vốn liếng có thể “thất thoát” Tú Bà dùng thủ
đoạn khuyên nhủ, dỗ dành và hứa sẽ tìm một nơi xứng đáng cho nàng về sau, Tú Bà
đưa Kiều về lầu Ngưng Bích.
Sau những đau đớn ê chề, trong lẻ loi, Kiều ngóng đợi tin tức người tình
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng-tinh sương trông mai chờ”. Nàng nghĩ về
cha mẹ tuổi già bóng xế “Xót thương quạt nồng đó giờ?”
Chính trong tâm trạng ngổn ngang nhiều nỗi đó, Kiều nhìn ra cái mênh mông
của biển cả. Từ trong cảnh soi vào lòng mình hiện tại, Kiều gặp lại lòng mình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Giữa cái mênh mông của trời biển, trong màu xanh xam xám của ban chiều,
có những cánh buồm lúc ẩn lúc hiện: chiếc thuyền ra khơi, chiếc thuyền hướng về
đất liền. Từ nội tâm đang đau khổ, Kiều như nhìn nhận “từ trong ai đó”,”Trong
những chiếc thuyền từ biển khơi”, trong tầm mắt xa khơi của cảnh và con người.
Đang trông vọng một nỗi hội tụ mà sao lại cách biệt, chia li làm vậy?
Lời thơ bình dị, những gì gợi lên trong âm hưởng của câu thơ - là nổi khắc
khoải, xoáy sâu vào lòng Kiều:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Trông ngọn nước đang cuồn cuộn chảy, nhiều cánh hoa trôi dạt. Có thật là
cánh hoa chăng? Không phải vậy! Người đọc cảm nhận được trong dòng nước đang
cuồn cuộn chảy kia “nhiều cánh hoa trôi dạt”. Cũng có thể là cánh hoa, cũng có thể
là dòng nước cuồn cuộn thiếu gì những bọt bèo trôi nổi. Trong cái mênh mông vô
định, cái cảnh “ nước chảy, hoa trôi lỡ làng” ấy gắn hợp với thân phận con người bị
ném vào cảnh sống đầy biến động, đầy bất công và bạc ác - thân phận Thuý Kiều,
chúng ta mới hiểu được tâm trạng của nàng Kiều trong lúc này.
Lời thơ rất giản dị và hình ảnh ẩn dụ sắc sảo về cuộc đời- cuộc đời người đàn bà
(như người đời thường quan niệm “đời hoa”)
Nhiều lần Kiều cũng tự ví mình “Hoa trôi, bèo dạt đã đành. Biết duyên mình,
biết phận mình thế thôi”
Buồn bã, Kiều lại nhìn vào đồng nội:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.
Màu mây, màu cỏ nhạt hoà vào với nhau thành một màu “xanh xanh” khó phân
biệt. Mà làm sao phân biệt được “màu trời, sắc mây” trong cảnh chiều tà, giữa cái
mênh mông, bát ngát trong lúc tâm hồn còn nhiều ngổn ngang như thế. Và cuối
cùng:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Trong câu thơ, đọc lên, ta nghe có “tiếng gió” và “tiếng sóng biển” đang “ầm
ầm” kêu quanh nàng Kiều như đang ở trong tâm trạng lo lắng, hoảng sợ tưởng
nvhaidh SƯU TẦM
như không ngồi trên đất liền nữa mà như đang ngồi giữa biển khơi, bốn phía “ầm
ầm tiếng sóng”. Tiếng sóng ở đây, trong câu thơ không phải là âm thanh của tiếng
sóng bình thường: sóng vỗ, sóng xô, sóng dào dạt, mà “tiếng sóng kêu” ầm ầm tứ
phía, ngầm dự báo cơn sóng gió, bão táp của cuộc đời thật dữ dội sẽ ập đến với
Thuý Kiều, với đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đang chờ đợi nàng.
Đoạn thơ này hay không những vì đã khái quát được tâm trạng của nàng Kiều
khi ở lầu Ngưng Bích mà còn mở ra những điều dự báo về sau của cuộc đời Kiều.
