Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Xây dựng hệ thống trò chơi học tập phục vụ dạy học chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.19 KB, 65 trang )

Lời cảm ơn
ời đầu tiên em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn và kính trọng sâu
sắc đối với cô giáo Phan Nữ Phước Hồng giảng viên bộ môn
Phương pháp dạy học Tự nhiên- xã hội, Khoa Tự nhiên - Kinh tế, trường
Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế- người đã tận tình hướng dẫn em
trong suốt quá trình tiến hành thực hiện khóa luận. Cô đã mở ra cho em
những vấn đề khoa học rất lý thú, hướng em vào nghiên cứu các lĩnh vực
hết sức thiết thực và vô cùng bổ ích, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho
em học tập và nghiên cứu. Em đã học hỏi được rất nhiều ở Cô phong cách
làm việc, cũng như phương pháp nghiên cứu khoa học… Em luôn được
Cô cung cấp các tài liệu, các chỉ dẫn hết sức quý báu khi cần thiết trong
suốt thời gian thực hiện tiểu luận .
L
Em cũng xin thể hiện sự kính trọng và lòng biết ơn đến Quý Thầy
Cô trong Khoa Tự nhiên – Kinh tế, các bạn trong tập thể lớp K32 Giáo
dục tiểu học, Ban giám hiệu- quý thầy cô giáo và các em học sinh
trường Tiểu học Vĩnh Lợi đã tạo điều kiện giúp đỡ em thực hiện và hoàn
thành tốt khoá luận tốt nghiệp này.

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Giảng dạy là một quá trình mang tính chất nghệ thuật tạo sự kích thích,
định hướng và hướng dẫn. Dạy không chỉ là sự truyền đạt đơn thuần kiến thức
mà là một quá trình tạo mối tương quan giữa người dạy, người học và tư liệu
giảng dạy. Thông thường con người chỉ nhớ: 10% những gì họ đọc, 20%
những gì họ nghe, 80% những gì họ nói và đến 90% những gì họ nói và làm,
tức là khi họ tự khám phá cho chính họ. Đặc biệt với cấp học Tiểu học, phụ
huynh và các em vẫn xem trọng môn Toán và Tiếng Việt, trong khi đó môn
Tự nhiên và Xã hội cũng không kém phần quan trọng. Chúng ta phải làm sao
học sinh vẫn nắm bắt được những kiến thức về xã hội và thế giới tự nhiên
trong tâm thế thoải mái là vấn đề rất được quan tâm. Trò chơi học tập chính là


một chiếc cầu nối hữu hiệu thân thiện nhất, tự nhiên nhất giữa người dạy và
người học trong việc tự giải quyết nhiệm vụ chung đạt được mục đích đề ra
làm thoả mãn nhu cầu của cá nhân. Áp dụng hình thức dạy học trò chơi học
tập là một phương pháp đổi mới đáp ứng yêu cầu dạy học lấy học sinh làm
trung tâm, phát huy tính tích cức tự giác của người học.
2. Lí do chọn đề tài:
Việc vận dụng phương pháp trò chơi trong quá trình dạy học là rất cần
thiết, làm sao cho mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Trò chơi xuất phát từ
nội dung bài học là hoạt động góp phần làm cho học sinh hứng thú, ham thích
học tập tạo không khí phấn khởi tạo tâm thế thoải mái trước giờ học hay củng
cố nắm chắc kiến thức đã được học, kích thích tư duy sáng tạo và rèn kĩ năng.
Theo mục tiêu giáo dục hiện nay, giáo dục học sinh phát triển toàn diện cả
đức, trí, thể, mĩ. Các hoạt động dạy - học ở trường Tiểu học đang đổi mới
2
phương pháp dạy học theo hướng: Lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính
tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh. Đối với học sinh tiểu học, lứa tuổi
vừa học vừa chơi, hiếu động, chóng chán, vấn đề tạo nên hứng thú học tập
cho các em là rất quan trọng. Trò chơi tác động toàn diện đến trẻ em vì nó dễ
dàng thâm nhập vào xúc cảm, tình cảm thúc đẩy mọi hành động của trẻ.
Hiện nay, vận dụng trò chơi học tập vào dạy học không phải là vấn đề
mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về môn Tự nhiên - xã hội, các nguồn tư
liệu: các sách thiết kế, sách giáo viên hướng dẫn soạn giáo án… đã đưa ra rất
nhiều trò chơi nhưng còn rời rạc từng trò chơi cho từng bài học mà chưa có
tính hệ thống. Một số trò chơi đòi hỏi cao về công tác chuẩn bị không phù hợp
với đặc điểm cơ sở vật chất trường học...
Với chủ đề Tự nhiên, sách giáo viên hay sách thiết kế chỉ đưa ra trò chơi
chưa có tính phong phú chỉ có hai trò chơi. Giáo viên rất khó áp dụng, đối với
học sinh rất dễ gây nhàm chán, làm giảm hiệu quả các tiết học.
Từ những lí do trên tôi chọn đề tài: “Xây dựng hệ thống trò chơi học tập
phục vụ dạy học chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2” hi vọng khi

