Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.27 MB, 35 trang )

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Cơ sở lý luận của việc chọn đề tài
Trong khoảng một thập niên trở lại đây, việc thay đổi sách giáo khoa và đổi
mới phương pháp dạy học Ngữ văn đã tiến hành rộng khắp cả nước. Vai trò và mối
quan hệ giữa người dạy và người học đã khác trước. Sự chủ động tích cực của học
sinh trong giờ học được đề cao. Các phương tiện dạy học phong phú hơn. Đội ngũ
thầy, cô giáo trực tiếp đứng lớp được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, về
đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm mục đích nâng
cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở trường phổ thông
Song trên thực tế lại cho thấy, tình trạng học sinh lười học, ngại học, chán
học môn Ngữ văn ngày càng nhiều và nó đang là thực trạng được “ rung chuông”
nhiều năm nay. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2010 – 2011,
2011 – 2012 có chưa đầy 2% học sinh chọn ban Khoa học xã hội hoặc nâng cao
văn, sử, địa. Số lượng học sinh đăng ký thi môn văn thấp kỷ lục,chưa đầy 5% tổng
số thí sinh thi đại học, nhiều ngành nghề chỉ có vài chục bộ hồ sơ. Trong đó kết quả
điểm Đại học, cao đẳng của bộ môn này là rất thấp, hàng ngàn bài bị điểm 1,2 Và
gần đây cuộc khảo sát của Tiến sĩ Nguyễn Văn Kha – nguyên giảng viên trường
Đại học Đà Lạt về hứng thú của học sinh đối với giờ học văn cho kết quả chỉ có 50
phiếu/ 800 phiếu của học sinh có hứng thú với giờ học văn, còn lại 750 phiếu học
sinh trả lời chán học, không có hứng thú với giờ học này. Theo PGS, Tiến sĩ Đỗ
Ngọc Thống: môn Ngữ văn đang bị tuyệt đại đa số học sinh phổ thông chối bỏ.
Và liệu tình trạng học sinh chán học môn Ngữ văn như vậy có mối liên quan đến
tình trạng xuống cấp trầm trọng của tính nhân văn trong một bộ phận không nhỏ
học sinh hiện nay hay không? Khi mà năm 2012 toàn quốc xảy ra 1.600 vụ việc
học sinh đánh nhau, cứ khoảng 5.200 học sinh thì có một vụ đánh nhau và nhiều
học sinh xem thường đạo lý, dẫm đạp lên truyền thống tốt đẹp… đang là một vấn
đề gây nên nỗi bức xúc trong đời sống xã hội và trong nhà trường Vấn đề này
được Giáo sư Phan Trọng Luận đề cập trong một bài viết có tên là “ Nỗi lo giá lạnh
tâm hồn” ( Phan Trọng Luận – Xã hội – Văn học – Nhà trường, NXb ĐHQG Hà
Nội 2012)


Như vậy, rất nhiều học sinh thờ ơ với môn Văn, rất nhiều học sinh yếu kém
năng lực cảm thụ văn học. Việc học sinh coi nhẹ, thơ ơ với môn Ngữ văn là coi nhệ
việc giáo dục tính nhân văn, lòng nhân ái, coi nhẹ Tiếng Mẹ đẻ và truyền thống của
dân tộc cũng như coi nhẹ giáo dục nhân cách và nuôi dưỡng tâm hồn con người.
Nên đổi mới phương pháp dạy học văn là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách
trong tình hình hiện nay vì nó góp phần quyết định đến chất lượng đào tạo, vì dạy
văn là dạy làm Người và theo Giáo sư Trần Đình Sử: “ Khởi điểm của môn Ngữ
văn là dạy học đọc hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn. Nếu học sinh không
trực tiếp đọc được các văn bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu
cầu, mọi mục tiêu cao đẹp của môn văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
11
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
gì tới tình yêu văn học”. Do đó, có thể nói rèn luyện năng lực, kỹ năng đọc – hiểu
văn bản cho học sinh là một trong những yêu cầu quan trọng khoa học và đúng đắn
để các em tiếp cận môn Ngữ văn, đánh thức tình yêu với môn văn và có khả năng
vận dụng sáng tạo kiến thức đã học ở môn Ngữ văn vào cuộc sống, góp phần đạo
tạo con người vừa có tri thức, vừa có nhân cách.
2. Cơ sở thực tiễn của việc chọn đề tài
Trường THPT Xuân Khanh được thành lập từ năm 1987, nằm giáp ranh với
huyện Ba Vì – là một ngôi trường khó khăn nhất của Thị Xã Sơn Tây. Tuy là
trường thuộc địa bàn thị xã nhưng phần lớn học sinh của nhà trường lại là con em
nông dân thuộc các vùng lân cận như Phúc Thọ, Ba Vì, Thạch Thất Chất lượng
đầu vào của học sinh nhà trường thấp nhất khu vực, thậm chí điểm xét tuyển
nguyện vọng 1,2,3 còn thấp hơn điểm xét tuyển vào các trung tâm GDTX trên địa
bàn Thị Xã Sơn Tây. Đặc biệt đối với môn Ngữ văn, chưa năm nào nhà trường lại
tuyển dược một học sinh có điểm thi là 8, hầu hết là từ 1 đến 3 điểm Tư duy trìu
tượng của các em hạn chế, thường bị động và hiểu vấn đề rất sơ sài, đặc biệt việc
vận dụng các phương pháp đọc – hiểu tác phẩm văn học bộc lộ nhiều yếu kém, vô
cùng lúng túng. Do đó, học sinh có học lực khá bộ môn Ngữ văn chỉ đạt từ 15%

đến 20% còn lại là học sinh trung bình và yếu. Bởi vậy, giờ đọc – hiểu văn bản của
môn Ngữ văn gặp rất nhiều khó khăn. Tiết học văn buồn tẻ, nhàm chán vì học sinh
lười đọc, tư duy lại chậm, khả năng lĩnh hội kiến thức môn văn bị động Tình trạng
học sinh đọc sai, đọc không đứng ngữ liệu, đọc thêm hoặc bớt từ, thiếu năng lực
cảm thụ, không rung động trước các hình tượng văn học khá phổ biến.
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THPT tôi nhận
thấy: Nếu mỗi giáo viên chúng ta chủ động đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, phù hợp với từng đối tượng học sinh thì kết quả của giờ đọc – hiểu
bộ môn Ngữ văn sẽ được nâng lên rõ rệt, học sinh sẽ có hứng thú hơn với giờ Ngữ
văn. Đó cũng chính là lý do để tôi thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “ Một số
giải pháp nâng cao hiệu quả kỹ năng đọc - hiểu văn bản văn học cho học sinh
THPT”
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu thực trạng của việc đọc – hiểu
văn bản văn học ở trường THPT hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao
kỹ năng đọc hiểu - văn bản văn học cho học sinh THPT, góp phần nâng cao chất
lượng của môn Ngữ văn, đẩy lùi tình trạng lười học, chán học, thờ ơ với môn Ngữ
văn của học sinh . Để môn Ngữ văn ở trường THPT thực sự bắt kịp với sự phát
triển của thời đại, bắt nhịp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Đào tạo thể hệ trẻ vừa có tri thức, vừa là những con người biết yêu thương, chia sẻ,
sống có trách nhiệm, có lý tưởng cao đẹp, có hoài bão và ước mơ.
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
22
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
4. Đối tượng, phạm vi, thời gian nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đọc – hiểu tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn ở THPT.
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kỹ năng đọc– hiểu văn bản văn học cho
học sinh THPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Dạy và học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay.
4.3. Thời gian nghiên cứu
- Năm học 2013 - 2014
5. Phương pháp, kế hoạch nghiên cứu và phạm vi áp dụng
5.1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra quan sát
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp phân tích tâm lý học sinh
- Phương pháp thực nghiệm bằng bài giảng
- Phương pháp đối chiếu so sánh
5.2 Kế hoạch nghiên cứu
- Nghiên cứu các tài liệu
- Điều tra nghiên cứu khảo sát chất lượng học sinh
- Tìm hiểu tâm lý học sinh và hoàn cảnh của học sinh
- Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả kỹ năng đọc - hiểu văn bản
văn học cho học sinh THPT
5.3.Phạm vi áp dụng
- Đề tài này có thể áp dụng ở các trường THPT khi dạy đọc - hiểu văn bản
văn học cho hoc sinh.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Tổng quan về đọc – hiểu văn bản văn học
a. Khái niệm đọc – hiểu văn bản văn học
Đọc văn bản văn học không chỉ đọc bằng kỹ thuật mà còn phải đọc bằng
hồn, đọc bằng khế ước văn hóa, bằng sự trải nghiệm không ngừng. Đọc văn chính
là đọc người, đọc nhân cách của nhà văn và để hoàn thiện nhân cách của mình. Và
do đó, mỗi chi tiết, mỗi hình ảnh trong tác phẩm cũng là một gợi ý cho nội dung
tưởng tượng, so sánh để người đọc tri âm. Đọc văn để thấy người, thấy thời đại,
thấy những bài học làm người
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
33

