Tải bản đầy đủ (.doc) (721 trang)

TÀI LIỆU ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNGCÁN BỘ XÂY DỰNG NÔNG THÔNMỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 721 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BAN CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TÀI LIỆU ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI
(Bản thảo)
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TRẦN PHÚ HÀ TĨNH
HÀ TĨNH, 2012
Chuyên đề 1
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
I. TỔNG QUAN VỀ NÔNG THÔN MỚI
1. Khái niệm nông thôn
Là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị
trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã
.
2. Khái niệm nông thôn mới
Hiện nay có nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm
Nông thôn mới. Tuy vậy, theo Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết 26-NQ/TW, có
thể hiểu: Nông thôn mới là nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại;
cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định,
giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo
vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
3. Đặc trưng của nông thôn mới
Theo cuốn “Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới” (Nhà xuất bản Lao
động 2010), đặc trưng của Nông thôn mới thời kỳ CNH –HĐH, giai đoạn 2010-
2020, bao gổm:
- Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn
được nâng cao;
- Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội


hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;
- Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy;
- An ninh tốt, quản lý dân chủ.
- Chất lương hệ thống chính trị được nâng cao
4. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
- Nội dung xây dựng nông thôn mới hướng tới thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia được
qui định tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
- Xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của
cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban
hành các tiêu chí, quy chuẩn, xã đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng
dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân
chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.
2
- Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu
quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang
triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết;
có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế;
huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư.
- Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy
hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu
chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban hành).
- Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng, chính
quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ
chức thực hiện; Hình thành cuộc vận động “toàn dân xây dựng nông thôn mới" do
Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp
nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nông thôn mới.
II. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1. Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân và

nông thôn
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình tổ chức,
động viên và tập hợp lực lượng đều nhận thức rõ vị trí, vai trò và khả năng
cách mạng to lớn của giai cấp ND trong sự nghiệp cách mạng do giai cấp CN
mà đội tiên phong là Đảng cộng sản lãnh đạo. Chính trong quá trình đó, cả
C.Mác, Ph.Ăngghen và VI.Lênin đều có những nghiên cứu rất có giá trị về
NN. Đặc biệt là về chỉ đạo tổ chức và phát triển kinh tế hợp tác trong NN.
C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn bao
giờ cũng vẫn là vấn đề cơ bản của chính quyền nhà nước, một nội dung trọng
yếu trong cương lĩnh hoạt động của các Đảng cộng sản.
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nước kém phát triển,
trong những năm 1921-1923, V.I. Lênin đưa ra quan điểm là: Phải bắt đầu từ
nông dân; phải chấn hưng NN và xem đó là giải pháp quan trọng để thực
hiện Chính sách kinh tế mới và chế độ hợp tác xã.
Là một vị lãnh tụ có tầm nhìn sâu rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ rất
sớm đã khẳng định vị trí, vai trò hết sức to lớn của sản xuất NN đối với việc
phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu Cách mạng tháng
3
Tám mới thành công, trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, ngày 11-4-
1946, Hồ Chí Minh viết: "Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền
kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà,
chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần
lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta
thịnh". Từ đó, Người khẳng định: "Muốn phát triển công nghiệp, phát triển
kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính".
Chính vì vậy, Người rất quan tâm, dành nhiều công sức để nghiên cứu và chỉ
đạo phát triển sản xuất NN.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Công sản Việt Nam luôn khẳng định
tầm quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong quá

trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội
dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng khẳng định: ra sức phát triển nông nghiệp, vì
muốn phát triển công nghiệp, muốn tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
phải có những điều kiện tiên quyết như lương thực, thực phẩm, lao động, v v
mà những điều kiện đó phụ thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp. Hội nghị
Trung ương lần thứ năm (khóa III) năm 1961 đã ra nghị quyết về vấn đề phát
triển nông nghiệp, trong đó nêu lên phương hướng cải tiến công cụ và cơ giới
hóa nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
Đến Đại hội lần thứ IV, Đảng xác định lấy phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ làm cơ sở để ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý, nêu ra vấn đề kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước
thành một cơ cấu công - nông nghiệp. Như vậy, đến Đại hội IV, vai trò của
nông nghiệp được xác định là cơ sở để phát triển công nghiệp. Tuy nhiên
đường, lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV đề ra vẫn thiên về
xây dựng công nghiệp nặng, chưa tập trung sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ một cách đúng mức.
Đại hội V của Đảng khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và chỉ
rõ quan điểm xây dựng và phát triển công nghiệp nặng phải nhằm phục vụ
thiết thực và có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng.
Đại hội VI là bước ngoặt trong đổi mới tư duy của Đảng về chủ nghĩa xã
hội nói chung, về nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Đại hội chỉ rõ, trong những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-
4
1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba
chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Trong toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không được tách
rời nông nghiệp với công nghiệp. Song trong từng giai đoạn, chặng đường cụ
thể, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác nhau; trong chặng đường

hiện nay phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua Đại hội VII và các nghị quyết của Trung ương khóa VII, tiếp
tục khẳng định, làm rõ quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và kinh tế nông thôn, theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra nghị quyết về: “Tiếp tục đổi
mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”, xác định hệ thống quan điểm
nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta, lấy nông
nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và các Nghị quyết Trung ương, Bộ
Chính trị khóa VIII tiếp tục cụ thể hóa hơn nội dung công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư
(Khóa VIII) chỉ rõ : Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa. Nghị quyết xác định đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông
thôn, giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình
thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông
nghiệp và nông thôn; phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa.
Đại hội IX của Đảng và nhất là Nghị quyết Trung ương năm về “Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-
2010” đã làm rõ hơn những nội dung tổng quát và quan điểm của Đảng về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đó là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn,
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí
hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là
công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu

