Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

skkn vận dụng tư tưởng đạo đức hồ chí minh để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh thpt trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.66 KB, 46 trang )


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT LONG PHƯỚC
Mã số:
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH THPT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Anh
Lĩnh vực nghiên cứu: Phương pháp dạy học mônGDCD.
Năm học: 2013 - 2014
1
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc Anh
2. Ngày tháng năm sinh: 07 - 04 - 1982
3. Nam, nữ: nữ
4. Địa chỉ: Số nhà 145, Ấp 4, Biên Hoà, Đồng Nai
5. Điện thoại: 0985507755
6. E-mail:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Long Phước
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2013
- Chuyên ngành đào tạo: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn
Giáo dục chính trị
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn GDCD
- Số năm có kinh nghiệm: 08


2
MỤC LỤC
01.01.01.Trang
A. MỞ ĐẦU 3
B. NỘI DUNG 8
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay 8
1.1. Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh THPT là
một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay 8
1.1.1. Những vấn đề chung về đạo đức và giáo dục đạo đức……………… 8
1.1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 13
1.2 Thực trạng vận dụng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh THPT
Long Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai hiện nay 19
CHƯƠNG 2. Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh THPT……… 23
2.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh cho học sinh THPT Long Phước, Long Thành, Đồng Nai
hiện nay …………………………………………………………………… 23
2.1.1. Phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống
của học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 23
2.1.2. Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giảng dạy môn
GDCD để nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT Long
Phước ……………………………………………………………………… 26
C. KẾT LUẬN 35
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………… 37
PHỤ LỤC ………………………………………………………………… 40
Danh mục một số từ viết tắt
THPT Trung học phổ thông
GDCD Giáo dục công dân
3

BCHTW Ban chấp hành Trung ương
CNH – HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
THCS Trung học cơ sở
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân, của dân
tộc Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới,
4
Người đã để lại một di sản lý luận quý báu, với hệ thống những luận điểm khoa
học rộng lớn, sâu sắc, phong phú trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực đạo đức và tấm gương đạo đức trong sáng của người. Tư tưởng
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá
của Đảng, của dân tộc ta, tư tưởng của Người không chỉ có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà còn là tấm gương
sáng trong việc giáo dục đạo đức cho mọi người, đặc biệt là học sinh trung học
phổ thông - những chủ nhân tương lai của đất nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng giáo dục đạo đức và xem
đó là nền tảng của người cách mạng. Người luôn khẳng định, đạo đức là “gốc”
của người cách mạng. Người nhấn mạnh: “Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [23;
252]. Theo Người, thanh niên không chỉ có tài năng mà còn phải có đạo đức, bởi
: “Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [23; 253]. Tài
năng phải gắn chặt với đạo đức, Người chỉ rõ: “Có tài mà không có đức ví như
một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức
mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì
cho loài người” [27; 178]. Nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân học tập tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh, qua đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng
trong xã hội về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và noi theo, Bộ Chính trị đã chủ
trương mở cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”. Cuộc vận động này đã có sự lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, có tác
động rất tích cực đến học sinh, sinh viên trong việc nâng cao nhận thức về đạo
đức nói chung và đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng.
5
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, vẫn còn nhiều những hạn
chế, thiếu sót. Trên thực tế, do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường,
những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự du nhập của văn hóa
phương Tây cũng như của xu thế toàn cầu hóa; đặc biệt do không nghiêm túc
trong rèn luyện, phấn đấu, do thiếu sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã
hội trong việc giáo dục thanh thiếu niên nói chung và học sinh, sinh viên nói
riêng, mà một bộ phận học sinh trung học phổ thông ở nước ta đang có những
biểu hiện tiêu cực, đáng lo ngại như: suy thoái đạo đức, lối sống, thiếu chí tiến
thủ, chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, thiếu ước mơ, hoài bão, lười học
tập và tu dưỡng đạo đức, xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, thờ ơ
trước thời cuộc và vô cảm với đồng loại. Sự vi phạm pháp luật ngày càng tăng ở
lứa tuổi học trò, bạo lực học đường có những diễn biến phức tạp với mức độ
ngày càng trầm trọng. Bên cạnh đó những tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập
vào học đường hủy hoại thể lực, trí tuệ và đạo đức của học sinh làm cho các
chuẩn mực đạo đức xã hội nói chung và đạo đức của nhà trường xuống cấp.
Trong bối cảnh hiện nay, những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe
dọa trực tiếp đến tương lai của chính bản thân các em, làm cho các em dễ có
nhận thức, suy nghĩ lệch lạc về nhiều vấn đề của đất nước, của xã hội, đồng thời
cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta
hiện nay. Mặt khác, các thế lực thù địch vẫn luôn chống phá sự nghiệp cách
mạng của Đảng ta một cách điên cuồng, chúng lợi dụng những hiện tượng đó để
tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” hòng chống phá và ngăn chặn sự phát
triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết chúng ta phải nêu cao