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
b. Tầm quan trọng của việc dạy kỹ năng đọc - hiểu văn bản văn học
Hiện nay, môn Ngữ văn trong ở trường THPT được coi là môn đọc văn. Nói
cách khác, đọc - hiểu trở thành một khái niệm cơ bản của môn Ngữ văn THPT,
được nhấn mạnh như là “ một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy
học văn hiện nay. Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học
sinh có thể đọc - hiểu bất cứ một văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực
tiếp tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc
được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính.
Năng lực đọc - hiểu có ý nghĩa thiết thực và tầm quan trọng lớn với sự
trưởng thành của con người. Nó không chỉ là một yêu cầu trong suốt thời kỳ trẻ thơ
ở trưởng phổ thông mà nó còn trở thành nhân tố quan trọng trong việc xây dựng,
mở rộng kiến thức, kỹ năng và chiến lược của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời của
họ khi họ tham gia vào các hoạt động ở những tình huống khác nhau, trong mối
quan hệ với người xung quanh, cũng như trong cả cộng đồng rộng lớn.
c. Nội dung đọc - hiểu văn bản văn học
Nội dung đọc hiểu là nội dung văn bản hay đó còn gọi là vấn đề mà nhà văn
gửi gắm trong tác phẩm. Văn bản văn học là một sinh thể nghệ thuật, là sản phẩm
tinh thần của nhà văn. Theo quan điểm của Giáo sư Nguyễn Thanh Hùng “ Đọc
hiểu là làm rõ mối quan hệ giữa ba tầng cấu trúc: cấu trúc ngôn ngữ cấu trúc hình
tượng thẩm mĩ, cấu trúc tư tưởng thẩm mĩ”
d. Nguyên tắc đọc - hiểu văn bản văn học
Muốn hoạt động đọc đạt được đến mục đích hiểu tác phẩm thì người đọc
phải chú ý nhập tâm vào việc đọc. Muốn nhập tâm vào việc đọc thì người đọc phải
có hứng thú và có một trạng thái tâm lý thoải mái, không bị gò ép. Chỉ khi tự giác
đến với văn bản văn học bằng một niềm thích thú tìm tòi thì viêc đọc mới hiệu quả.
e. Một số hình thức đọc cơ bản cho học sinh THPT
* Hình thức đọc thầm và đọc thành tiếng
Đọc thành tiếng là hình thức tiếp nhận thông tin bằng chữ viết sơ khởi của
loài người. Đó là hoạt động tái tạo văn bản từ dạng thức chữ viết hoàn trả về lời nói

có âm thanh sống động nguyên thuỷ của nó, trong đó diễn ra sự phối hợp của các
cơ quan thị giác, cơ quan phát âm, cơ quan thính giác gắn bó với quá trình nắm
vững ý nghĩa qua những gì đọc được. Trong giờ học tác phẩm văn chương, cần chú
ý vận dụng hợp lý hình thức đọc và nghe đọc để làm sống dậy phần bản chất âm
thanh của ngôn ngữ, đọc để giáo viên và cả lớp cùng nghe, nhận xét, đánh giá, rút
kinh nghiệm và nhất là để bản thân rèn luyện khả năng cảm thụ ngôn từ nghệ thuật.
Đọc rồi lắng nghe để điều chỉnh giọng đọc cho phù hợp với giọng điệu, linh hồn
của tác phẩm văn chương. Trong quá trình cố gắng đọc để làm cho nó âm vang lên
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
44
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
như vậy, chắc chắn người đọc có thể tự chiêm nghiệm và cảm nhận phong phú hơn
những sắc màu ngôn ngữ và ý nghĩa của nó.
Trong tương quan với đọc thành tiếng, đọc thầm là hình thức đọc đòi hỏi sự
phát triển nhất định về thể chất, tâm lý, trí tuệ của người đọc. Sự tiếp nhận thông tin
ở đây đã bị tước bớt đi phần âm vang từ vỏ âm thanh của ngôn từ, có nghĩa là
người đọc phải trực tiếp chuyển từ ký hiệu chữ viết sang các đơn vị nghĩa không có
âm thanh. Nói đúng hơn, âm thanh ấy vang lên âm thầm trong thẳm sâu tâm linh
của người tiếp nhận quyện hoà với dòng vận động lặng lẽ của cảm xúc, trí tuệ
nhằm khám phá mối liên hệ nội tại bên trong của dòng ký hiệu nghệ thuật, đi đến
nắm bắt nội dung sự kiện cũng như nội dung hình tượng, nội dung quan niệm hiện
hữu mơ hồ đâu đó trong những "khoảng cách giữa dòng" của tác phẩm văn chương.
Có thể nói, đọc thầm không chỉ đem đến một cách đọc với tốc độ ghi nhận thông
tin nhanh hơn đọc thành tiếng mà điều quan trọng là, đó thực sự là hoạt động đọc
cho riêng mình, khi mà sự cảm thụ của cá nhân người đọc cùng với khả năng tưởng
tượng, mở rộng liên tưởng được hoàn toàn lặn sâu vào tâm linh, cất lên những tiếng
nói riêng tư, sâu thẳm, chân thật nhất. Bởi đọc văn nói chung là tự lực, đọc thầm và
đọc cho mình. Đó là quá trình tri âm, chiêm nghiệm đi đôi với tri giác ngôn ngữ và
phản tỉnh. Ở đó mới có thể diễn ra cuộc giao tiếp lặng im giữa nhà văn và người
đọc thông qua môi trường văn hoá - thẩm mỹ trong tác phẩm.