Những dự báo mơ hồ của tâm linh không lâu đã đến với Kiều. Tám câu thơ cuối của
đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” càng khẳng định ngòi bút tài hoa của Nguyễn
Du trong bút pháp tả cảnh, tả nội tâm nhân vật tài tình, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu
lắng trong lòng người đọc xưa và nay, thấm đãm tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Đề 14: Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
(Ngữ văn 9 - tập I)
Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim
Trọng thì bất ngờ gia đình Kiều bị vu oan, giáng hoạ. Không đành lòng để cho gia
đình tan nát, Thuý Kiều đau đớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán mình để
lấy tiền cứu cha và em trai. Lợi dụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh
“vốn là một đứa phong tình đã quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp nhưng thực
sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ Tú Bà ở Lâm Tri. Đoạn
trích này miêu tả màn kịch mua bán, qua đó “lột mặt nạ” của Mã Giám Sinh và thể
hiện nỗi đau đớn ê chề, mở đầu cho đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đầy cay đắng
của nàng Kiều.
Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét của nhà thơ, Nguyễn Du
đã lột tả bộ mặt bỉ ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn
kịch này, Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “lễ
vấn danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người
viễn khách” mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến tên quán. Và ngòi bút thần tình của
Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung của Mã Giám Sinh và cái bản
chất con buôn ghê tởm của hắn:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy, sau tớ xôn xao
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trong”
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu
nhẵn nhụi”, rõ ra một gã trai lơ. Lũ thầy, tớ chúng kéo đến nhà Kiều thật là nhốn
nháo, lố lăng và cái cử chỉ “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” đã làm rơi cái mặt nạ sinh
viên, phơi bày chân tướng của một tên vô học, thô lỗ của hắn.
Nguyễn Du cứ “khách quan” miêu tả cảnh mua bán vậy mà cái bản chất thật
của Mã Giám Sinh vẫn bị lột trần, phơi bày bằng hết. Dẫu được khéo léo che đậy
bằng mọi thứ mánh lới xảo quyệt nhưng diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn
ngữ của hắn vẫn tự tố cáo bản chất đích thực của một tên “buôn thịt bán người” đê
tiện.
Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng chỉ là
một món hàng rồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân tài”, hắn
nvhaidh SƯU TẦM
“ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ kiểu hệt như
người ta mua bán một món hàng. Khi đã hoàn toàn vừa ý, bản chất con buôn của
hắn vẫn còn lộ ra ở cái thái độ “tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản chất đó còn được
che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:
“ Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:
“Cò kè bớt một, thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Với sự mặc cả “cò kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ thực
chất là một cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám Sinh hiện
nguyên hình là một tên con buôn ghê tởm và đê tiện nhất.
Trong đoạn trích này, hình ảnh Thuý kiều hiện ra với tất cả những buồn khổ,
xót xa, ê chề, tủi hổ. Là một cô gái tài sắc vẹn toàn, đang sống trong cảnh “êm đềm
trướng rủ, màn che, tường đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang ngây ngất trong
hạnh phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai hoạ ập đến, Kiều trở thành
một món hàng cho bọn “buôn thịt, bán người” trao tay mua bán, cò kè, mặc cả. Tâm
hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ
dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình:
“ Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió, e sương,
Ngừng hoa bỗng thẹn, trông gương mặt dày”.
Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia đình
(nỗi nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra trước
sương gió, cho nên “ dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa rụng. Và
vì tự ví mình với hoa nên thẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy không xứng với hoa.
Đó là cái đạo đức thầm kín của Kiều. Trong khi đó mụ mối cứ giới thiệu Kiều như
một món hàng, một đồ vật: “vén tóc, bắt tay” cho khách xem. Bắt nàng làm thơ,
đánh đàn cho khách thấy. Còn Kiều thì “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”.
Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và theo
đòi hỏi, nài ép của Mã Giám Sinh, Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn , làm thơ
như một “cái máy”. Bán mình để chuộc cha, cứu em là hành động tự nguyện của
nàng nên nàng chịu đựng và cam chịu tất cả. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, nàng
Kiều hiện lên với sự im lặng tuyệt đối mà vẫn không sao dấu được sự đau đớn, xót
xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là người luôn có ý thức về nhân phẩm mà lại bị chà đạp
lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất trước cảnh đời ngang trái, đau khi
nghĩ tới”nỗi mình” - tình duyên dang dở, uất bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng hoạ”,
Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa
mấy hàng”!
Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là cảnh
“cành hoa đem bán cho thuyến lái buôn”
Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn du đã
khắc hoạ được tính cách nhân vật, tác giả đã bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của
Mã Giám Sinh, qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên tài sắc, nhân phẩm
của người phụ nữ đồng thời bộc lộ sự thương cảm sâu sắc bởi nỗi đau oan trái của
Thuý Kiều ngay từ buổi đầu của đoạn đời lưu lạc đầy bất hạnh của nàng.
nvhaidh SƯU TẦM
Đề 15: Phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ
đối thoại nhằm khắc hoạ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư trong đoạn trích
“Thuý Kiều báo ân, báo oán” (Trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Trải qua “hết hạn nọ đến hạn kia”, Kiều đã nếm đủ hết mọi điều cay đắng,
tưởng rằng nàng sẽ buông xuôi trước số phận “biết thân chạy chẳng khỏi trời - cũng
liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”. Chính lúc kiều đang vô vọng thì Từ Hải xuất
hiện. Kiều găph Từ Hải- một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số
phận của người con gái họ Vương. Người anh hùng “đội trời, đạp đất” chẳng những
cứu Kiều thoát khỏi cuộc sống ở lầu xanh mà còn đưa nàng từ thân phận “con ong,
cái kiến” bước lên địa vị một quan toà cầm cán cân công lý “ơn đền, oán trả”. Đoạn
trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán” miêu tả cảnh thuý Kiều đền ơn những người đã
cưu mang, giúp đỡ nàng đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du có khi được thể hiện qua bút
pháp ước lệ miêu tả ngoại hình (đoạn trích “chị em Thuý Kiều”) , có khi được thể
hiện qua ngôn ngữ độc thoại, qua bút pháp tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng
(đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”). Trong đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo
oán”, nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại để làm nổi
rõ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư.
Trước hết, nhà thơ miêu tả cảnh Thuý Kiều trả ơn Thúc Sinh trong mười hai
câu thơ đầu “cho gươm mời đến Thúc lang mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho
vừa”.
Thúc Sinh được mời tới trong cảnh oai nghiêm của nơi Kiều xử án:
“Cho gươm mời đến Thúc lang
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”.
Trước những “gươm lớn, giáo dài”, chàng thúc hoảng sợ đến mức “mặt như
chàm đổ”, người run lên như đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù
hợp với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh. Hình ảnh tội nghiệp của Thúc
Sinh làm cho nàng Kiều động lòng trắc ẩn và họ tạo nên sự bất ngờ trong việc trả
ơn, báo oán tiếp theo. Qua lời nói của Kiều “nghĩa nặng nghìn non”, “sâm thương
chẳng vẹn chữ tòng, tại ai há dám phụ lòng cố nhân” , có thể nói rằng nàng rất
trọng tấm lòng và giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn.
Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục.
Cùng với chàng thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình.
Nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Trong hình thức của cách nói văn chương,
sách vở là tấm lòng biết ơn chân thật của Kiều. “Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ
không?”. Hai chữ “người cũ”, tiếng việt mang sắc thái thân mật, gần gũi.
Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ
đau đớn hơn một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải
do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Thuý Kiều hiểu hoàn cảnh của Thúc
Sinh: “tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”. Với Kiều thì dù có “gấm trăm cuốn, bạc
nghìn cân” cũng chưa xứng với ân nghĩa của Thúc Sinh. Tấm lòng ”nghĩa nặng
nghìn non” thì gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân cho được?
Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán - Việt “nghĩa tòng”, “cố
nhân”, tiễn cố “sâm thương”. Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư
sinh họ Thúc, đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của nàng Kiều.
Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư, điều đó chứng tỏ vết
thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang còn qua xót xa. Lúc nói về Hoạn