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ nói chung và cho học sinh phổ
thông nói riêng noi theo, để nâng cao lý tưởng và nhận thức của các em trong
bối cảnh hiện nay.
6
Vì những lí do đó, tôi chọn vấn đề: Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai
đoạn hiện nay làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên –
học sinh là một trong những nội dung trọng tâm mà Đảng đặc biệt quan tâm, thể
hiện qua các văn kiện và chỉ thị của Đảng như: Nghị quyết hội nghị lần thứ tư,
BCHTW khóa VII “Về công tác thanh niên trong tình hình mới”; Nghị quyết hội
nghị lần thứ hai, BCHTW khóa IX; chỉ thị số 06 – CT/TW của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương đảng (khóa X) về tổ chức cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thông báo số 134 – TB/TW “Đẩy
mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn
mới”. Ngoài ra, liên quan đến đề tài nghiên cứu, từ trước đến nay đã có nhiều
nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia và nhiều giáo viên có tâm
huyết quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, dưới những thể loại
khoa học khác nhau như: sách, báo, tạp chí, tham luận, khóa luận, luận văn tốt
nghiệp
Vấn đề giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu. Cụ thể như: “Đạo đức và phương pháp giáo dục đạo đức” (Tài
liệu đào tạo giáo viên tiểu học trình độ cao đẳng và đại học sư phạm) của
Nguyễn Hữu Hợp (chủ biên) và Lưu Thu Thủy đã cung cấp những cơ sở phương
pháp luận về đạo đức học, giáo dục học và xã hội học của quá trình giáo dục đạo
đức cho học sinh, có tác dụng định hướng cho quá trình dạy học môn Đạo đức
học, ngoài ra, tác giả còn đề cập đến việc tổ chức quá trình dạy học môn đạo đức
sao cho có hiệu quả; “Quan hệ giữa các giá trị truyền thống và hiện đại trong
xây dựng đạo đức” của Lê Thị Lan; “Đổi mới phương pháp dạy học môn đạo

đức và Giáo dục công dân” của Nguyễn Nghĩa Dân, các công trình này đã phân
tích đưa ra các phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn
7
GDCD. Nhà giáo dục Phạm Minh Hạc: “Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa- hiện đại hóa”, trong nhiều công trình nghiên cứu của mình về
đạo đức đã nhấn mạnh vai trò của giáo dục đạo đức trong quá trình phát triển
nhân cách. Hà Thế Ngữ chú trọng đến vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức
thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học, nhất là các bộ môn khoa học xã hội
và nhân văn, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trên cơ sở đó giáo dục
thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng đến thực hiện
các hành vi đạo đức cho học sinh. Tác giả Nguyễn Lương Bằng đã có một số bài
viết: Giáo dục đạo đức cho học sinh (dưới góc độ triết học và đạo đức học),
Thông báo khoa học, ĐHSP Vinh, Số 9 (1993), 69-71; Tiêu chí đánh giá, xếp
loại đạo đức học sinh phổ thông- một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay,
Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 8. 2012, tr.77- 83. Các công trình tiếp cận từ nhiều
góc độ khác nhau, nghiên cứu về vị trí, tầm quan trọng của thanh niên – học sinh
đối với sự nghiệp cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà sinh thời Người
đã luôn quan tâm giáo dục, đào tạo họ thành những công dân tốt để góp phần
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ không chỉ là sự nghiệp
của Đảng, của toàn xã hội mà còn là sự quan tâm, trăn trở của nhiều nhà nghiên
cứu, là vấn đề quan tâm thường xuyên, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của các nhà trường, nơi không chỉ dạy các em kiến thức mà còn giáo dục cho
các em về đạo đức, lối sống, giúp các em hoàn thiện nhân cách, góp phần quan
trọng vào việc đào tạo ra những công dân có ích cho xã hội. Hiện nay đã có rất
nhiều công trình, nhiều bài viết của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề giáo dục tư
tưởng đạo đức, lối sống cho thanh niên, học sinh, nhìn chung các tác giả đều đưa
ra thực trạng, nguyên nhân và giải pháp khá phong phú. Song, vấn đề giáo dục
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh THPT ở trường THPT Long
Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay thì chưa có

8
một công trình nào nghiên cứu, chưa được tác giả nào đề cập đến. Và những kết
quả nghiên cứu trên là các tư liệu quý để tác giả làm cơ sở, tiền đề cho đề tài.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm giáo dục của Đảng về tuyên truyền giáo dục
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: logic với lịch sử,
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, điều tra so sánh, thu thập thông tin, nghiên
cứu tài liệu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn việc giáo dục tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Từ đó vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT ở trường THPT Long Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai trong
giai đoạn hiện nay.
5. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý giáo dục
và giáo viên dạy môn GDCD trường THPT; đồng thời nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức, lối sống cho học sinh các trường THPT trong bối cảnh hiện nay.
B. NỘI DUNG
9
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO HỌC SINH THPT