* Hình thức đọc ở nhà và đọc trên lớp
Theo phạm vi và giới hạn vận dụng các hình thức đọc, có thể phối hợp đọc
chuẩn bị ở nhà và đọc trên lớp với những nhiệm vụ đọc tương ứng phát huy lợi thế
của hình thức đọc ấy. Nên bằng những định hướng hấp dẫn và vừa sức để khuyến
khích, tạo điều kiện cho học sinh tiến hành hoạt động đọc ở nhà để làm quen với
tác phẩm bằng hứng thú tự nhiên. Có thể nói, hình thức đọc này là bước khởi đầu
cực kỳ quan trọng mà lâu nay hoàn toàn không được quan tâm đúng mức. Nếu
được tổ chức tốt, đây sẽ là cách đọc hoàn toàn cho riêng mình, ở đó việc đọc văn
mới thực sự âm vang và mới có khả năng làm sống dậy những cảm thức, rung động
riêng tư, khơi gợi nhiều chiều liên tưởng, tưởng tượng, đưa người đọc lặn sâu vào
tâm linh và đôi khi có thể chạm đến những khía cạnh riêng tư sâu thẳm nhất.
* Hình thức đọc nhanh và đọc chậm
Đây là hai hình thức thể hiện kỹ năng đọc ở trình độ phát triển trí tuệ tương
đối cao. Đọc nhanh là kỹ năng chuyển đổi chính xác và ngày càng nhanh các ký
hiệu ngôn ngữ thành ký hiệu âm thanh (đối với đọc thành tiếng) hoặc siêu âm thanh
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
55
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
(đối với đọc thầm) và thông hiểu ý nghĩa của nó, với điều kiện là người đọc không
có quyền tiến hành những bước "nhảy cóc" qua từ, câu, đoạn văn bản. Phẩm chất
của đọc nhanh được tính bằng khả năng ghi nhận thông tin với tốc độ cao và bền
lâu để có thể giảm thiểu những bước hồi quy trở lại ghi nhận những điều đã đọc mà
chưa nắm vững. Do đó, đọc nhanh thể hiện khả năng đọc hiểu ở trình độ đọc văn
rất cao. Một mặt, nó đòi hỏi khả năng tập trung trí tuệ cao độ. Nhưng mặt khác, khả
năng này phụ thuộc chủ yếu ở bề rộng và độ sâu của tri thức hiểu của người đọc để
ngay từ những lần tiếp xúc đầu tiên đã có thể giải mã ngôn ngữ, mã nghệ thuật, mã
văn hóa, mã phối hợp tinh tế nghĩa và ý để các lớp thông tin thẩm mỹ sâu xa của
văn bản lớn dần song song cùng với quá trình đọc và tái tạo thế giới ngôn từ của tác
phẩm.
* Hình thức đọc lướt và đọc kỹ theo những yêu cầu nhất định

Hình thức đọc lướt nhìn chung là cần thiết trong bước giao tiếp đầu tiên với
thế giới nghệ thuật trong tác phẩm để có được những ấn tượng chung nhất, những
hình dung sơ bộ, tổng thể về bức tranh đời sống (với tác phẩm tự sự) hay thế giới
cảm xúc tâm tình (với tác phẩm trữ tình). Hình thức này rất có ý nghĩa đối với
những tác phẩm có dung lượng vừa và lớn, vừa tiết kiệm thời gian, vừa phù hợp
với logic cảm thụ và nhận thức, đi từ cái sơ bộ, đơn giản, mang tính cảm tính như
nắm bắt tên tác phẩm, tình tiết, cốt truyện, nhân vật hay một điểm gì đó nổi bật để
rồi trên cơ sở đó chuyển sang những bước phân tích sâu hơn, có căn cứ lý giải rõ
ràng, hợp lý. Khi đó, mắt ta lướt xem qua các dòng, các con chữ, có thể nhảy cóc
để nắm bắt lấy những thông tin trọng điểm nhất theo nhiệm vụ đọc do giáo viên đặt
ra, đó là những từ chìa khoá, những câu chốt, những chi tiết nghệ thuật cụ thể…
Vận dụng hình thức đọc lướt phải kết hợp với nhiệm vụ học tập cụ thể đề ra cho
học sinh, như trình bày ấn tượng chung hoặc về một yếu tố nào đó như tiêu đề, thi
đề, nhân vật, cốt truyện … để kích thích cảm thụ, hứng thú nhận thức riêng ở người
học. Sau đó tiến hành đọc kỹ với những hình thức khác nhau giúp học sinh từng bước
nhập sâu vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm:
Hình thức đọc chéo, lướt theo những vấn đề người học cần tìm trong tác
phẩm tiết kiệm được thời gian, nhưng đòi hỏi người đọc phải có một trình độ đọc
cũng như vốn tri thức nền về tác giả, tác phẩm. Ví dụ, đọc chéo các trang văn để
kiếm tìm đặc điểm không gian và thời gian nghệ thuật bao trùm trong Hai đứa trẻ,
từ đó khám phá vẻ đẹp riêng của thế giới nghệ thuật trong văn Thạch Lam cũng
như tư duy nghệ thuật của tác giả; đọc chéo Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
66
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
từ đó khái quát lên tư duy văn hoá, góc nhìn văn hoá, những lập luận nghệ thuật
mang tính văn hoá của nhà thơ thể hiện một cách cảm nhận mới mẻ, đầy sáng tạo
trong dòng cảm hứng phong phú, sôi nổi về Tổ quốc anh hùng khi đó.… Lối đọc
này tưởng như ngắn gọn, đơn giản mà thực chất lại đòi hỏi một trình độ và kỹ năng
đọc nhất định. Nó không phải là cách đọc lướt xem, nhảy cóc ở trên mà là sự huy

động cao độ khả năng tư duy trí tuệ, chuyển đổi nhanh và chính xác các kí hiệu văn
tự thành các đơn vị nghĩa, thông hiểu nó và nhanh chóng nắm bắt những yếu tố then
chốt nhất trong vấn đề nhiệm vụ học tập nêu ra.
* Hình thức đọc tóm tắt: Có thể áp dụng cho những tác phẩm có dung lượng
lớn và đối với những phần không phải trung tâm mang nghĩa để tiết kiệm thời gian
cho hoạt động phân tích, khám phá đồng thời có thể tập trung năng lượng cảm thụ
của bạn đọc học sinh. Ví dụ, có thể đọc tóm tắt một số phần trong Rừng xà nu,
Những đứa con trong gia đình…
Nhìn chung, đọc theo những yêu cầu cụ thể như vậy rèn luyện cho học sinh kỹ
năng tư duy định hướng để nắm bắt sâu ngôn từ trong văn bản, chọn lựa nghệ thuật,
cảm thụ và phân tích tập trung theo những nhiệm vụ học tập nhất định, vừa chính
xác, khoa học vừa tôn trọng bản chất thẩm mỹ của tác phẩm văn chương.
BẢNG BIỂU THỐNG KÊ CÁC HÌNH THỨC ĐỌC CHO HỌC SINH THPT
St
t
Các hình thức đọc Tác dụng
1 Đọc thầm Lĩnh hội thông tin, bỏ qua phần phát âm
2 Đọc thành tiếng Truyền tải thông tin, rèn phát âm
3 Đọc lướt Tìm thông tin cụ thể, cần thiết trong thời gian
nhất định
4 Đọc chậm, đọc kỹ Nghiền ngẫm, suy nghĩ
5 Đọc tóm tắt Ghi nhớ nội dung, làm tài liệu, phù hợp với
tác phẩm dài
6 Đọc ở nhà Làm quen với tác phẩm bằng hứng thú tự
nhiên.
7 Đọc trên lớp Sống dậy cảm xúc, rèn luyện tính tự tin.
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
77
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
2. Thực trạng khảo sát của giờ đọc- hiểu văn bản văn học ở trường THPT