5
sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. Đó là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản
phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản
phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, quy
hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất
và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nông thôn dân chủ, công
bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân ở nông thôn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã tiếp tục khẳng định vai
trò, vị trí của nông dân, nông nghiệp, nông thôn, đồng thời chỉ rõ định hướng
phát triển về kinh tế: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp,
kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Hiện nay và trong nhiều
năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc
biệt quan trọng. Phải coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa
dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh
tranh cao, tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch. Gắn phát
triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa
nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính
trị - xã hội. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội X, Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 26 “Về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn” tiếp tục khẳng định những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và
giải pháp xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững,
sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả v.v
Như vậy, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và thực tiễn của thời kỳ đầu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước phát triển và hoàn thiện tư duy về vị
trí, vai trò của nông nghiệp, Đảng đã sớm khẳng định: muốn tiến hành công

nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu từ nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, phải tập trung nguồn lực đưa nông nghiệp một bước lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tạo ra nguồn tích lũy ban đầu cho công nghiệp hóa.
Trong quá trình phát triển nhận thức của Đảng, nông nghiệp, nông dân và
nông thôn là những vấn đề mang tầm chiến lược của cách mạng Việt Nam, có
tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6
2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây
dựng nông thôn mới
2.1. Quan điểm, chủ trương về xây dựng nông thôn mới ở Trung ương
2.1.1. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Ban chấp
hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
a. Yêu cầu của việc xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông
thôn trong tình hình mới.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và
to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất
hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh
lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường
thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ,
ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật
chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải
thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn
được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng
được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc
độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt

nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ
và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi
mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ
phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công
nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm
đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp
và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu
kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn
nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp,
tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch
giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều
7
vấn đề xã hội bức xúc.
Trước thực trạng nêu trên, Nghị quyết số 26 - NQ/TW (khóa X) đã đặt ra
yêu cầu cần phải tiếp tục xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông
thôn nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông
thôn; xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, xã
hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; xây dựng giai cấp nông
dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng
kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
b. Quan điểm, mục tiêu xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và
nông thôn.
Quán triệt và cụ thể hóa quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X,
nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, Nghị quyết số 26 - NQ/TW đã đưa ra một số quan điểm cũng như xác định
các mục tiêu tổng quát, ngắn hạn về xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn ở nước ta.

Về quan điểm:
- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính
trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và
bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ,
gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…xây dựng nông
thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo
quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nông dân
- Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Về mục tiêu:
Mục tiêu tổng quát: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
dân cư nông thôn… Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và
8
khả năng cạnh tranh cao… Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý ; xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao; hệ thống
chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai
cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền
tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu đến năm 2020: Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 -
4%/năm; sử dựng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa
đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển
nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông

thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp
trên 2,5 lần so với hiện nay; Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã
hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông
thôn mới khoảng 50%; Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông
thôn; Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; Nâng cao năng lực
phòng chống, giảm nhẹ thiên tai…Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi
trường, từng bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn.
c. Một số nhiệm vụ giải pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, góp phần thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết 26 đã đề ra 8 nhóm nhiệm vụ giải
pháp xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Thứ nhất: Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng
thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sản xuất nông nghiệp, cơ cấu lại ngành nông
nghiệp, gắn sản xuất với chế biến và thị trường; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất
kỹ thuật, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản. Phát triển ngành trồng trọt, hình
thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, thực hiện đầu tư thâm canh, áp dụng
các giống và quy trình sản xuất mới có năng suất, chất lượng cao. Phát triển
nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn
dịch bệnh, phù hợp với lợi thế của từng vùng. Phát triển lâm nghiệp toàn diện từ
quản lý, bảo vệ, trồng, cải tạo, làm giàu rừng đến khai thác, chế biến lâm sản,
bảo vệ môi trường cho du lịch sinh thái. Triển khai có kết quả chương trình khai
9
thác hải sản trong chiến lược phát triển kinh tế biển, gắn nhiệm vụ phát triển
kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ
ở các vùng nông thôn theo quy hoạch. Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng
các loại dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống của dân cư nông thôn.
Thứ hai: Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát