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh THPT là một yêu
cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Những vấn đề chung về đạo đức và giáo dục đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc và bản chất của đạo đức
Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một vấn đề rất quen thuộc và gần gũi với mỗi chúng ta. Nó
gắn liền với bản chất con người và đời sống xã hội, đồng thời nó được xem như
một biểu tượng đặc trưng về nhân cách văn hoá. Cho nên người ta thường nói
đến văn hoá đạo đức. Nếu một cá nhân thiếu đạo đức thì mọi phẩm chất, năng
lực khác sẽ không còn ý nghĩa; và xã hội cũng không thể phát triển bình thường
và ổn định nếu trong xã hội ấy có nhiều cá nhân thiếu đạo đức. Trong sự nghiệp
cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đạo đức, Người
coi đạo đức của con người như gốc của cây, như nguồn của sông. Vì vậy, Người
luôn tự rèn luyện, nêu gương sáng về đạo đức và không ngừng dạy bảo các thế
hệ phải không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng. Trong di chúc để lại cho dân
tộc ta Người viết: đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do
quá trình rèn luyện bền bỉ, lâu ngày mà tạo nên cũng như “ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”. Vì vậy, Người luôn nhấn mạnh vai trò quan
trọng và tích cực của đạo đức trong đời sống xã hội. Vậy đạo đức là gì?
GS.VS Phạm Minh Hạc đã viết: “Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lý, là
những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người…Theo
nghĩa rộng khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, pháp
luật, lối sống” [8; 66]
10
Đạo đức được hiểu theo nghĩa chung nhất, là một phạm trù thuộc hình
thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống những quan điểm, quan niệm, nguyên tắc,
quy tắc và chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử
của con người trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân và xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của

truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội nhằm hướng con người đến chân,
thiện, mỹ…. Hay nói cách khác đạo đức là một dạng ý thức xã hội gồm những
nguyên tắc, chuẩn mức giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều
chỉnh hành vi của con người trong quan hệ xã hội, gia đình, tập thể.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh các quan hệ
ứng xử giữa những con người với con người, con người với xã hội và con người
với tự nhiên. Xuất phát từ những lợi ích và quan hệ lợi ích nhất định, người ta
phân biệt cái tốt với cái xấu, cái hay và cái dở, cái thiện và cái ác… thể hiện
trong hành vi đạo đạo đức con người. Do đó, đạo đức một mặt gắn với con
người cụ thể; mặt khác nó cũng gắn với mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp, mỗi nghề
nghiệp, với xã hội và dân tộc tạo nên nền tảng đạo đức của một xã hội nhất định.
Xã hội tốt đẹp thì đạo đức trong xã hội đó cũng tốt đẹp và ngược lại.
Như vậy, đạo đức được hình thành từ khi có xã hội loài người và tồn tại
vĩnh viễn cùng loài người. Đạo đức là một phạm trù lịch sử nên cùng với sự vận
động và phát triển của lịch sử xã hội, các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo
đức cũng biến đổi theo. Lịch sử nhân loại đã từng tồn tại nhiều nền đạo đức xã
hội khác nhau và các nền đạo đức này luôn bị chi phối bởi quan điểm và lợi ích
của giai cấp thống trị. Hình thái ý thức xã hội đạo đức giúp con người điều chỉnh
hành vi của mình, hướng con người tới cái tốt, cái thiện.
Nguồn gốc và bản chất của đạo đức
Quan điểm của tôn giáo
Trong giáo lý của các tôn giáo lớn và tồn tại lâu đời như: Phật giáo, Thiên
chúa giáo, Hồi giáo đều đề cập đến tính thiện. Điều đó khiến các tôn giáo đều
11
cho rằng đạo đức bắt nguồn từ các tôn giáo và đạo đức mang bản chất tôn giáo.
Từ đó dẫn đến quan niệm cho rằng từ bỏ tôn giáo tức là từ bỏ đạo đức, họ cho
rằng mọi ân đức đều do trời, do Chúa, do Thần thánh đem đến ban phát cho con
người. Thiên chúa giáo cho rằng Thượng đế là đấng tối cao có trách nhiệm ban
phát phước lành, cứu rỗi cho loài người mà mỗi người có bổn phận chấp hành
nghĩa vụ trước thượng đế. Phật giáo thì cho rằng có một thế giới thần tiên đối