nghiên cứu đề tài này sẽ mang lại nhiều kinh nghiệm dạy học khi áp dụng
phương pháp sử dụng trò chơi, bổ sung, phát triển vốn trò chơi thêm phong
phú và đa dạng.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Đây không phải là vấn đề mới mẻ, vào thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX đã có
nhiều nhà nghiên cứu như: Phreben( Đức), M.Mentori( Ý)...có ý tưởng trò
chơi với dạy trẻ học, dùng trò chơi làm phương tiện dạy học. Về sau, ý tưởng
đó được tiếp tục phản ánh trong hàng loạt công trình nghiên cứu của các nhà
giáo dục Liên xô: A.P.Radina, A.P.Vsova, A.Navanhesova, A.L.Sovokia.
Trong quá trình đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học có rất nhiều nhà
giáo dục đã nghiên cứu, tìm tòi thiết kế nên các trò chơi nhằm giáo dục toàn
diện tạo hứng thú học tập cho các em như: cuốn “Tổ chức hoạt động vui chơi
ở Tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ, thể lực cho học sinh” của Hà Nhật
3
Thăng (chủ biên) hay cuốn “150 trò chơi thiếu nhi” của Bùi Sĩ Tụng, Trần
Quang Đức( đồng chủ biên). Nhưng ở các tài liệu này thì các tác giả đã đề cập
rất rõ vai trò của trò chơi, đưa ra những hoạt động vui chơi chung chung, chưa
đi sâu vào ứng dụng của trò chơi trong môn học cụ thể.
Đối với môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học nói chung và trong chủ đề Tự
nhiên nói riêng có các nghiên cứu sáng tác trò chơi trong dạy học cụ thể như:
cuốn “Học mà vui vui mà học” của tác giả Vũ Xuân Đỉnh, Trò chơi học tập
Tự nhiên - Xã hội lớp 1, 2, 3 Bùi Phương Nga( chủ biên), Dự án phát triển
giáo viên Tiểu học- NXB Giáo dục. …Tuy nhiên để có hệ thống, cụ thể từng trò
chơi trong từng bài cho chủ đề Tự nhiên thì chưa có.
Đề tài đi vào chuyên sâu nghiên cứu “Xây dựng hệ thống trò chơi học tập
phục vụ dạy học các bài trong chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp
2” một cách cụ thể.
4. Mục đích nghiên cứu:
Khi nghiên cứu đề tài mục tiêu chúng tôi đặt ra là kết quả đạt được góp
phần xây dựng hoàn thiện hệ thống trò chơi phục vụ các bài học trong chủ đề

Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2, nâng cao hiệu quả bài dạy.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt những mục tiêu đề ra việc xây dựng và giải quyết các nhiệm vụ là
hết sức quan trọng. Thông qua các nhiệm vụ chúng tôi sẽ tiến hành từng bước
như thế nào để hoàn chỉnh đề tài nghiên cứu. Các nhiệm vụ đó là: Đầu tiên
chúng tôi nghiên cứu cơ sở lý luận nắm bắt những nền tảng cơ sở ban đầu của
vấn đề. Lí thuyết là một vấn đề và thực tiễn là vấn đề khác chúng tôi đi vào
nghiên cứu cơ sở thực tiễn: Vấn đề sử dụng trò chơi trong dạy học các bài
thuộc chủ đề: Tự nhiên lớp 2. Nhiệm vụ cuối cùng là xây dựng một số trò
chơi mới kết hợp các sưu tầm được tạo nên tính hệ thống phục vụ các bài ở
các chủ đề Tự nhiên.
4
6. Đối tượng nghiên cứu:
Khi đi vào nghiên cứu chúng ta cần biết đối tượng nghiên cứu của đề tài
này là: Xây dựng hệ thống trò chơi phục vụ các bài dạy ở chủ đề Tự nhiên
thuộc chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 2. Đối tượng thực nghiệm: Học
sinh và giáo viên trường Tiểu học Vĩnh Lợi.
7. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực tốt các nhiệm vụ đề ra đạt được mục tiêu nghiên cứu thì không thể
thiếu được các phương pháp nghiên cứu. Có rất nhiều phương pháp trong
nghiên cứu khoa học thường được áp dụng, với các vấn đề của đề tài này
chúng tôi đã sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp thu thập tài liệu:
Thông qua các giáo trình, tạp chí giáo dục và mạng internet chúng tôi
tiến hành thu thập, nghiên cứu, phân tích các thông tin liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra và hỏi ý kiến chuyên gia:
Điều tra thực trạng sử dụng trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và
Xã hội lớp 2 ở trường phổ thông. Sau mỗi tiết dạy, chúng tôi tiến hành thăm
dò ý kiến giáo viên có thể bằng phiếu trưng cầu ý kiến hoặc phỏng vấn trực