Thời gian qua, do mục đích, động cơ học tập chính của học sinh là học để
vượt qua các kì thi, chương trình đọc - hiểu môn Ngữ văn THPT vẫn “nặng” về
trang bị kiến thức hơn là yêu cầu rèn kỹ năng, năng lực nhất là tư duy sáng tạo, tự
học, tự nghiên cứu, năng lực thực hành và giải quyết vấn đề cuộc sống. Trong
“Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng” môn Ngữ văn lớp 10, 11, 12, ở
phần "Hướng dẫn thực hiện", đối với các văn bản nghệ thuật, văn bản nhật dụng có
hai phần:
Phần I: Tìm hiểu chung: (Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm. Đối với tìm hiểu tác phẩm,
có thể chia ra các yêu cầu nhỏ: hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, thể loại, vị trí đoạn
trích, bố cục….)
Phần II: Đọc - hiểu văn bản: Ở phần Đọc - hiểu văn bản, “Hướng dẫn thực hiện
chuẩn kiến thức, kỹ năng” hướng vào các yêu cầu cần đạt sau:
- Nội dung;
- Nghệ thuật;
- Ý nghĩa văn bản;
Sách “hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng” chỉ là định hướng để
giáo viên giảng dạy. Nhưng các đề thi và đáp án môn Ngữ văn thời gian qua
thường chú trọng các yêu cầu về nội dung, nghệ thuật của văn bản nên để đáp ứng
các yêu cầu của đề thi, giáo viên cũng tập trung cung cấp kiến thức cho học sinh.
Năng lực “hiểu văn bản” của học sinh thường phụ thuộc rất nhiều vào kiến
thức của giáo viên giảng dạy. Hầu hết giáo viên tập trung hướng đến cung cấp kiến
thức cho các em học sinh. Do đó, năng lực đọc - hiểu văn bản của các em chưa
được phát huy tối đa.
Trường THPT Xuân Khanh - một ngôi trường tuổi đời còn rất trẻ, lại nằm
giáp ranh với huyện Ba Vì, chất lượng đầu vào của học sinh thấp nhất khu vực, học
sinh đa số là con em nông dân, kinh tế gia đình khó khăn. Ngoài việc đi học các em
còn phải phụ giúp bố mẹ làm công việc đồng ruộng Thời gian tự học ít, nề nếp
học chưa thường xuyên, điều kiện học tập thiếu thốn. Thậm chí, có em hiện nay
vẫn chưa có đủ các loại sách giáo khoa để học Bố mẹ các em hầu như giao phó
toàn bộ chuyện học hành của các em cho thầy cô. Đến lớp, ý thức chủ động trong

học tập của các em còn nhiều hạn chế. Nhiều em không đọc tác phẩm, không nghi
chép bài, không có kỹ năng đọc - hiểu văn bản. Tình trạng không đọc, đọc sai,
không hiểu, hiểu sai tác phẩm văn học khá phổ biến trong học sinh hiện nay.
Từ những vấn đề nêu trên nên đa số giờ đọc - hiểu văn bản văn học diễn ra
rất buồn tẻ, đơn điệu, hiệu quả và chất lượng dạy và học chưa cao. Nhiều học sinh
chán môn văn, sợ môn văn, không có hứng thú với môn học này.
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
88
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
Năm học 2013 - 2014, tôi được phân công dạy môn Ngữ văn lớp 10A1 và
10A2. Sau đây là kết quả khảo sát về mức độ đọc - hiểu văn bản văn học khi chưa
áp dụng SKKN vào giảng dạy:
Năm
học
Lớp

số
Điểm kiểm tra khả năng đọc- hiểu văn bản
Đạt
yêu
cầu
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
2013-
2014
10A1 44 0 3 6
1
7
10 7 1 0 0 0 0 8/44
10A2 46 0 0 6
1

3
13 10 4 0 0 0 0 14/46
Cộn
g
9
0
0 3
1
2
3
0
23 17 5 0 0 0 0 22/90
Như vậy, số học sinh yếu kém về kiến thức và kỹ năng đọc - hiểu văn bản là
quá cao(chiếm 76%). Kết quả này khiến tôi trăn trở rất nhiều. Phải làm sao để nâng
cao kỹ năng đọc - hiểu văn bản văn học cho các em, từ đó các em thấy được ý
nghĩa của môn học này đối với chính cuộc sống của các em, hình thành tình yêu đối
với văn học, nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn ? Để giải đáp cho những
câu hỏi đó, tôi đã đi tìm hiểu một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Sau đây
là một số nguyên nhân cơ bản.
3. Nguyên nhân
Nguyên nhân thứ nhất: Do một thời gian dài ở nước ta gọi môn Văn là môn
“Giảng văn”, sách dạy văn gọi là “ Văn học trích giảng”. Trong cách hiểu như vậy,
giảng văn chủ yếu là công việc của thầy, người học hoàn toàn bị động trong giờ
văn. Trong khi đó, giờ học văn phải là giờ hoạt động của trò dưới sự dẫn dắt của
thầy trên cơ sở sách giáo khoa, đồ dùng dạy học. Vậy là bao nhiêu năm nay, cả thầy
và trò đã quen với phương pháp dạy học đó, quen với việc thầy cô là người thưởng
thức văn chương hộ rồi giảng lại cho học sinh, học sinh chỉ cần ghi lại là đủ mà
không cần phải đọc tác phẩm, không phải tư duy suy nghĩ, không phải tưởng
tượng…Từ phương pháp học đó, học sinh lười với hoạt động đọc và tự tìm tòi, suy
nghĩ, khiến cho năng lực đọc hiểu của các em ngày càng hạn chế, yếu kém, nhiều

em thậm chí lên lớp 10 mà còn đọc không thông, viết không thạo, không hiểu
những gì câu chữ nói, không liên tưởng được
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
99
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
Sách giáo khoa xưa
(Một thời sách giáo khoa môn văn được gọi là Giảng văn)


Sách giáo khoa hiện nay
Nguyên nhân thứ hai: Thời đại chúng ta đang sống là thời đại của khoa học
công nghệ. Do ảnh hưởng của Internet, điện thoại di động. Ngày nay, đông đảo học
sinh sử dụng Internet và điện thoại di động, ngoài số ít biết khai thác, tận dụng
những lợi ích hữu dụng của nó vào trong học tập thì phần lớn các em sử dụng
Internet, điện thoại di động vào để chơi game và chát với bạn bè. Khi các em chát
hoặc nhắn tin cho bạn, thì hầu hết các em sử dụng tiếng Việt không dấu và dùng
cách diễn đạt rất ngắn gọn, từ ngữ chỉ quen dùng với giới trẻ. Ngôn ngữ sẽ phản
ánh tư duy của con người. Việc thường xuyên sử dụng ngôn ngữ “cụt ngủn” như
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
1010
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
vậy sẽ không những không gìn giữ được sự trong sáng cho tiếng Việt mà còn gây
khó khăn cho việc rèn luyện tư duy sâu sắc. Do ảnh hưởng của phim ảnh: Ngày
nay, phim ảnh phát triển nhanh đến chóng mặt. Nhiều bộ phim hấp dẫn khiến học
sinh mê mẩn. Việc xem phim nhiều khiến các em lười đọc sách. Lười đọc sách báo
sẽ làm vốn từ bị nghèo nàn, khả năng đọc - hiểu càng ngày càng bị hạn chế.
Thời đại của công nghệ thông tin đã làm cho văn hóa đọc bị học sinh coi là
lạc hậu. Thời đại kinh tế thị trường đã khiến các em chỉ muốn học các ngành khoa
học tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế… mà lại ít có hứng thú học môn Ngữ văn. Có thể
yếu tố tâm lí, yếu tố xã hội làm cho đại đa số học sinh không còn mặn mà với môn