với con người, đó là cõi “Niết bàn”. Những quan điểm trên đã sai lầm ở các
điểm:
Thứ nhất, các tôn giáo đã đồng nhất tôn giáo với đạo đức;
Thứ hai, về mặt lịch sử thì đạo đức có trước tôn giáo từ rất lâu;
Thứ ba, các tôn giáo bắt nguồn từ niềm tin vào thượng đế, còn đạo đức
bắt nguồn từ niềm tin con người, tôn giáo hướng con người đến với những lạc
thú cá nhân ở bên kia thế giới, còn đạo đức hướng con người tới thế giới hiện
thực. Ngoài ra hạnh phúc của tôn giáo là sự cầu xin và là sự ban phát của đấng
tối cao, còn trong đời sống đạo đức, hạnh phúc là quá trình con người đấu tranh
cải tạo thế giới, trong quá trình ấy con người tự tìm thấy hạnh phúc cho mình.
Chính vì sự khác nhau như vậy mà đạo đức không thể bắt nguồn từ tôn giáo.
Quan điểm tự nhiên
Những người theo quan điểm tự nhiên cho rằng nguồn gốc của đạo đức có
từ bản năng sự vật, vì vậy con người được sinh ra từ sự vật.
Quan niệm này là sai lầm ở chỗ: Con người có ý thức và luôn tự ý thức
được về mình, còn con vật không có ý thức và chưa bao giờ ý thức được về nó,
những hoạt động của nó chỉ mang tính bản năng. C.Mác đã chỉ rõ: “Con nhện
làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt và bằng việc xây
dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn làm cho một số nhà kiến trúc
phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con
ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc
đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi” [34; 266-267].
12
Quan điểm xã hội
Những người theo quan điểm xã hội cho rằng, nguồn gốc của đạo đức là
từ trong đời sống xã hội, nhưng khi lý giải về bản chất đạo đức họ lại gắn những
quan niệm chủ quan vào đó. Phái khế ước xã hội coi đạo đức là những quy ước
chung có tính chủ quan của xã hội, và việc thực hiện những quy ước ấy như thế
nào là cơ sở đánh giá đạo đức. Phái vị kỷ hợp lý cho rằng bản chất xã hội của
đạo đức là sự thoả hiệp chủ quan giữa các chủ thể đạo đức như quan niệm người

có của, người có công. Cả hai phái trên, mặc dù nó căn cứ vào tính xã hội của
đạo đức, nhưng họ đều không coi đạo đức là cơ sở phản ánh xã hội hiện thực, họ
đã xoá nhoà mất tính giai cấp của đạo đức xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng ý thức đạo đức là một hình thái ý thức
xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử, và xem xét đạo đức như một hiện tượng
tinh thần của xã hội và luôn đặt nó trong mối quan hệ hữu cơ với tồn tại xã hội,
do đó sự phát sinh, hoàn thiện của nó được quy định bởi sự phát sinh, phát triển
và hoàn thiện con người. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là
sản phẩm của sự vận động và phát triển của lịch sử, là một phạm trù thuộc hình
thái ý thức xã hội, xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Đạo đức bắt nguồn từ đời
sống cộng đồng xã hội mà trực tiếp là lao động sản xuất, lao động không chỉ là
nguồn gốc của con người mà còn là động lực thúc đẩy phát triển của con người,
của ý thức trong đó có đạo đức, “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn
bộ đời sống loài người” [33; 641].
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một hình thái ý thức đạo đức tương
ứng, nên bản chất của đạo đức mang tính lịch sử xã hội, đạo đức không phải là
cái cố định, bất biến mà những quy tắc, chuẩn mực của nó bị chi phối bởi các
điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội và dựa vào các điều kiện ấy “Xét cho cùng, mọi
học thuyết về đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh
tế xã hội lúc bấy giờ” [33; 137]. Chính vì vậy mà khi xã hội phát triển nó sẽ kéo
13
theo sự phát triển của đạo đức. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang bản chất
giai cấp, Ăngghen cho rằng “Cho tới nay xã hội đang vận động trong những sự
đối lập giai cấp cho nên đạo đức luôn luôn phải là đạo đức của giai cấp”. Bản
chất giai cấp của đạo đức thể hiện ở chỗ nó bảo vệ sự thống trị của giai cấp cầm
quyền, giải quyết mối quan hệ giữa con người với con người theo quan điểm của
giai cấp thống trị xã hội. Chính vì vậy mà không thể có một nền đạo đức của
mọi giai cấp hay của mọi thời đại, không có đạo đức chung chung đứng trên mọi
sự phân biệt giai cấp.

1.1.1.2. Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Sự tiến bộ và phát triển của xã hội không thể thiếu vai trò của đạo đức.
Trong đời sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và
giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng cùng tồn tại phát triển.
Ngay từ thời cổ đại, vai trò của đạo đức đối với xã hội đã được các nhà tư tưởng
xem xét và bàn luận tới.
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (thế kỷ VI trước công nguyên)
đã khuyên học trò “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ông mong muốn xã hội phát triển
bình ổn, gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Mạnh Tử rất đề
cao đạo đức đến mức ông đề xuất quản lý xã hội bằng đức trị.
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, học thuyết của Đạo Phật do Thích Ca Mâu Ni
sáng lập đã đề cập đến nhiều vấn đề về đạo đức. Cái cốt lõi nhất trong hệ thống
đạo đức Phật giáo là khuyên con người sống thiện, biết yêu thương nhau, giúp
đỡ nhau, tránh điều ác.
Trong xã hội Hy Lạp – La Mã cổ đại, đặc trưng cơ bản nhất về giáo dục
con người được thông qua những truyền thuyết, sử thi… nhằm đề cao những giá
trị đạo đức của con người. Đó là nữ thần Atina xinh đẹp như mặt trăng, đầy tình
nhân ái đối với con người. Hình tượng thần Dớt có tài - đức vẹn toàn. Ôđixê là
bản trường ca bất hủ, một biểu tượng cao đẹp về tính trung thực, lòng dũng cảm,
14
sự trong sáng trong tình bạn, tình yêu… tất cả những hình tượng đó đều là
những phẩm giá đạo đức tốt đẹp của con người.
Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức được quan tâm từ rất sớm. Nó không chỉ là
vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu xã hội sau này, mà đã xuất hiện trong
văn hoá dân gian, trong truyền thuyết, trong ca dao, tục ngữ. Qua đó nhân dân ta
đã đề cao những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức nhằm giúp con người
hướng tới những điều tốt đẹp. Truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh,
Ăn khế trả vàng… đều giáo dục con người hướng thiện và có nhân cách cao đẹp
trong cuộc sống.
Như vậy, đạo đức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.