triển các đô thị.
Tiếp tục đầu tư các công trình thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, nâng cao
năng lực tưới tiêu chủ động cho các loại cây trồng, cấp nước sinh hoạt cho dân
cư và công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn; Phát triển giao thông nông thôn bền
vững gắn với mạng lưới giao thông quốc gia; Cải tạo và phát triển đồng bộ hệ
thống lưới điện, bảo đảm đủ điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; Phát triển
hệ thống bưu chính viễn thông; Xây dựng hệ thống chợ nông sản phù hợp với
từng vùng; Nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa
tuyến huyện, các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu; hoàn thành
chương trình kiên cố hóa trường học; xây dựng các trung tâm, nhà văn hoá - thể
thao tại thôn, xã.
Quy hoạch bố trí lại dân cư nông thôn gắn với việc quy hoạch xây dựng
công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị ở các vùng. Thực hiện chương trình
xây dựng nông thôn mới với các tiêu chí cụ thể, phù hợp với đặc điểm từng
vùng, chú ý các xã còn nhiều khó khăn ở miền núi, biên giới, bãi ngang, hải đảo.
Phát triển mạng lưới thị trấn, thị tứ theo quy hoạch; tiếp tục thực hiện phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Thực hiện tốt các chương
trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính sách, xoá nhà tạm ở
nông thôn, thực hiện chương trình nhả ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí lại
dân cư ra khỏi vùng bão, lũ, vùng sạt lở núi, ven sông, ven biển.
Thứ ba: Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất
là vùng khó khăn.
Giải quyết việc làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hoà giữa các
vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành
thị; Tập trung nguồn lực và tăng cường chỉ đạo thực hiện đồng bộ chiến lược về
tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo; Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
ban đầu và khám chữa bệnh; Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc; Nâng cao chất lượng cuộc vận động

10
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xây dựng các hương ước, phát
huy truyền thống tốt đẹp, tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm, bài trừ các
hủ tục, thực hiện nếp sống mới ở nông thôn; Xây dựng hệ thống an sinh xã hội;
Đấu tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã
hội, giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện của nhân dân, không để gây thành
những điểm nóng ở nông thôn.
Thứ tư: Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có
hiệu quả ở nông thôn.
Tiếp tục tổng kết, đổi mới và xây dựng các mô hình kinh tế, hình thức tổ
chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; Tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã, tổ
hợp tác phù hợp với nguyên tắc tổ chức của hợp tác xã và cơ chế thị trường; Hoàn
thành việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp. Tạo
môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp
nông thôn, nhất là các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sử dụng
nguyên liệu và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại chỗ, doanh nghiệp dịch vụ
vật tư, tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân. Phát triển mạnh doanh nghiệp
công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu phục vụ nông nghiệp.
Thứ năm: Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa
học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông
nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn.
Tăng đầu tư ngân sách cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ để
nông nghiệp sớm đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực;
Xây dựng các chính sách đãi ngộ thỏa đáng để khai thác, phát huy tốt các nguồn
lực khoa học - công nghệ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia nghiên
cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ; Tăng cường năng lực của hệ thống
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ khác
ở nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất nông sản an toàn, công nghệ cao; Tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên
tiến, hiện đại cho nông dân; Hình thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào

tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao
động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề.
Thứ sáu: Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn
lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nông dân.
Sửa đổi Luật Đất đai theo hướng: Tiếp tục khẳng định đất đai là sở hữu toàn
11
dân, Nhà nước thống nhất quản lý theo quy hoạch, kế hoạch để sử dụng có hiệu
quả; giao đất cho hộ gia đình sử dụng lâu dài; mở rộng hạn mức sử dụng đất, thúc
đẩy quá trình tích tụ đất đai; công nhận quyền sử dụng đất được vận động theo cơ
chế thị trường, trở thành một nguồn vốn trong sản xuất, kinh doanh.
Rà soát, điều chỉnh cơ cấu đầu tư ngân sách, giảm bớt đầu tư cho các công
trình có thể thu hồi vốn để tạo nguồn, tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn; Tăng cường phân cấp thu chi ngân sách cho các địa phương,
bao gồm cả cấp huyện và xã; Tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế; có biện pháp bảo vệ thị trường nội địa, phát triển thị trường xuất khẩu
nông sản phù hợp với luật pháp quốc tế; Tăng cường hệ thống dự trữ quốc gia,
nhất là lương thực.
Thứ bảy: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy
sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của đảng bộ, chi bộ cơ sở để thực
sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện trên địa bàn nông thôn; củng cố và nâng cao năng
lực bộ máy quản lý nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương, nhất là cấp huyện,
xã và các lĩnh vực khác ở nông thôn. Tiếp tục cải cách hành chính, tăng cường đào
tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức xã. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn;
tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho Hội Nông dân Việt Nam trong việc trực tiếp
thực hiện một số chương trình, dự án phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống của
nông dân, hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp;
Chăm lo xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam, củng cố liên minh công nhân - nông

dân - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.1.2. Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn. (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng
10 năm 2008 của Chính phủ)
Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chính phủ xây dựng Chương trình
hành động với các nội dung chủ yếu sau:
Mục tiêu: khẳng định và bổ sung nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, ngành, Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tổ chức thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhằm: Xây dựng nền
nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng
12
suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao; Nâng cao chất lượng cuộc
sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn; Hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội nông thôn; xây dựng nông thôn mới bền vững theo hướng văn minh,
giàu đẹp, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; đảm bảo
điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng
nông thôn gần với các đô thị trung bình; Nâng cao năng lực phòng chống giảm nhẹ
thiên tai, thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biển đổi khí hậu
toàn cầu, nhất là nước biển dâng.
Yêu cầu: Quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu và nội dung của Nghị quyết
Trung ương để xây dựng các chương trình kinh tế - xã hội, các đề án chuyên ngành,
cụ thể hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở Nghị quyết và Chương
trình hành động của Chính phủ, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch cụ thể để chỉ đạo triển khai thực hiện.
Những nhiệm vụ chủ yếu: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà
nước được giao, các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, tổ chức triển khai
những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