học này nữa, không có ý thức, không tự giác đọc - hiểu tác phẩm văn học, khiến
cho năng lực đọc - hiểu của các em ngày càng bị hạn chế, yếu kém.
Nguyên nhân thứ ba:
Do bản thân các bậc phụ huynh không chú ý mua sách cho các em, không tạo
một không gian văn hóa đọc trong gia đình. Thay vào đó là những chiếc máy tính,
những điện thoại đắt tiền…Chính vì vậy mà các em không có niềm đam mê đọc
sách, tự tìm hiểu kiến thức qua sách, đặc biệt là sách văn học. Điều này đã làm ảnh
hưởng không nhỏ đến kỹ năng đọc - hiểu của các em sau này, nhất là trong giờ học
Ngữ văn.
Do bản thân học sinh lười học, thiếu ý thức rèn luyện hoặc do học sinh phải
học quá nhiều, thời gian học chiếm hết thời gian trong ngày của các em. Vì vậy,
các em không còn thời gian đọc sách, càng không còn thời gian để tìm tòi, suy nghĩ
… Từ đó việc soạn bài, việc mượn vở để ghi chép… là hiện tượng khá phổ biến
trong học sinh hiện nay…
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng kỹ năng đọc - hiểu văn bản của
học sinh còn yếu, khiến cho giờ dạy học văn buồn tẻ, nhàm chán, khiến cho học
sinh không thích học môn Ngữ văn. Nhưng bất kể nguyên nhân do đâu thì việc
giúp đỡ học sinh nâng cao kỹ năng đọc - hiểu văn bản văn học là nhiệm vụ của các
thầy cô giáo dạy Ngữ văn. Đây là một việc làm quan trọng đòi hỏi phải có phương
pháp phù hợp, hiệu quả và có kế hoạch riêng cho mỗi học sinh….
4. Các bước thực hiện (Những giải pháp nâng cao kỹ năng đọc – hiểu văn bản
cho học sinh ở trường THPT)
Bước 1: Lập danh sách phân loại năng lực đọc hiểu văn bản văn học
của học sinh
Đọc - hiểu là kỹ năng cơ bản được giáo viên chú trọng trong quá trình dạy
học Ngữ văn. Theo phương pháp truyền thống, giáo viên hướng dẫn phần học
sinh đọc - hiểu văn bản văn học cho tất cả các đối tượng học sinh, kể cả học
sinh khá cũng như học sinh yếu, kém. Phương pháp này có rất nhiều ưu điểm
song lại có một số hạn chế nhất định. Bởi vì kỹ năng đọc hiểu văn bản của mỗi
học sinh lại khác nhau. Học sinh yếu, kém và học sinh giỏi khả năng đọc và

khả năng tư duy, nhận thức khác nhau rất nhiều. Nếu người giáo viên sử dụng
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
1111
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
một cách diễn đạt, một câu hỏi, một chế độ cho điểm, một phương pháp đọc…
để áp dụng cho tất cả các học sinh, cả học sinh giỏi và học sinh yếu, kém thì sẽ
xảy ra tình trạng: Học sinh giỏi sẽ theo dõi và tiếp nhận được thông tin bài
giảng còn học sinh yếu, kém sẽ không thể theo kịp các bạn giỏi hơn được; hoặc
học sinh yếu kém theo được bài giảng nhưng học sinh học khá hơn sẽ cảm thấy
buồn chán … Như vậy, phương pháp truyền thống này có lẽ chỉ phù hợp cho
các lớp chọn, trường chuyên và sẽ bất cập đối với các lớp thường vì các lớp
chọn, trường chuyên thì mặt bằng nhận thức của các em khá đều còn các lớp
thường các em học sinh có mặt bằng nhận thức không đồng đều. Vì vậy, lập
danh sách phân loại năng lực đọc - hiểu văn bản văn học của học sinh là vô cùng
cần thiết.
* Các bước tiến hành chia nhóm phân loại học sinh như sau:
Thứ nhất: Kiểm tra năng lực đọc - hiểu văn bản cho tất cả học sinh trong lớp vào đầu năm
học . Đề bài tôi sử dụng là cho một bài ca dao gồm 4 câu yêu cầu học sinh đọc và trình
bày sự hiểu biết về nội dung và nghệ thuật của bài ca dao ra giấy .
Thứ hai: Lấy kết quả điểm khảo sát để chia học sinh theo 4 nhóm
Nhóm học sinh có kỹ năng đọc- hiểu khá, giỏi điểm từ 6,5 đến 10: 01 nhóm
Nhóm học sinh có kỹ năng đọc- hiểu trung bình điểm từ 5 đến 6,4 : 01 nhóm
Nhóm học sinh có kỹ năng đọc- hiểu yếu, kém điểm dưới 5 : 01 nhóm
Thứ ba: Lập danh sách học sinh theo nhóm
Khi sử dụng phương pháp chia nhóm để phân loại học sinh người giáo viên
sẽ dễ theo dõi, giúp đỡ học sinh nâng cao kết quả học tập, uốn nắn và có những
phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh hơn, đặc biệt phương
pháp chia nhóm để phân loại học sinh có hiệu quả tích cực trong việc nâng cao kỹ
năng đọc - hiểu văn bản văn học và chất lượng học tập cho học sinh yếu kém.
Năm học 2013 -2014, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 10A1

và lớp 10A2 trường THPT Xuân Khanh.
- Lớp 10A1, tôi thực hiện phương pháp giảng dạy không chia nhóm
- Lớp 10A2, tôi thực hiện phương pháp giảng dạy chia nhóm để phân loại
học sinh. Kết quả thu được như sau:
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
1212
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
Kết quả khảo sát năm 2013 – 2014
Năm
học
Lớp

số
Điểm kiểm tra khả năng đọc- hiểu văn bản
Đạt
yêu
cầu
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
2013-
2014
10A1 44 0 6 6
1
7
10 4 0 1 0 0 0 5/44
10A2 46 0 0 6
1
7
10 10 0 3 0 0 0 13/46
Cộn
g

9
0
0 6
1
2
3
4
20 14 0 4 0 0 0 18/90
Kết quả kỳ I năm học 2013 – 2014
Stt Lớp
Sỹ
số
Thang điểm
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Đạt
yêu
cầu
1 10A1
Không chia
nhóm
44 0 0 6
18 10
8 2 0 0 0 0 10/44
2 10A2 Chia nhóm 46 0 0 0
8
11
9 8 8 2 0 0
27/46
Kết quả kỳ II năm học 2013 - 2014
Stt Lớp

Sỹ
số
Thang điểm
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Đạt
yêu
cầu
1 10A1
Không
chia nhóm
44 0 0 4
11 7 15
4 3 0 0 0 22/44
2 10A2
Chia
nhóm
46 0 0 0
1 4 18
9 8 5 1 0 41/46
Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy: Kết quả học sinh có kỹ năng đọc hiểu của
lớp dạy chia nhóm cao hơn lớp dạy không chia nhóm.
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
1313
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
Kết quả đối chiếu so sánh bằng biểu đồ như sau:
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
Kết quả khảo sát năm học 2013-2014
Kết quả khảo sát kỳ I
1414
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT

Bước 2: Tìm hiểu phương pháp, năng lực học tập của từng học sinh
Sau khi giáo viên phân nhóm học sinh theo năng lực đọc - hiểu của các em
thì bước tiếp theo giáo viên sẽ đi tìm hiểu phương pháp học tập của học sinh.
Theo tâm lý học, mỗi học sinh lớn lên trong những môi trường văn hóa, xã
hội và điều kiện gia đình khác nhau thì những thói quen, cách suy nghĩ, các năng
lực nhận thức, hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng và phong
phú về phương pháp học tập của học sinh. Một số học sinh tích cực, chủ động, một
số khác lại tỏ ra thụ động, một số học sinh thích trực quan, một số khác lại thích
tranh luận Việc giáo viên giảng dạy hiểu và biết được phương pháp học tập của
học sinh để có những phương pháp giảng dạy cho phù hợp với các em cũng quan
trọng như việc chúng ta hiểu rõ tính cách của học sinh trong việc giáo dục nhân
cách, đạo đức cho các em vậy. Có những phương pháp giảng dạy phù hợp với đối
tượng học sinh này nhưng lại không phù hợp với đối tượng học sinh kia. Ví như,
một học sinh đọc kém thì người giáo viên không thể yêu cầu các em đọc diễn cảm
hay đọc sáng tạo được. Một học sinh nhận thức yếu không giáo viên không thể sử
dụng câu hỏi khó được vì điều đó là quá sức với các em và đương nhiên các em
không thể làm tốt được…Song thực tế lại cho thấy, giáo viên khi lên lớp lại không
tìm hiểu phương pháp học tập của học sinh mà chỉ chú ý đến phương pháp giảng
dạy của chính mình. Phương pháp dạy học thì vô cùng phong phú nhưng mỗi
phương pháp lại chỉ phù hợp với từng đối tượng giảng dạy nhất định và như vậy
không thể áp dụng một phương pháp cho tất cả các đối tượng học sinh. Nên việc
tìm hiểu phương pháp học tập của học sinh là để mỗi giáo viên nắm rõ điểm mạnh
và điểm yếu của các em, để phân nhóm học sinh khi sử dụng hình thức dạy học
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
Kết quả khảo sát kỳ II
1515
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
theo nhóm. Từ đó sẽ có phương pháp dạy học hiệu quả, góp phần nâng cao chất
lượng giờ đọc hiểu văn bản nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
Sau khi tìm hiểu các thông tin cơ bản về phương pháp học tập của học sinh,