Xã hội loài người càng phát triển thì vai trò của đạo đức cũng ngày càng tăng
lên. Nếu ví xã hội là một cơ thể sống, thì đạo đức có thể được coi là sức khoẻ
của cơ thể sống ấy. Tuy nhiên, cần thấy rằng sự tác động của đạo đức đến đời
sống xã hội có tính hai mặt. Nếu hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
đạo đức tiến bộ, phù hợp với đời sống xã hội, với xu thế vận động của xã hội thì
nó sẽ có tác động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển bền vững. Ngược lại, nếu
hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức lỗi thời, lạc hậu thì nó sẽ gây nên
những tác động tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình xây
dựng xã hội mới, chúng ta phải kế thừa và phát triển những giá trị đạo đức
truyền thống phù hợp với xã hội ngày nay, loại bỏ những chuẩn mực đạo đức cũ
không còn phù hợp, đồng thời xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới nhằm
thúc đẩy xã hội phát triển.
1.1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời
đại mới theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
- Trung với nước, hiếu với dân: đây là phẩm chất đạo đức quan trọng
nhất, chi phối các phẩm chất khác. Trung và hiếu ở đây có mối quan hệ mật
thiết, gắn bó hữu cơ với nhau. Muốn trung với nước phải hiếu với dân. Hiếu với
15
dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ, phải nắm vững dân tình,
quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phải làm cho dân
được tự do, ấm no và hạnh phúc. Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì
có hại cho dân thì hết sức tránh, đồng thời phải làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và
quyền lợi của người làm chủ đất nước.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: đây là phẩm chất đạo đức cơ bản
và hết sức quan trọng, nó gắn liền với hoạt động hàng ngày của con người và là
một biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. Nó diễn ra
hàng ngày, hàng giờ trong công tác, sinh hoạt và lấy hành vi của con người làm
đối tượng điều chỉnh. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu gương sáng và
không ngừng nhắc nhở mọi người phải tăng cường rèn luyện và trau dồi phẩm

chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Người nói: “ Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”. [23; 631]
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con
người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người đã giải thích ý nghĩa
và mối liên quan của những từ này một cách đơn giản, rõ ràng và rất dễ hiểu.
Nói về cần, Người viết: “Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, như: Tay
siêng làm thì hàm siêng nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần,
cả nước đều phải Cần.
Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu” [23; 632]
16
Tóm lại Cần là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai;
lao động phải có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự
lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm vào người khác.
Cần phải gắn liền với kế hoạch và đạt hiệu quả. Bác cho rằng cây gỗ bất kỳ to
nhỏ, đều có gốc và ngọn. Công việc bất kỳ to nhỏ đều có việc nên làm trước, có
việc nên làm sau. Nếu không có kế hoạch, việc nên làm trước mà để làm sau,
việc nên làm sau mà làm trước thì sẽ tốn thời gian, tốn công nhiều mà kết quả ít.
Đối với học sinh, cần là chăm chỉ, siêng năng trong học tập, không ngại
khó, ngại khổ, phải có kế hoạch và phương pháp học tập từng môn học để hiểu
bài một cách kĩ càng nhất. Phải có thái độ và ý thức học tập đúng đắn, không
nản lòng và bỏ qua những bài tập khó, nội dung khó. Phải biết tận dụng và tiếp
thu những nguồn kiến thức từ thầy cô, sách vở và bạn bè để học tập có kết quả