Thứ nhất: Thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Các cơ quan chức năng ở các cấp tổ chức quán triệt và thực hiện
tuyên truyền, giáo dục, vận động sâu rộng trong toàn xã hội về vị trí, vai trò và
tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cụ thể hóa những chủ trương và giải pháp
lớn, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để triển khai các nội dung
của Nghị quyết này, cũng như các Nghị quyết khác của Đảng và Nhà nước liên
quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Thứ hai: Xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2020. Tiếp
tục triển khai đồng bộ, có hiệu quả ở địa bàn nông thôn các Chương trình mục tiêu
Quốc gia đã được phê duyệt. Triển khai xây dựng mới Chương trình mục tiêu Quốc
gia sau đây: Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Chương
trình mục tiêu Quốc gia về thích ứng với sự biến đổi khí hậu; Chương trình mục
tiêu Quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực nông thôn.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch. Trên cơ sở
điều kiện cụ thể và lợi thế của từng vùng, nghiên cứu, dự báo thị trường, tiến bộ kỹ
thuật công nghệ, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương xây dựng các quy hoạch tổng thể, rà soát bổ sung các quy hoạch hiện có trình
13
cấp có thẩm quyền phê duyệt; chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát thực hiện quy hoạch
phạm vi ngành và địa phương.
Thứ tư: Xây dựng các đề án chuyên ngành. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ theo chức năng, nhiệm vụ được phân công chủ trì, phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan xây dựng các Đề án chuyên ngành theo các nhóm: Xây
dựng nền nông nghiệp hiện đại; Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ nông thôn; Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; Nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư nông thôn; Đổi mới các hình thức tổ chức
sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; Phát triển khoa học – công nghệ phải trở thành
khâu đột phá để phát triển nông nghiệp hiện đại và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước.

Thứ năm, Nhóm dự án luật và chính sách. Thực hiện sửa đổi Luật Đất đai
theo hướng, Luật Ngân sách nhà nước; Rà soát các quy định về đầu tư để khuyến
khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Xây dựng các Luật: Vệ sinh an toàn thực
phẩm, Thủy lợi, Nông nghiệp, Bảo vệ thực vật, Thú y; Xây dựng chính sách thu hút
cán bộ, thanh niên, trí thức về nông thôn.
(Nhiệm vụ cụ thể của các Bộ, ngành có Phụ lục kèm theo).
2.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về xây dựng
nông thôn mới.
2.2.1. Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 19 tháng 5 năm 2009 của BCH Đảng
bộ tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hà Tĩnh giai đoạn 2009-2015 và
định hướng đến năm 2020.
Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nghị quyết Đại
hội lần thứ XVI Đảng bộ tỉnh và Chương trình hành động số 852-CTr/TU, ngày
10/11/2008 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; để tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, ngày
19/5/2009, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TU
ngày 19 tháng 5 năm 2009 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hà Tĩnh giai đoạn
2009-2015 và định hướng đến năm 2020:
- Thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh ta từ sau ngày tái lập tỉnh
đến nay:
Sau ngày tái lập tỉnh, nhất là từ năm 2001 đến nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện của cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc,
đoàn thể các cấp và sự nổ lực phấn đấu của bà con nông dân, nông nghiệp, nông dân,
14
nông thôn tỉnh ta đã đạt được những thành tựu khá toàn diện. Tốc độ tăng trưởng
bình quân của ngành nông nghiệp đạt 2,56%/năm; cơ cấu giá trị sản xuất trong nông
nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, sản lượng lương thực từ 42 vạn tấn lên 51
vạn tấn, tăng 21%; giá trị sản xuất nông nghiệp từ 16,6 triệu đồng tăng lên gần 40
triệu đồng/ha; giá trị xuất khẩu nông, lâm, hải sản từ 9,7 triệu USD lên 32,4 triệu

USD. Tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi tăng từ 29,7% lên 36%; khai thác, đánh bắt,
nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục phát triển. Các hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh ở nông thôn bước đầu được hình thành và phát triển; xuất hiện
nhiều mô hình, điển hình về phát triển kinh tế hàng hoá. Các làng nghề truyền thống
được khôi phục và phát triển, gắn với xây dựng các khu, cụm công nghiệp, ngành
nghề nông thôn; một số nghề mới được du nhập bước đầu phát huy hiệu quả. Kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn được tập trung xây dựng, nâng
cấp như: giao thông, thuỷ lợi, điện, trạm xá, trường học… Công tác xoá đói, giảm
nghèo, giải quyết việc làm, xoá nhà tranh tre dột nát đạt kết quả rõ nét. Các chính
sách đối với vùng sâu, vùng bị thiên tai, các gia đình có công với cách mạng, gia
đình có hoàn cảnh khó khăn được thực hiện kịp thời. Hệ thống chính trị được tăng
cường; dân chủ cơ sở ngày càng được phát huy; an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội được đảm bảo. đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn được cải
thiện. Bộ mặt nông thôn nhìn chung có nhiều thay đổi, phong trào xây dựng nông
thôn mới được triển khai trên diện rộng, một số xã đã đạt các tiêu chí nông thôn mới.
Tuy vậy, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
của tỉnh. Nông nghiệp tăng trưởng thiếu bền vững, sản xuất chưa gắn với thị trường.
Tỷ lệ cơ giới hoá trong các khâu sản xuất đạt thấp. Việc chuyển giao, ứng dụng tiến
bộ khoa học - công nghệ, nhất là giống mới vào sản xuất hiệu quả chưa cao. Công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn quy mô nhỏ, phát triển thiếu
quy hoạch. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Các hình thức tổ chức sản xuất ở
nông thôn như: kinh tế tập thể, kinh tế trang trại, các doanh nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nông thôn… còn hạn chế. Nông thôn phát triển thiếu quy hoạch; kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá và phục vụ
đời sống của nhân dân. Kết quả đạt được trong xoá đói, giảm nghèo thiếu bền vững,
nguy cơ tái nghèo còn cao. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm chưa được
quan tâm đúng mức, tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo nghề đạt thấp (8,05%).
Nhiều vấn đề phát sinh, vướng mắc ở nông thôn chậm được giải quyết như: công tác
quản lý nhà nước về đất đai; tình trạng tranh chấp đất đai, lần chiếm rừng, đất rừng;
xây dựng cơ bản, chính sách đối với người có công, dịch bệnh; các tai, tệ nạn xã hội