giáo viên sẽ lập danh sách nhóm học sinh theo mẫu để có phương pháp dạy học cho
phù hợp với từng đối tượng học sinh như sau:
PHƯƠNG PHÁP HỌC VÀ KHẢ NĂNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH LỚP 10A2
St
t
Họ và tên học sinh Phương pháp học và khả năng nhận thức của
học sinh
1 Nguyễn Thị Lan Anh Nhận thức nhanh, thích trực quan.
2 Phạm Thị Ngọc Anh Nhận thức nhanh, thích tranh luận.
3 Vũ Thị Ngọc Ánh Chăm chỉ, khả năng phân tích tốt.
4 Hoàng Thu Huyền Nhận thức được, khả năng tưởng tượng tốt.
5 Phùng Văn Thắng Tích cực, chủ động, khả năng diễn đạt tốt.
6 Nguyễn Văn Chiến Phụ thuộc vào tài liệu.
7 Nguyễn Quang Đức Nhận thức được, chưa chăm học.
8 Nguyễn Quang Minh Chăm chỉ, thích đọc sách.
9 Phùng Văn Minh Nhận thức nhanh nhưng ẩu.
10 Phùng T Minh Nguyệt Kiến thức chắc, chăm chỉ, chậm.
11 Nguyễn Minh Hải Viết kém, khả năng nhận thức chậm.
12 Nguyễn Bá Hải Lười học.
13 Phùng Thế Minh Lười học.
14 Nguyễn Hùng Quân Nhận thức chậm, học vẹt.
15 Nguyễn Thị Trang Khả năng tư duy chậm.
(Học sinh khác giáo viên làm tương tự theo mẫu)
Bước 3: Loại bỏ áp lực cho học sinh trong giờ đọc –hiểu văn bản văn học
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, những áp lực con người gặp phải không
phải là ít. Đối với học sinh cũng vậy, việc học tập của các em cũng phải chịu rất
nhiều áp lực. Việc học tập của các em không chỉ khiến cha mẹ lo lắng mà bản thân
các em cũng phải chịu nhiều áp lực từ phía thầy cô, gia đình và thậm chí từ chính
tâm lý, tính cách và sự thay đổi về cơ thể của các em. Trong khi đó để hoạt động
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh

1616
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
đọc đạt được đến mục đích hiểu tác phẩm thì người đọc phải chú ý nhập tâm vào
việc đọc. Muốn nhập tâm vào việc đọc thì người đọc phải có hứng thú và có một
trạng thái tâm lý thoải mái, không bị gò ép. Chỉ khi tự giác đến với văn bản văn học
bằng một niềm thích thú tìm tòi thì viêc đọc mới hiệu quả. Sau đây là những áp lực
chính ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của giờ đọc hiểu- văn bản văn học:
* Áp lực từ phía cha mẹ học sinh: Trong một cuộc khảo sát tâm lý đối với
cha mẹ học sinh với câu hỏi khảo sát “Cha mẹ muốn gì ở con cái của họ”, kết quả
cho thấy: 73% cha mẹ muốn con trở thành tri thức; 23,7% cha mẹ muốn con giàu
có; 26,7% muốn con có quyền có chức và 78,3% cha mẹ xấu hổ vì con họ không
học hành bằng người khác…( Theo nguồn điều tra Xã hội học năm 2013 – Con
người Việt nam trong quan niệm của các lớp dân cư tiêu biểu tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh). Kết qua điều tra ở 46 phụ huynh học sinh lớp 10A2 trường
THPT Xuân Khanh cũng cho thấy: 46/46 phụ huynh muốn con mình học giỏi;
46/46 phụ huynh muốn con mình thi đỗ đại học; 30/46 phụ huynh muốn con mình
trở thành tri thức. Như vậy số liệu khảo sát trên cho thấy, hầu hết các bậc cha mẹ
đạt quá nhiều kỳ vọng vào con cái và thường vượt qua khả năng của chúng. Bên
cạnh đó, nhiều cha mẹ học sinh còn dùng uy của thầy cô để dọa con cái của họ làm
cho các em có cảm giác sợ thầy cô, khiến giữa thầy cô và học sinh có một khoảng
cách vô hình và các em không tự nhiên, thoải mái trong quá trình trao đổi với giáo
viên trên lớp.
* Áp lực từ phía nhà trường: Nhà trường thì lớp học quá đông, sĩ số học
sinh trong một lớp học của trường THPT hiện nay thường từ 45 đến 60 học sinh.
Lớp học đông khiến các em không có một chỗ ngồi thoải mái, trong khi đó cơ sở
vật chất của nhiều trường còn nhiều khó khăn, chưa tạo đươc hứng thú trong học
tập cho các em.
* Áp lực từ phía học sinh: Áp lực từ thời khoá biểu, thời gian biểu. Ngày
nay, ngoài việc đi học chính khóa ở trường các em còn đi học thêm, học phụ đạo
kín hết cả thời gian trong ngày, thời gian trong tuần, thậm chí học sinh không có cả

thời gian để nghỉ hè. Việc học sinh học đi học nhiều như vậy khiến cho các em
không có cả thời gian tự học, thời gian nghỉ ngơi. Đến lớp lại chịu áp lực của điểm
số, của thầy cô, của bạn bè…

Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
1717
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT

Trên đường đi đến lớp của một học sinh
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
1818
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
Tình trạng học sinh mệt mỏi và căng thăng trong giờ học khá phổ biến
Đó là những áp lực khiến các em trở nên mệt mỏi khi đến lớp, khiến các em
lo sợ khi không thuộc bài, khiến các em cảm thấy tự ti khi không bằng bạn bè…Và
tất nhiên với tâm trạng mệt mỏi, cơ thể mệt mỏi, sự lo âu đã ảnh hưởng nghiệm
trọng đến hiệu quả của giờ đọc – hiểu văn bản văn học – giờ học rất cần sự thư thái
về tâm hồn. Các em phải gồng mình chạy theo những yêu cầu của cha mẹ, thầy cô,
nhà trường và của chính mình. Có nhiều em học sinh ngày càng trở nên trầm cảm,
tự ti, khép mình, sợ học, thậm chí có nhiều em ngày càng học kém đi…
Vì vậy, khi lên lớp, nhất là trong giờ đọc hiểu văn bản - văn học, người giáo
viên hãy dành cho học sinh một môi trường học tập thoải mái nhất có thể, bằng
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
1919
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
nhiều cách khác nhau: Không chê trách, không so bì học sinh này với học sinh kia,
không lạm dụng điểm kém mà bắt học sinh phải hoc Theo tâm lý học, tâm lý con
người có ảnh hưởng rất lớn đết kết quả lao động và học tập. Khi được khen, người
ta thường tích cực hơn, học tập và làm việc tốt hơn vì vậy kết quả học tập và hiệu
quả công việc cũng tốt hơn. Khi bị phê bình, nhắc nhở, đặc biệt là phê bình nhắc