cao nhất.
Kiệm: là việc tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
nhân dân, của đất nước và của chính bản thân mình, phải biết tiết kiệm từ cái to
đến cái nhỏ, bởi nhiều cái nhỏ nếu không tiết kiệm cộng lại sẽ dần dần thành cái
to. Người cũng chỉ rõ thêm: “Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân
của con người. Cần mà không kiệm “thì làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng
như một cái thùng không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy,
không lại hoàn không. Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát
triển được” [23; 636]. Bác cũng khuyên mọi người biết tiết kiệm và quý trọng
thời gian, không để thời gian trôi đi lãng phí, bởi khi thời gian đã trôi qua không
ai còn lấy lại được nữa. Bác nói: “Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời
giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được. Có ai kéo lại ngày hôm qua
được không?” [23; 637]. Vì vậy, học sinh phải thi đua học tập, đồng thời, biết
tiết kiệm giấy bút, sách vở, tiền bạc, biết giữ kỷ luật… và đặc biệt phải quý
trọng, tiết kiệm thời gian, tận dụng những tháng ngày còn ngồi trên ghế nhà
trường để tích luỹ kiến thức cho mình.
17
Liêm: “Liêm là trong sạch, không tham lam” [23; 640], luôn luôn biết tôn
trọng, giữ gìn của công cũng như của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, một
hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”, “không tham địa vị, không tham tiền tài.
Không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang
minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham
làm, ham tiến bộ” [23; 252].
Đối với thanh niên, Người chỉ rõ: “Thanh niên cần phải chống tâm lý tự
tư, tự lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham
sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động
chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu
ngạo, giả dối, khoe khoang”. Vì vậy, đối với học sinh cần rèn luyện cho các em
biết quý trọng và bảo vệ của công, biết tự giác trong học tập, không ngừng rèn
luyện về phẩm chất đạo đức để trở thành những công dân có ích cho xã hội sau

này. Cần giáo dục cho các em thái độ và động cơ học tập đúng đắn: học để cầu
tiến bộ, nâng cao hiểu biết. Từ đó làm cho các em có ý chí vươn lên, không ngại
khó, ngại khổ, quyết tâm dành kết quả cao nhất ở từng môn học.
Chính: “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
không đúng đắn, thẳng thắn, tức là tà” [23; 643]. Bác viết: “Trên quả đất, có
hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: Người Thiện
và người Ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc
ấy có thể chia làm hai thứ: việc Chính và việc Tà. Làm việc Chính, là người
Thiện. Làm việc Tà là người Ác” [23; 643].
Đối với học sinh, nhiệm vụ trung tâm chính là học tập để nắm vững kiến
thức, nắm bắt khoa học kỹ thuật. Vì vậy, mỗi học sinh phải khắc phục mọi khó
khăn, chịu khó học tập, học hỏi để không ngừng tiến bộ.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính là cái gốc quan trọng của đạo đức cách mạng,
của con người Việt Nam mới, cũng là cái gốc đạo đức cách mạng của học sinh.
Người yêu cầu học sinh phải luôn trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, chống
18
kiêu căng, tự mãn, chống lãng phí xa hoa, cần kiệm trong lao động, học tập,
công tác. Thực hành tự phê bình và phê bình thẳng thắn để giúp nhau cùng tiến
bộ. Có Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì con người mới thật sự trở nên chân chính,
mới có thể sống với bản lĩnh và nghị lực của mình. Những người như thế mới
được mọi người xung quanh thật sự tôn trọng và nể phục.
Chí công vô tư là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có
lòng riêng, thiên tư, thiên vị. Chí công vô tư là nối tiếp của cần, kiệm, liêm,
chính. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công
vô tư, một lòng vì nước vì dân thì nhất định sẽ thực hiện được Cần, Kiệm, Liêm,
Chính.
- Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất của mỗi con người. Tình yêu thương đó là tình
cảm rộng lớn được thể hiện trong các mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng
chí, anh em. Nó đòi hỏi mỗi người phải chặt chẽ, nghiêm khắc với mình; rộng

rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền của con
người, phải biết nâng con người lên, kể cả những con người nhất thời lầm lạc
nhưng đã biết nhận ra những sai lầm, khuyết điểm và sửa chữa, chứ không phải
là thái độ dĩ hoà vi quý, không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.
Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp
nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác,
nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan
hồng đại độ … Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân
ái mà cảm hoá họ…” [22; 246 – 247], Người căn dặn: “Mỗi con người đều có
thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy
nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách
mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc
và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện
trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời” [30;
19
558], “phải đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau như anh, chị em một nhà”. Tình
yêu thương đó đã được thể hiện ở Người bằng ham muốn tột bậc là “Tôi chỉ có
một ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành” [30; 517]. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, người viết: “Cuối cùng, tôi để
lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho
các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí,
các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế” [30; 503, 512].
1.1.2.2. Sự cần thiết của việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho
học sinh THPT hiện nay.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, đã có tác động tích cực trong việc nâng cao
nhận thức về đạo đức nói chung và đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng,
bên cạnh những mặt tích cực thúc đẩy xã hội phát triển, thì với mặt trái của cơ