có xu hướng gia tăng. Hiện tượng vi phạm Pháp lệnh Dân chủ cơ sở vẫn còn xẩy ra.
15
Đời sống vật chất, tinh thần của người dân còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu,
nghèo giữa thành thị, nông thôn và giữa các vùng, miền ngày càng tăng.
- Mục tiêu chung là: “Phát triển nông nghiệp toàn diện gắn với công nghiệp,
dịch vụ theo hướng hiện đại, bền vững; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập
trung; đẩy mạnh cơ giới hoá, điện khí hoá và áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
công nghệ mới vào sản xuất, đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu quả; giải quyết tốt
các nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm, môi trường bền vững không những
cho dân cư nông thôn mà cả dân cư công nghiệp và đô thị. Phát triển công nghiệp,
dịch vụ gắn với chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống
nông dân; từng bước điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý. Xây dựng nông thôn mới theo hướng truyền thống, văn minh,
hiện đại, có kết cấu hạ tầng phù hợp với quy hoạch không gian làng, xã, quy hoạch
kinh tế - xã hội của ngành và địa phương; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc; đảm bảo môi trường sinh thái… Nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của người dân, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng, miền, đặc biệt quan tâm vùng miền núi, vùng sâu, vùng tái định
cư; nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng giai cấp nông dân mới theo
ý thức tự vươn lên, có khả năng làm chủ nông thôn mới. Đảm bảo an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội”.
Nghị quyết đề ra các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010, 2015 và mục tiêu định
hướng chủ yếu đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh các chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng
nông, lâm, thủy sản, giá trị sản xuất trên 1 ha diện tích, thu nhập bình quân, tỉ lệ hộ
nghèo, các tiêu chí nông thôn mới…
Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, Nghị quyết đã xác định 11 nhiệm
vụ giải pháp sau đây:
1. Tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung và xây dựng mới các quy hoạch,
chương trình, đề án phát triển nông nghiệp, nông thôn
2. Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đống thời

phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
3. Huy động các nguồn lực phát triển nhanh, đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội nông thôn, tăng cường năng lực dự báo, phòng, chống giảm nhẹ thiên tai, bảo
vệ môi trường
4. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn; tập trung giải
quyết các vấn đề phát sinh, vướng mắc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội
và xây dựng nông thôn mới
16
5. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và tăng cường hợp tác quốc tế
về khoa học – công nghệ
6. Nâng cao kiến thức và đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn, coi đây là mũi đột phá trong giai đoạn tới
7. Tiếp tục đổi mới và phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác;
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn
8. Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản cho nông dân
9. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách của Trung ương, đồng thời rà
soát, xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống chính sách khuyến khích của tỉnh
10. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
11. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể, nhất là Hội Nông dân.
2.2.2. Kế hoạch của UBND tỉnh Hà Tĩnh thực hiện Nghị quyết số 08-
NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Hà Tĩnh giai đoạn 2009 - 2015 và định hướng đến năm 2020. (Ban hành kèm
theo Quyết định số 2165/QĐ-UBND ngày 16 tháng 7 năm 2009 của UBND tỉnh
Hà Tĩnh)
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hà Tĩnh giai đoạn 2009-
2015 và định hướng đến năm 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã xây dựng Kế
hoạch thực hiện với các nội dung chủ yếu như sau:
Mục tiêu: Sớm đưa Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 19 tháng 5 năm 2009 của