nhở trước tập thể thì con người thường có tâm lý buồn, ảnh hưởng không tốt đến
kết quả học tập và lao động. Khi các em phạm lỗi hãy biết kiềm chế trước những
sai phạm của các em và mềm mỏng trong việc dạy dỗ học sinh. Cần tạo bầu không
khí thân thiện, vui vẻ, cởi mở để học sinh không bị ức chế, căng thẳng.
Tôi đã làm một cuộc trắc nhiệm tâm lý học sinh để chứng minh rằng: Học
sinh ngày nay phải chịu nhiều áp lực trong cuộc sống và khi đến trường. Và đó
chính là yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài giảng của các em. Hình thức
thăm dò tâm lý học sinh bằng phiếu trắc nghiệm tâm lý và được thực hiện ở lớp
10A1 và lớp 10A2.
- Kết quả thăm dò như sau:
STT Lớp Sĩ số
Áp lực từ
cha mẹ
Áp lực từ
TKB
Các áp lực
khác (nếu có)
Số hs phải
chịu áp lực
Số hs
khôngphải
chịu áp lực
1 10A1 44 21 20 1 42 2
2 10A2 46 17 21 3 41 5
Cộng 90 38 41 4 83 7
Bước 4: Tổ chức dạy học với bản đồ tư duy
a. Thực trạng:
Lâu nay, trong quá trình dạy học Ngữ văn, chúng ta vẫn thường sử dụng các
phương pháp dạy học như : Trao đổi thảo luận, hoạt động nhóm, thuyết trình… ở
hầu hết các nội dung của bài. Cách làm này có ưu điểm là tiết kiệm được thời gian

song lại không thể nhận thấy hết được khả năng nắm bắt bài giảng của các em,
không tạo được hứng thú cho học sinh. Hay, giáo viên thường sử dụng các mô
hình, sơ đồ, biểu đồ để cô đọng, khái quát kiến thức cho học sinh, nhất là ở những
bài tổng kết các chương, các phần của môn học hay các bài ôn tập. Cách làm này
có thể nói đã đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập, củng
cố, hệ thống kiến thức cho học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic. Thế nhưng,
bên cạnh những ưu điểm ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất định, bởi
trước hết là cả lớp cùng có chung cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc
của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Các
bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Cách làm này chưa
thật sự phát huy được tư duy sáng tạo, chưa thật sự kích thích, lôi cuốn được các
em trong việc tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
2020
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
học. Hơn nữa, phạm vi sử dụng hẹp vì chúng ta chỉ sử dụng chúng trong một số tiết
dạy có tính chất tổng kết các chương, các phần, các mảng kiến thức của môn học
hay các bài ôn tập mà thôi chứ chúng không được sử dụng đại trà cho tất cả các bài
học, các giờ lên lớp cũng như các khâu của tiến trình bài dạy.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những
phương pháp, kỹ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng BĐTD. Có thể nói,
đây là một bước tiến đáng kể trong việc đổi mới PPDH hiện nay khi mà khoa học
công nghệ phát triển như huyền thoại, nhất là sự bùng nổ của ngành Công nghệ
thông tin. Việc sử dụng BĐTD thay thế cho những mô hình, sơ đồ, biểu đồ đã
lạc hậu, lỗi thời để khái quát, cô đọng kiến thức cho học sinh là một sự tất yếu, bởi
BĐTD có rất nhiều điểm ưu việt hơn. Do đó, việc ứng dụng BĐTD vào trong quá
trình dạy học môn Ngữ văn không chỉ lôi cuốn sự hứng thú, làm “sống lại” niềm
đam mê, yêu thích môn học ở các em học sinh mà còn làm dấy lên một “phong
trào” đưa BĐTD vào bài giảng ở giáo viên.
b. Lịch sử của BĐTD:

BĐTD được phát triển vào cuối thập niên 60 (của thế kỉ 20) bởi Tony Buzan
như là một cách để giúp học sinh "ghi lại bài giảng" mà chỉ dùng các từ then chốt
và các hình ảnh. Sử dụng Bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy học đã và đang được áp
dụng ở nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới và mới đây đã được
nghiên cứu và áp dụng ở Việt Nam nhằm giúp GV truyền thụ kiến thức một cách
sinh động, hệ thống và mô hình hóa để HS có thể học, tự học tích cực, có một tư
duy tổng thể về bài học, giúp dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng kiến thức. Từ kiến thức
được diễn đạt trong nhiều trang sách và cả vận dụng thực tế, BĐTD giúp tinh lọc
lại chỉ còn trong một sơ đồ, và ngược lại, từ sơ đồ này, học sinh hình dung, liên
tưởng và phát triển kiến thức một cách logic. Sử dụng BĐTD yêu cầu HS phải tự
suy nghĩ để thiết lập nội dung bài học theo cách hiểu của mình nên BĐTD thực sự
là một công cụ chống "đọc - chép", "học vẹt" rất hiệu quả. Hiện nay đã có nhiều
giáo viên sử dụng rất thành công phương pháp này trong giảng dạy. Điểm mới
trong bài viết này là sử dụng BĐTD phù hợp với từng đối tượng học sinh để
rèn luyện và nâng cao kỹ năng đọc- hiểu cho các em BĐTD là một kỹ thuật
dạy học có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật
chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng
phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế trên
phần mềm BĐTD. Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có
thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho GV, HS sử dụng.
c. Giáo viên hướng dẫn học sinh làm quen với BĐTD
Cho HS làm quen với BĐTD bằng cách giới thiệu cho HS hình ảnh về BĐTD
cùng với sự dẫn dắt của GV để các em làm quen. Người vẽ sẽ bắt đầu từ trung tâm
với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
2121
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình
vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
Nên sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Tất

cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu
sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn. Sao cho chỉ cần nhìn vào BĐTD
bất kỳ HS nào cũng có thể thuyết trình được nội dung một bài học hay một chủ đề,
một chương theo mạch lôgic của kiến thức.
Sơ đồ tư duy mô phỏng
Ví dụ bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ” HS có thể thiết kế BĐTD như sau:
* Tổ chức dạy học với BĐTD
+ BĐTD phải phù hợp với đối tượng học sinh
Trong bất cứ lĩnh vực cũng như ngành nghề nào cũng đều phải quan tâm đến
đối tượng hoạt động của mình. Cảnh sát điều tra tội phạm không thể không bám sát
đối tượng điều tra, bác sĩ phải hiểu bệnh nhân của mình để điều trị. Nghiên cứu
khoa học cũng phải bám sát đối tượng nghiên cứu và đặc biệt trong dạy học - giáo
dục, người giáo viên càng phải hiểu đối tượng của mình để tổ chức các hoạt động
dạy học, giáo dục sao cho phù hợp và có hiệu quả. Không hiểu và không bám sát
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
2222
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
được học sinh thì mọi công tác giảng dạy và giáo dục sẽ chỉ là những lý thuyết kinh
điển xa rời thực tiễn, không tác động trực tiếp đến từng đối tượng cần được quan
tâm.
Từ trước tới nay, lý luận dạy học đã từng chỉ ra rằng, nội dung quyết định
phương pháp dạy học. Trên cơ sở nội dung bài học, giáo viên lựa chọn phương
pháp. Điều đó hoàn toàn đúng, song thực tiễn lại cho thấy rằng, đối tượng học sinh
mới là cơ sở quan trọng và quyết định tới phương pháp dạy học. Đối tượng học
sinh như thế nào sẽ phải có phương pháp dạy học cho thích ứng. Từ Khổng Tử
cách đây hàng ngàn năm cho đến các nhà giáo dục lừng danh trên thế giới cũng đều
bắt đầu từ đối tượng để dạy cho sát trình độ. Vì vậy, trong công cuộc đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay, dạy học sát đối tượng trở thành yêu cầu bắt buộc
mà mỗi giáo viên trong các nhà trường phải thực hiện. Bộ GD&ĐT cũng đã có
nhiều văn bản chỉ đạo các địa phương cũng như nhà trường phải quán triệt tinh thần