chế thị trường cũng có những mặt hạn chế, tiêu cực; và với sự tác động phong
phú, đa chiều của các luồng thông tin, văn hoá, lối sống… học sinh dễ có nhận
thức tiêu cực, lệch lạc về nhiều vấn đề của đất nước, của xã hội. Do đó, nếu
không có sự định hướng kịp thời, tích cực, đúng đắn, thì những biểu hiện đó sẽ
tác động tiêu cực đến nhận thức, lý tưởng, tình cảm của học sinh-sinh viên đối
với đất nước, cộng đồng, xã hội và gia đình. Vì vậy, việc giáo dục tư tưởng, đạo
đức Hồ Chí Minh cho học sinh THPT sẽ giúp cho các em có những suy nghĩ,
định hướng đúng đắn trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức của mình, giúp các
em nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của việc tu dưỡng đạo đức cách
mạng để không ngừng rèn luyện, phấn đấu trở thành con người toàn diện, có đủ
đức và tài nhằm phục vụ đất nước ngày càng tốt hơn.
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị lỗi lạc, là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt
Nam. Tư tưởng và đạo đức của Người là tấm gương sáng ngời cho thế hệ học
20
tập và noi theo. Vì vậy, việc học tập, làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức
của Người trở nên cấp thiết trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay và là nhiệm vụ của nhiều thế hệ, nhiều ngành khoa học khác nhau, là
niềm vinh dự, hạnh phúc của mỗi con người Việt Nam.
1.2. Thực trạng vận dụng đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh THPT Long
Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai hiện nay
Trong những năm vừa qua, trường THPT Long Phước đã rất quan tâm
đến việc giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh. Nhà trường đã tổ chức
quán triệt Chỉ thị 06, giúp các em hiểu rõ và sâu sắc nội dung đạo đức Hồ Chí
Minh và từ đó vận dụng vào thực tế. Những phẩm chất đó đã được vận dụng vào
cuộc sống, tạo nên một phong trào thi đua, tự giác học tập rèn luyện sôi nổi giữa
lớp này với lớp khác, giữa các em học sinh với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chưa được thường xuyên, quán
triệt một cách triệt để, chu đáo nên chưa mang lại hiệu quả cao.
Với câu hỏi: Theo các em cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” có cần thiết với học sinh hay không?

Qua khảo sát 200 học sinh trong 3 khối lớp, lớp 10, 11, 12, chúng tôi có
các số liệu sau đây:
Bảng 1: Nhận thức về tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh
Học sinh Mức độ đánh giá %
Rất quan trọng
Quan trọng
Có cũng được,
không cũng
được
Không quan
trọng
Lớp chọn 98 2 0 0
Lớp bình
thường
92 7 1 0
Nguồn: Do tác giả điều tra thống kê trong học sinh trường THPT Long Phước năm 2012
21
Kết quả trên cho thấy việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” là rất quan trọng và cần thiết. Do đó để việc vận dụng, thực hiện có
hiệu quả cao cần phải tuyên truyền, quán triệt đầy đủ những nội dung, phẩm
chất đạo đức cho học sinh và trên cơ sở đó vận dụng vào việc học tập, công tác
hàng ngày.
Với câu hỏi: Các em đánh giá như thế nào về nội dung công tác giáo dục
đạo đức trong nhà trường ta hiện nay?
Qua khảo sát 200 học sinh của 3 khối lớp, chúng tôi thu được kết quả cụ
thể như sau:
Bảng 2: Đánh giá nội dung công tác giáo dục đạo đức
Học sinh Mức độ đánh giá %
Phong phú

Không phong phú Đầy đủ
Không đầy đủ
Lớp 10 66 34 57,5 42,5
Lớp 11
60 40
60,5 39,5
Lớp 12 56,5 43,5 70,5 29,5
Nguồn: Do tác giả điều tra thống kê trong học sinh trường THPT Long Phước năm 2012
Kết quả trên cho thấy việc giáo dục đạo đức cho học sinh đã được nhà
trường quan tâm, chú ý nhưng kết quả chưa cao. Nội dung đạo đức chưa thực sự
phong phú, đa dạng. Bởi đánh giá tính không phong phú, không đầy đủ ở mức
độ khá cao. Do đó đòi hỏi nhà trường cần phải quan tâm, chú trọng hơn nữa
trong công tác giáo dục đạo đức.
Với câu hỏi: Từ những nguồn nào, các em có được thông tin về nội dung
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh?
Bảng 3: Đánh giá nguồn thông tin về nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
Đối
tượng
Nguồn thông tin về đạo đức %
Đài
phát
Truyền
hình
Sách,
báo
Internet Nghe
báo
Nghe
giảng
Sinh