tiếp nắm bắt số liệu.
+ Phương pháp quan sát sư phạm:
Chúng tôi quan sát lớp học trong mỗi tiết dạy của giáo viên đứng lớp hay
chính tiết dạy của mình.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Soạn các giáo án và trực tiếp giảng dạy ứng dụng tổ chức trò chơi trong
giờ dạy một số bài thuộc chủ đề Tự nhiên, chương trình Tự nhiên và Xã hội
lớp 2.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp:
5
Sau khi thu thập các thông tin cũng như số liệu liên quan chúng tôi tiến
hành thống kê và xử lí các số liệu liên quan.
Chúng tôi sử dụng phối hợp một cách linh hoạt các phương pháp.
8. Phạm vi nghiên cứu:
Thiết kế trò chơi học tập phần chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và Xã hội,
lớp 2 và tiến hành thực nghiệm tại trường Tiểu học Vĩnh Lợi.
9. Giả thuyết khoa học:
Xây dựng hoàn thiện hệ thống trò chơi học tập ứng dụng vào từng bài học chủ
đề Tự nhiên góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
B . PHẦN NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Chương 1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu:
1.1. Đặc điểm nội dung chương trình môn Tự nhiên – Xã hội lớp 2:
Môn Tự nhiên và Xã hội là môn học chứa đựng những kiến thức gắn với
đời sống con người, các sự vật hiện tượng trong thực tế cuộc sống rất gần gũi
với học sinh Tiểu học. Môn Tự nhiên và Xã hội là môn học tích hợp kiến thức
của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội trong đó tỉ trọng kiến thức khoa học
stự nhiên nhiều hơn so với kiến thức khoa học xã hội ”.[1, tr 8] Môn Tự nhiên
và Xã hội lớp 2 được xây dựng theo quan điểm tích hợp xem xét tự nhiên con
người và xã hội trong một thể thống nhất có quan hệ qua lại, tác động lẫn
nhau, các kiến thức trong chương trình là kết quả tích hợp kiến thức của nhiều

ngành khoa học sinh học, vật lí, địa lí, lịch sử, môi trường. Nội dung chương
trình có cấu trúc đồng tâm, hợp lí ”.[5, tr 24] Chương trình môn Tự nhiên và
Xã hội lớp 2 sẽ tiếp tục phát triển, mở rộng các kiến thức các em đã học ở lớp
1 theo 3 chủ đề: Con người – sức khỏe, Xã hội, Tự nhiên. Sau khi học xong
chủ đề Tự nhiên học sinh cần đạt được mục tiêu đề ra: Biết sơ lược về hoạt
động của cơ quan vận động và cơ quan tiêu hóa ở cơ thể người; phòng chống
cong vẹo cột sống; giữ vệ sinh ăn uống, phòng nhiễm giun. Biết về công việc
của các thành viên trong gia đình, nhà trường và một số nghề nghiệp trong xã
6
hội, ở địa phương; giữ sạch nhà ở, trường học, giữ an toàn khi ở nhà, ở trường
và khi đi đường. Biết cây cối và các con vật có thể sống được ở khắp nơi: trên
cạn, dưới nước, trên không; biết quan sát bầu trời ban ngày, ban đêm; có hiểu
biết sơ lược về hình dạng và đặc điểm của Mặt trời, Mặt trăng và các vì sao[1, tr
4]. Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng: Tự chăm sóc sức khỏe
cho bản thân, ứng xử hợp lí trong đời sống để phòng chống một số bệnh tật và
tai nạn. Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt
những hiểu biết của mình về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và
xã hội. Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi: Có ý thức thực hiện
các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Yêu
thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương. Môn học Tự nhiên và Xã hội là
môn học về môi trường tự nhiên và xã hội gẫn gũi, bao quanh học sinh, vì vậy
có rất nhiều nguồn cung cấp kiến thức cho các em. Do đó, không chỉ có giáo
viên cung cấp trí thức cho các em lĩnh vực này, các em có thể thu nhận kiến
thức từ nhiều nguồn khác. Với chủ đề Tự nhiên học sinh sẽ được học về thực
vật và động vật: một số cây cối và một số con vật sống trên mặt đất, dưới nước,
trên không. Về bầu trời ban ngày và ban đêm các em sẽ được học về mặt trời
cách tìm phương hướng bằng mặt trời, mặt trăng và các vì sao, qua 10 bài học cụ
thể.”.[1, tr 6]
Ở trường Tiểu học hiện nay, môn Tự nhiên và Xã hội là một trong những
môn học chiếm vị trí quan trọng cùng với các môn học khác có vai trò tích cực