này. Nhiều đợt tập huấn, bồi dưỡng giáo viên các cấp đã đưa vấn đề này làm chủ đề
chính để trao đổi.
Dạy học sát đối tượng là gì? Nói một cách ngắn gọn và dễ hiểu: dạy học sát
đối tượng có nghĩa là giáo viên phải hiểu biết sâu sắc đối tượng học sinh của
mình để từ đó lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học cho phù hợp với trình
độ nhận thức, năng lực học tập của học sinh. Cụ thể là giáo viên phải hiểu được
trình độ nhận thức của học sinh ở mức độ nào? Tinh thần, thái độ, động cơ, ý thức
học tập ra sao? Sở trường, nguyện vọng, cá tính nổi bật của từng học sinh là gì?
Những ưu điểm, nhược điểm của học sinh và phải biết được học sinh của mình
đang thiếu hụt điều gì, cần cái gì,… Có hiểu được như vậy giáo viên mới tìm được
biện pháp tác động có hiệu quả, mới đem lại được những cái cần và đủ cho từng
học sinh. Vì vậy khi sử dụng BĐTD vào dạy đọc – hiểu văn bản cũng vậy. Mối đối
tượng học sinh giáo viên hướng dẫn học sinh đọc – hiểu văn bản ở những mức độ
khác nhau, những BĐTD khác nhau. Có như vậy mới phát huy được những hiệu
quả của phương pháp này và nâng cao năng lực đọc – hiểu cho từng đối tượng học
sinh được. Thông thường khả năng đọc – hiểu của học sinh được chia thành ba
nhóm: Nhóm học sinh khá, giỏi; nhóm học sinh trung bình; nhóm học sinh yếu,
kém.
+ Thực trạng :
Học sinh yếu, kém: Học sinh yếu, kém là nhóm học sinh chưa tự giác học,
chưa có động cơ học tập.Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa
mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin.
Học sinh lười suy nghĩ, còn trông chờ thầy cô giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến
thức cơ bản lớp dưới còn hạn chế. Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của
giáo viên không bền. Mỗi em có một khả năng nỗi trội riêng nhưng các em chưa
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
2323
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
biết phát huy khả năng của mình. Học sinh đọc không thông, viết không thạo, đọc
chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai. Học vẹt, không có khả năng vận dụng kiến thức.

Học sinh trung bình: Là đối tượng học sinh có kết quả khảo sát từ 5 điểm
đến 6 điểm. Đó là đối tượng có kiến thức nhưng chưa sâu, có nhận thức nhưng
chưa chăm chỉ học. Học sinh trung bình thường chưa tích cực chủ động trong học
tập, lười phát biểu, khả năng đọc tương đối, kiến thức chưa đều ở các bài…
Học sinh khá giỏi: Là đối tượng học sinh nhận thức nhanh, chăm chỉ, khả
năng đọc và khả năng tư duy tốt, có em khá sắc sảo, sáng tạo. Đối tượng học sinh
này thường thích tìm hiểu, thích các bài tập tư duy, thích tranh luận, mạnh dạn phát
biểu, khả năng cảm thụ tốt, trí tưởng tượng phong phú.
Đối với học sinh yếu kém giáo viên không nên gọi học sinh đọc văn bản trên
lớp theo yêu cầu của mình. Hãy để học sinh tự chọn một đoạn văn, đoạn thơ của
bài mà em thấy thích nhất. Làm như vậy học sinh sẽ tự tin hơn, chủ động hơn,
mạnh dạn hơn…và nghi nhận sự cố gắng của các em. Nội dung bài giảng phải tinh
giản đến mức độ tối đa, song phải đảm bảo những kiến thức cơ bản, cần thiết và
cốt lõi nhất để học sinh nắm được kiến thức cơ bản của môn học. Không tham kiến
thức và tuyệt đối tránh đưa ra những kiến thức khó, phức tạp, rườm rà. Phải tìm
những con đường dễ dàng nhất trong việc giúp học sinh lĩnh hội kiến thức. Trình
bày bài giảng phải hết sức ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhớ; tránh lan
man, dài dòng. Đảm bảo cho học sinh ghi chép một cách đầy đủ những ý chính của
bài học (thậm chí phải đọc cho học sinh ghi chép khi cần thiết và phải kiểm tra vở
ghi thường xuyên). Cố gắng khơi dậy sự tự tin trong mỗi em học sinh. Không đặt
ra những câu hỏi quá khó. Cần đưa ra những câu hỏi nhẹ nhàng, đơn giản để
khuyến khích học sinh trả lời và tích cực học tập.
Với học sinh khá, giỏi: Hãy bước vào lớp với nụ cười, giáo viên cần tạo cho
các em một tâm thế hứng khởi khi vào giờ học để kích thích sự tích cực, hào hứng,
thoải mái trong học tập. Lựa chọn những kiến thức cơ bản, cốt lõi và phân tích
một cách sâu sắc để giúp học sinh nhận thức tốt. Mở rộng, nâng cao một số kiến
thức cơ bản để làm phong phú thêm nội dung bài học. Tăng cường đặt ra những
câu hỏi, những bài tập có độ khó vừa phải để kích thích học sinh tìm tòi, suy nghĩ.
Sử dụng linh hoạt, mềm dẻo, đa dạng các phương pháp dạy học và yêu cầu học sinh
tích cực làm việc trong giờ học. Đừng tìm những con đường dễ dàng nhất trong

việc cung cấp kiến thức cho học sinh. Như thế học trò sẽ lười suy nghĩ. Giáo viên
cần làm cho học sinh thấy việc học là lao động thực sự. Điều quan trọng nhất là
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
2424
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ki năng đọc – hiểu văn bản văn học cho học sinh THPT
phải luôn khích lệ, luôn ở bên học sinh khi khó khăn. Trang bị cho các em phương
pháp tự học, tự nghiên cứu.
* Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp
Bước 1: Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa cho học sinh thực hành vẽ BĐTD
trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.
Bước 2: Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1,
cấp 2, cấp 3 (Luyện kỹ năng vẽ BĐTD). Giáo viên nên chọn những bài các em đã
học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ, dễ vẽ.Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh
vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những cụm từ
ngắn gọn. Sau khi các em vẽ xong sườn của BĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ
chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho
các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới
các ý trong sơ đồ.(Kỹ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
Bước 3:HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài
học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn
dắt đến kiến thức của bài học.
Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một
BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, chỉ định HS lên trình bày,
thuyết minh về kiến thức đó.
(Lưu ý: BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có chung
một kiểu BĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức, góp ý thêm về
đường nét vẽ, màu sắc( mỗi màu vẽ phản ánh một nội dung) và hình thức (nếu có)

Ví dụ 1: Sử dụng BĐTD khi dạy bài “ Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ

viết” ( SGK Ngữ văn 10 – Ban cơ bản)- phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Bước 1: Giáo viên cho hoc sinh 3 từ khóa
“Đặc điểm của ngôn ngữ nói (1)
Đặc điểm ngôn ngữ viết (2)
Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết”(3)
Yêu cầu: Nhóm học sinh yếu: Vẽ BĐTD cho từ khóa (1)
Nhóm học sinh trung bình: Vẽ BĐTD cho từ khóa (2)
Nhóm học sinh khá, giỏi: Vẽ BĐTD cho từ khóa ( 3)
- Bước 2: Giáo viên yêu cầu 01 học sinh yếu đọc phần I, 01 học sinh trung bình
đọc tiếp phần còn lại. Sau khi học sinh đọc xong giáo viên đặt câu hỏi cho cả 3
Gv: Nguyễn Thị Hiền Trường THPT Xuân Khanh
2525

×