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống; Làm cơ sở cho các Sở, ban, ngành, ủy
ban nhân dân các huyện, thành phố, thị xã xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực
hiện ở đơn vị, địa phương mình; Làm căn cứ để tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm
tra, đánh giá kết quả, hiệu quả đạt được.
Yêu cầu: Bám sát nội dung của Nghị quyết số 08-NQ/TU, căn cứ theo điều
kiện thực tế để xây dựng nội dung, các chương trình, đề án, quy hoạch, chính sách cụ
thể, sát thực, có tính khả thi cao, đáp ứng yêu cầu phát triển; có lộ trình bước đi vững
chắc và nguồn lực đảm bảo.
Những nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền nhằm thống nhất về nhận
thức và hành động: Các cơ quan chức năng ở các cấp tổ chức học tập, quán triệt,
tuyên truyền sâu rộng trong toàn xã hội về Nghị quyết số 08-NQ/TU; đặc biệt là vị
trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình
17
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị với sự
tập trung cao nhất.
Thứ hai: Xây dựng các chương trình: Chương trình xây dựng nông thôn
mới; Chương trình xóa đói, giảm nghèo và kiên cố hóa nhà ở cho hộ chính sách,
hộ nghèo; Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương
trình đào tạo nguồn nhân lực nông thôn; Chương trình về thích ứng với sự biến
đổi khí hậu.
Thứ ba: Xây dựng các đề án chuyên ngành: Đề án phát triển ngành trồng trọt;
Đề án phát triển ngành chăn nuôi; Đề án bảo vệ phát triển rừng; Đề án nuôi trồng,
khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Đề án phát triển ngành Muối; Đề án áp dụng
cơ giới hóa trong nông nghiệp; Đề án phát triển ngành nghề nông thôn; Đề án bảo
quản, chế biến sau thu hoạch; Đề án phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông
thôn; Đề án đổi mới loại hình tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp, phát triển nông
thôn; thành lập Ban nông nghiệp xã và thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về xã hội
công tác; Đề án nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao KHCN, khuyến nông - khuyến
ngư phục vụ nông nghiệp, nông thôn.

Thứ tư: Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và xây dựng mới các quy hoạch. Tiến
hành rà soát, điều chỉnh bổ sung các quy hoạch đã có cho phù hợp với tình hình thực
tiễn của tỉnh, các quy hoạch của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; các quy
hoạch của các ngành khác có liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn như
quy hoạch hệ thống giao thông, thủy lợi, điện nông thôn Đồng thời xây dựng các
quy hoạch mới đáp ứng cho nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại, thân
thiện môi trường, đáp ứng được nhu cầu của một xã hội văn minh, giàu mạnh trong
tương lai.
Thứ năm: Xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách. Tập trung chỉ đạo tổ
chức thực hiện, bố trí đủ ngân sách đảm bảo thực hiện có hiệu quả các chính sách đã
ban hành. Đồng thời căn cứ vào yêu cầu thực tiễn về phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn và nguồn lực của tỉnh, đặc biệt là nguồn tài chính để đảm bảo tính
khả thi để xây dựng và ban hành các chính sách mới như: Chính sách hỗ trợ lãi suất
vốn vay; Chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào; Chính sách thu hút và
thành lập mới doanh nghiệp đầu tư phục vụ nông dân, nông nghiệp, nông thôn;
18
Chính sách nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, nhân rộng tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất và đời sống…
(Chi tiết nhiệm vụ của các Sở, ngành, địa phương có Phụ lục kèm theo)
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC
GIA VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1. Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia Nông thôn mới
Quyết định 491/QĐ-TTg được ban hành kèm theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông
thôn mới.
Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kiểm tra, đánh giá công nhận xã,
huyện, tỉnh đạt nông thôn mới.
Bộ tiêu chí gồm 5 nhóm với 19 tiêu chí - là cụ thể hoá các định tính của nông

thôn mới Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020.
+ Nhóm 1: Quy hoạch - 1 tiêu chí
+ Nhóm 2: Hạ tầng kinh tế - xã hội - 8 tiêu chí
+ Nhóm 3: Kinh tế và tổ chức sản xuất - 4 tiêu chí
+ Nhóm 4: Văn hoá – Xã hội – Môi trường - 4 tiêu chí
+ Nhóm 5: Hệ thống chính trị - 2 tiêu chí
Một xã đạt đủ 19 tiêu chí là đạt tiêu chuẩn NTM
- Căn cứ vào Bộ tiêu chí Quốc gia, các Bộ ngành liên quan đều xây dựng quy
chuẩn của ngành, chủ yếu là các tiêu chuẩn kỹ thuật cho các công trình hạ tầng, để
áp dụng khi xây dựng Nông thôn mới.
2. Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”
Thực hiện chủ trương của Đảng và các Nghị quyết của Chính phủ, ngày 4
tháng 6 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg về việc
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020.
1. Mục tiêu chung: Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với
đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
19
tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
2. Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2015 có 20% và đến năm 2020 có 50% số xã đạt
tiêu chuẩn Nông thôn mới (theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới).
3. Thời gian, phạm vi thực hiện chương trình:
- Thời gian thực hiện: từ năm 2010 đến năm 2020.
- Phạm vi: thực hiện trên địa bàn nông thôn của toàn quốc.
4. Nội dung chương trình: Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông

thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an
ninh quốc phòng, gồm 11 nội dung sau:
4.1. Quy hoạch xây dựng nông thôn mới
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 01 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến
năm 2011, cơ bản phủ kín quy hoạch xây dựng nông thôn trên địa bàn cả nước.
Nội dung: Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; Quy hoạch
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường; phát triển các khu dân cư mới và
chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn xã.
Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng và Ủy
ban nhân dân các cấp chủ trì phối hợp thực hiện.
4.2. Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8; 9 trong Bộ tiêu chí quốc gia
nông thôn mới.
Nội dung: Hoàn thiện đường giao thông đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã và
hệ thống giao thông; Hoàn thiện hệ thống các công trình đảm bảo cung cấp điện
phục vụ sinh hoạt và sản xuất; Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu
cầu về hoạt động văn hóa thể thao; Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ
việc chuẩn hóa về y tế; Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn
hóa về giáo dục; Hoàn chỉnh trụ sở xã và các công trình phụ trợ; Cải tạo, xây
mới hệ thống thủy lợi trên địa bàn xã.
Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ, ngành có liên quan như Bộ Giao thông
vận tải, Bộ Công thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Y tế, Bộ Giáo dục,
20
Bộ Nội vụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân các cấp chủ
trì phối hợp, hướng dẫn thực hiện.
4.3. Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 10, 12 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
Đến năm 2015 có 20% số xã đạt, đến 2020 có 50% số xã đạt.