trong việc phát triển toàn diện cho học sinh. Việc coi trọng thực hành và vận
dụng kiến thức, quan tâm đến năng lực tự học, tự khám phá kiến thức của học
sinh rất được quan tâm.
Việc tự khám phá để hiểu biết và tiếp thu kiến thức mới hay củng cố kiến
thức đã học rất hữu ích so với sự rập khuôn, bắt trước. Thế giới tự nhiên xung
quanh các em rất phong phú, đa dạng. Trò chơi sẽ minh hoạ một cách sinh
động nội dung bài học các bài trong chủ đề Tự nhiên. Sau khi chơi, các em
biết được rõ hơn về các cách làm thiết thực hay cách nhìn đẹp, hiểu được và
7
nhận xét về thế giới thực động vật, làm không khí giờ học thoải mái, hào
hứng dễ chịu hơn, giảm sự căng thẳng, phát triển sự nhanh trí, gây hứng thú
học tập cho các em. Trò chơi làm cho quá trình học tập trở thành một hình thức
vui chơi hấp dẫn, học sinh học mà chơi, chơi mà học nâng cao hiệu quả tiết học .
1.2. Trò chơi học tập và vai trò của trò chơi học tập:
Trò chơi là một loại hình hoạt động rất quen thuộc, gần gũi với mọi người. Ở
nhiều gốc độ khác nhau trò chơi được định nghĩa riêng, có thể trò chơi là một
hoạt động tự nhiên cần thiết thỏa mãn nhu cầu giải trí của con người hay là
một phương pháp thực hành hiệu nghiệm đối với việc hình thành nhân cách
và trí lực của trẻ em... Theo quan điểm của tác giả Hà Nhật Thăng, trong cuốn
“Tổ chức hoạt động vui chơi ở Tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ, thể
lực cho học sinh”, “trò chơi là một hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một
nội dung nhất định và có những quy định mà người tham gia phải tuân thủ”[4,
tr 6]
Trò chơi học tập được hiểu một cách đơn giản là các trò chơi có nội dung
gắn với các hoạt động học tập của học sinh nhằm giúp học sinh học tập trên
lớp được hứng thú, vui vẻ hơn[5, tr 49]. Nội dung của trò chơi này là sự thi
đấu về một hoạt động trí tuệ nào đó như sự chú ý, sự nhanh trí, sức tưởng
tượng, sáng tạo...Ví dụ như các câu đố, triển lãm, đố bạn con gì?.
Theo F.l.Frratkina cho rằng: “Hành động chơi luôn là hành động giả
định. Hành động chơi mang tính khái quát, không bị giới hạn bởi cấu tạo