hoạt
Sinh
hoạt
22
thanh cáo lớp đoàn
Lớp
10
50,5 58,5 56,5 36 4,5 31 27 44
Lớp
11
60,5 70 71 40,5 6,5 33 30,5 55,5
Lớp
12
55,5 73 72,5 50 6 35,5 32 50,5
Nguồn: Do tác giả điều tra thống kê trong học sinh trường THPT Long Phước năm 2012
Qua bảng số liệu trên ta thấy học sinh thu nhận được nội dung tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh qua nhiều kênh thông tin, nhưng chỉ có nguồn thông tin từ
đài phát thanh, truyền hình và sách báo là đạt tỷ lệ trên 50%. Còn các nguồn như
qua nghe giảng, sinh hoạt lớp đều ở mức thấp, đặc biệt là qua nghe báo cáo còn
quá thấp, chứng tỏ học sinh tự tìm hiểu là chính, do đó hiệu quả chưa đồng đều,
chất lượng chưa cao.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và đứng trước bối cảnh thế giới có nhiều biến động, phức tạp như hiện nay thì
toàn cầu hoá vừa mang lại những thời cơ lớn, vừa mang lại những thách thức
lớn. Bên cạnh những mặt tích cực thì mặt trái của nó là lối sống thực dụng, chạy
theo đồng tiền… đang tác động xấu đến thế hệ trẻ.
Bên cạnh những ưu điểm của đa số học sinh tích cực phấn đấu rèn luyện,
vẫn còn một bộ phận học sinh thờ ơ, bàng quan về chính trị, không tham gia các
hoạt động , phong trào do đoàn trường và lớp tổ chức mà chỉ chạy theo lối sống
vật chất tầm thường, muốn có cuộc sống hưởng thụ hơn cống hiến, sống thực

dụng, buông thả, vướng vào các tệ nạn xã hội… Để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống
cấp về đạo đức trong một bộ phận học sinh, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục đạo đức, ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức thực hiện cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, triển khai nội quy,
những điều cấm của nhà trường tới học sinh ngay từ khi học sinh mới vào nhập
học.
23
Trong thời gian vừa qua trường THPT Long Phước đã có những phương
pháp, mô hình giáo dục mang lại hiệu quả cao như: phong trào “Tuổi trẻ Đồng
Nai làm theo lời Bác”, phát động cuộc thi “kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Kết luận chương 1
Tư tưởng đạo đức và bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương
tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức, không chỉ đạo đức của con người, xã hội mà còn
là đạo đức của một lãnh tụ cách mạng, suốt đời hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Năm tháng sẽ qua đi, song tư tưởng của Người về đạo đức cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, yêu thương con người vẫn còn giữ nguyên giá trị, có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc nên việc giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh,
sinh viên là một việc làm rất quan trọng, cần thiết, không chỉ trong giai đoạn
hiện nay mà cả về sau. Do vậy, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức để từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu khắc phục thực trạng
xuống cấp về đạo đức của một bộ phận học sinh, và nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho học sinh nói chung, học sinh trường THPT Long Phước nói riêng là
việc làm rất cần thiết, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2
GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO HỌC SINH
THPT
2.1. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng đạo đức

Hồ Chí Minh cho học sinh THPT Long Phước, Long Thành, Đồng Nai hiện
nay
24
2.1.1. Phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống
của học sinh theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Đây là giải pháp quan trọng nhất để giáo dục học sinh ý thức tự giác, tự tu
dưỡng theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Học sinh với tư cách là chủ thể
của quá trình nhận thức, của hoạt động học tập, được giáo dục bởi nhà trường,
gia đình và xã hội. Và theo Hồ Chí Minh, sự kết hợp giáo dục của nhà trường,
gia đình và xã hội là hết sức quan trọng, nhưng việc tự rèn luyện, tự giáo dục
của học sinh giữ vai trò quyết định. Bởi vì “Đạo đức cách mạng không phải trên
trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [27;
293]. Qua việc giáo dục và tự giáo dục đó mà học sinh với những nét đặc thù về
tâm sinh lý lứa tuổi, với trình độ nhận thức và tư duy nhất định sẽ tiếp thu, lĩnh
hội tri thức, tự hoàn thiện nhân cách của mình sao cho phù hợp với yêu cầu của
xã hội. Vì thế, đối với mỗi học sinh, việc tu dưỡng phẩm chất đạo đức cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, yêu thương con người phải được thực hiện
trong hoạt động học tập và mọi hoạt động khác, trong mọi mối quan hệ từ gia
đình đến xã hội, từ nhỏ đến lớn; từ quan hệ với ông bà, cha mẹ, anh chị em, thầy
cô giáo, bạn bè…
Qua khảo sát thực tế, đa số học sinh trường THPT Long Phước được sinh
ra trong những gia đình bố mẹ làm công nhân nên không có nhiều thời gian
quan tâm, dạy dỗ, chăm sóc con cái. Đời sống một bộ phận phụ huynh học sinh
còn khó khăn, sự phối kết hợp với nhà trường chưa đạt hiệu quả cao. Do đó, các
giải pháp của gia đình, nhà trường và xã hội dẫu có làm thật tốt cũng không thể
thay thế vai trò tự giáo dục, rèn luyện của bản thân học sinh. Vì vậy, cùng với
giáo dục cần phải biết khích lệ, phát huy ý thức tự học tập, tự tu dưỡng, rèn
luyện của học sinh là yêu cầu cấp thiết.
Nói đến sự tự giác trong học tập là nói đến nỗ lực, sự cố gắng, tính tích

cực và chủ động của mỗi học sinh, là phát huy vai trò của ý thức, trong đó có ý
25

×