Nội dung: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng
phát triển sản xuất hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao; Tăng cường công tác khuyến
nông; đẩy nhanh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông -
lâm - ngư nghiệp; Cơ giới hóa nông nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp; Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống theo
phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển ngành nghề theo thế mạnh của
địa phương; Đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy đưa công
nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động
nông thôn.
Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ, ngành có liên quan như: Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ủy ban
nhân dân các cấp chủ trì phối hợp, hướng dẫn thực hiện.
4.4. Giảm nghèo và an sinh xã hội
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 11 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới;
Nội dung: Thực hiện có hiệu quả Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững
cho 62 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao (Nghị quyết 30a của Chính phủ) theo Bộ tiêu chí
quốc gia về nông thôn mới; Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia về
giảm nghèo; Thực hiện các chương trình an sinh xã hội.
Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Ủy
ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.
4.5. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở
nông thôn
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 13 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đến
2015 có 65% số xã đạt chuẩnvà đến 2020 có 75% số xã đạt chuẩn.
Nội dung: Phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác xã; Phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở nông thôn; Xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết kinh tế giữa
các loại hình kinh tế ở nông thôn.
21
Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ

đạo thực hiện.
4.6. Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 5 và 14 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
Đến 2015 có 45% số xã đạt chuẩn và đến 2020 có 80% số xã đạt chuẩn.
Nội dung: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới;
Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ủy ban nhân dân các
cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.
4.7. Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 5 và 15 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
Đến 2015 có 50% số xã đạt chuẩn và đến 2020 có 75% số xã đạt chuẩn.
Nội dung: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia trong lĩnh vực về
y tế, đáp ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
Phân công quản lý, thực hiện dự án: Bộ Y tế chủ trì, và Ủy ban nhân dân các
cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.
4.8. Xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông thôn
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 6 và 16 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
Đến 2015 có 30% số xã có nhà văn hóa xã, thôn và 45% số xã có bưu điện và điểm
internet đạt chuẩn. Đến 2020 có 75% số xã có nhà văn hóa xã, thôn và 70% có điểm
bưu điện và điểm internet đạt chuẩn.
Nội dung: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, đáp
ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới; Thực hiện thông tin và truyền
thông nông thôn, đáp ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
Phân công quản lý, thực hiện: Các Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông
tin và Truyền thông và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo
thực hiện.
4.9. Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí 17 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới;
đảm bảo cung cấp đủ nước sinh hoạt sạch và hợp vệ sinh cho dân cư, trường học,
trạm y tế, công sở và các khu dịch vụ công cộng; thực hiện các yêu cầu về bảo vệ và

cải thiện môi trường sinh thái trên địa bàn xã. Đến 2015 có 35% số xã đạt chuẩn và
đến 2020 có 80% số xã đạt chuẩn;
22
Nội dung: Tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và
vệ sinh môi trường nông thôn; Xây dựng các công trình bảo vệ môi trường nông
thôn trên địa bàn xã, thôn theo quy hoạch, gồm: xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống
tiêu thoát nước trong thôn, xóm; xây dựng các điểm thu gom, xử lý rác thải ở các xã;
chỉnh trang, cải tạo nghĩa trang; cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân
cư, phát triển cây xanh ở các công trình công cộng. v.v.
Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy
ban nhân dân các cấp chủ trì, hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.
4.10. Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị -
xã hội trên địa bàn
Mục tiêu: đạt yêu cầu tiêu chí số 18 trong Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
Đến 2015 có 85% số xã đạt chuẩn và năm 2020 là 95% số xã đạt chuẩn.
Nội dung: Tổ chức đào tạo cán bộ đạt chuẩn theo quy định của Bộ Nội vụ, đáp
ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới; Ban hành chính sách khuyến khích, thu hút
cán bộ trẻ đã được đào tạo, đủ tiêu chuẩn về công tác ở các xã, đặc biệt là các vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để nhanh chóng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ ở
các vùng này; Bổ sung chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng nông thôn mới.
Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Nội vụ và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì,
hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.
4.11. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn
Mục tiêu: Đạt yêu cầu tiêu chí số 19 của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới.
Đến 2015 có 85% số xã đạt chuẩn và năm 2020 là 95% số xã đạt chuẩn;
Nội dung: Ban hành nội quy, quy ước làng xóm về trật tự, an ninh; phòng,
chống các tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu; Điều chỉnh và bổ sung chức năng,
nhiệm vụ và chính sách tạo điều kiện cho lượng lực lượng an ninh xã, thôn, xóm
hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn theo yêu cầu xây

dựng nông thôn mới.
Phân công quản lý, thực hiện: Bộ Công an và Ủy ban nhân dân các cấp chủ trì,
hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực hiện.
5. Vốn và nguồn vốn thực hiện chương trình
Vốn ngân sách (Trung ương và địa phương), bao gồm: Vốn từ các chương trình
mục tiêu quốc gia và chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu đang triển khai và sẽ
tiếp tục triển khai trong những năm tiếp theo trên địa bàn: khoảng 23%; Vốn trực
23
tiếp cho chương trình để thực hiện các nội dung theo quy định tại điểm 3 mục VI của
Quyết định này: khoảng 17%;
Vốn tín dụng (bao gồm tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng thương mại):
khoảng 30%;
Vốn từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác: khoảng 20%;
Huy động đóng góp của cộng đồng dân cư: khoảng 10%.
6. Các giải pháp chủ yếu để thực hiện chương
Thứ nhất: Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng về xây dựng nông thôn
mới. Tổ chức phát động, tuyên truyền, phổ biến, vận động từ trung ương đến cơ sở,
để mọi tầng lớp nhân dân hiểu và cả hệ thống chính trị tham gia; Phát động phong
trào thi đua xây dựng nông thôn mới trong toàn quốc.
Thứ hai: Cơ chế huy động vốn: Thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn huy
động để triển khai thực hiện chương trình này.
Thứ ba: Nguyên tắc cơ chế hỗ trợ
Theo Quyết định số 800/QĐ-TTg: Hỗ trợ 100% từ ngân sách trung ương cho:
công tác quy hoạch; đường giao thông đến trung tâm xã; xây dựng trụ sở xã; xây
dựng trường học đạt chuẩn; xây dựng trạm y tế xã; xây dựng nhà văn hóa xã; kinh
phí cho công tác đào tạo kiến thức về xây dựng nông thôn mới cho cán bộ xã, cán bộ
thôn bản, cán bộ hợp tác xã;
Hỗ trợ một phần từ ngân sách trung ương cho xây dựng công trình cấp nước
sinh hoạt, thoát nước thải khu dân cư; đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội
đồng và kênh mương nội đồng; phát triển sản xuất và dịch vụ; nhà văn hóa thôn,

bản; công trình thể thao thôn, bản; hạ tầng các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công
nghiệp, thủy sản;
Mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương căn cứ điều kiện kinh tế xã hội để bố trí
phù hợp, ưu tiên hỗ trợ cho các địa phương khó khăn chưa tự cân đối ngân sách, địa
bàn đặc biệt khó khăn và những địa phương làm tốt.
Tuy nhiên, hiện nay các công trình được hỗ trợ 100% vốn ngân sách Trung
ương đã được thay đổi theo Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 8/6/2012 của Thủ
tướng Chính phủ. Theo đó:
a) Đối với tất cả các xã, hỗ trợ 100% từ ngân sách nhà nước cho: Công tác quy
hoạch; xây dựng trụ sở xã; kinh phí cho công tác đào tạo kiến thức về xây dựng nông
thôn mới cho cán bộ xã, cán bộ thôn bản, cán bộ hợp tác xã.
24
b) Đối với các xã thuộc các huyện nghèo thuộc Chương trình hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12
năm 2008 của Chính phủ, hỗ trợ tối đa 100% từ ngân sách nhà nước cho: Xây dựng
đường giao thông đến trung tâm xã, đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội
đồng và kênh mương nội đồng; xây dựng trường học đạt chuẩn; xây dựng trạm y tế
xã; xây dựng nhà văn hóa xã, thôn, bản; công trình thể thao thôn, bản; xây dựng
công trình cấp nước sinh hoạt, thoát nước thải khu dân cư; phát triển sản xuất và dịch
vụ; hạ tầng các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản.
Đối với các xã còn lại, hỗ trợ một phần từ ngân sách nhà nước cho: Xây dựng
đường giao thông đến trung tâm xã, đường giao thông thôn, xóm; giao thông nội
đồng và kênh mương nội đồng; xây dựng trường học đạt chuẩn; xây dựng trạm y tế
xã; xây dựng nhà văn hóa xã, thôn, bản; công trình thể thao thôn, bản; xây dựng
công trình cấp nước sinh hoạt, thoát nước thải khu dân cư; phát triển sản xuất và dịch
vụ; hạ tầng các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản.
Giao Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước
cho từng nội dung, công việc cụ thể, bảo đảm phù hợp với thực tế và yêu cầu hỗ trợ
của từng địa phương.
c) Mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho các địa phương căn cứ điều kiện

kinh tế - xã hội để bố trí phù hợp với quy định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ưu tiên hỗ trợ
cho các địa phương khó khăn chưa tự cân đối ngân sách, địa bàn đặc biệt khó khăn
và những địa phương làm tốt.
d) Chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) không quy định bắt buộc nhân dân
đóng góp, chỉ vận động bằng các hình thức thích hợp để nhân dân tự nguyện đóng
góp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương. Nhân dân trong xã bàn
bạc mức tự nguyện đóng góp cụ thể cho từng dự án, đề nghị Hội đồng nhân dân xã
thông qua.
Hộ nghèo tham gia trực tiếp lao động để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
của địa phương được chính quyền địa phương xem xét, trả thù lao theo mức phù hợp
với mức tiền lương chung của thị trường lao động tại địa phương và khả năng cân
đối ngân sách địa phương. Ủy ban nhân dân địa phương xem xét, quyết định mức
thù lao cụ thể sau khi trình Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn các sở, ban, ngành,
huyện, xã triển khai thực hiện.
25

×