của đồ vật”[8, tr 12]. Vui chơi là hoạt động cần thiết, góp phần phát triển
nhân cách con người ở mọi lứa tuổi, nhất là đối với học sinh mẫu giáo và tiểu
học. Đối với học sinh mẫu giáo vui chơi là hoạt động chủ đạo, bước sang lứa
tuổi Tiểu học hoạt động học là chính. Khoảng cách giữa hai lứa tuổi này là
không lớn nhưng hoạt động chủ đạo có sự thay đổi lớn. Vì vậy, giáo viên phải
tạo cho các em sân chơi học tập: chơi mà học, học mà chơi.
Học sinh Tiểu học là lứa tuổi ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt
và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa, chú ý có chủ định của trẻ còn
8
yếu khả năng ghi nhớ chưa cao. Đối tượng cảm xúc của các em là những sự
vật hiện tượng cụ thể, sinh động[2, tr 36] mà theo quan điểm dạy học, quá
trình dạy học là một quá trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tế cuộc sống. Học sinh tiểu học tư duy
cụ thể còn chiếm ưu thế, phương pháp dạy học truyền thống theo hướng một
chiều: giáo viên truyền thụ học sinh tiếp nhận làm cho học sinh dễ mệt mỏi
chán nản trong giờ học, khó tiếp thu bài học. Giờ học diễn ra nặng nề, không
duy trì được khả năng chú ý của học sinh. Học là một hoạt động trong đó học
sinh là chủ thể, tổ chức dạy học sao cho học sinh phải luôn được vận động
vừa sức, tiếp thu những kiến thức cần đạt. Trò chơi là nhu cầu không thể thiếu
đối với trẻ và là một trong những hình thức đáp ứng yêu cầu đó.
Vì vậy, việc sử dụng trò chơi học tập là rất cần thiết, đa dạng hình thức
dạy học thay đổi không khí lớp học, giáo viên vẫn cho học sinh nắm bắt mọi
nội dung bài học trong tâm thế thoải mái, tự giác cao. Trò chơi góp phần đổi
mới phương pháp dạy học. Hoạt động vui chơi là điều kiện, là môi trường, là
giải pháp, là cơ hội thuận lợi nhất góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, tạo
điều kiện để trẻ phát triển tâm lực, thể lực, trí lực một cách tổng hợp. [4, tr
14]. Trò chơi giúp cho học sinh phát triển thêm những điều mới mà các em đã
tiếp cận trong sách giáo khoa, luyện tập những kĩ năng thao tác mà các em
được học tập. Qua vui chơi các em sẽ được rèn luyện các tình huống khác
nhau buộc mình phải có sự lựa chọn hợp lí, tự mình phát hiện được những

điểm mạnh, điểm yếu, những khả năng hứng thú cũng như nhược điểm của
bản thân. Tổ chức trò chơi khoa học hợp lí giúp học sinh phát triển về mặt thể
chất một cách tự nhiên rèn tính nhanh nhẹn, hoạt bát tự tin hơn trước đám
đông. Đặc biệt sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thao tác vận động và sự phát
triển tư duy khả năng điều khiển của thần kinh trung ương sẽ càng phát triển
chuẩn xác. Ngoài ra, sân chơi trò chơi rèn cho học sinh rất nhiều kĩ năng sống
cần thiết: kĩ năng tổ chức, kĩ năng giao tiếp, ứng xử, hợp tác, kiểm tra đánh
giá...
9
Việc tổ chức trò chơi học tập trong giờ học đem lại lợi ích thiết thực góp
phần tạo không khí hào hứng thoả tâm sinh lí trẻ, thúc đẩy tính tích cực hoạt
động sáng tạo, giờ học diễn ra nhẹ nhàng.
Chương 2. Nội dung và kết quả nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu.
2.1.1. Thực tế sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong dạy học:
Để biết được thực tế sử dụng trò chơi học tập trong dạy học chủ đề Tự
nhiên môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 2 hiện nay, chúng tôi đã tiến hành điều
tra và quan sát giáo viên ở trường Tiểu học thực tập Vĩnh Lợi.
Giáo viên nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng và tác dụng của trò
chơi trong dạy học. Với hơn 90% giáo viên đều cho rằng sử dụng trò chơi
trong dạy học làm cho học sinh không nhàm chán, giờ học nhẹ nhàng thoải
mái, nâng cao hiệu quả giờ dạy.
Trong khi đó một số giáo viên có tuổi vẫn nặng về áp dụng các phương
pháp dạy học truyền thống, kĩ năng tổ chức trò chơi còn hạn chế, giáo viên
vẫn làm việc nhiều còn học sinh thụ động. Thêm vào đó, do tác động của điều
kiện thời gian, cơ sở vật chất, đặc điểm học sinh cho nên việc áp dụng phương
pháp trò chơi trong học tập chưa phổ biến và áp dụng chưa có hiệu quả. Tài
liệu tham khảo về trò chơi học tập rất nhiều nhưng phần lớn các trò chơi có sự
lặp lại, chưa có tính hệ thống cụ thể. Sách giáo viên hướng dẫn soạn bài giảng
đưa ra rất ít, đơn điệu, chưa có tính hệ thống các trò chơi chỉ có 2 trò chơi:

Triển lãm, Tìm phương hướng bằng mặt trời. Một số trò chơi yêu cầu về sự
chuẩn bị rất phức tạp, với đặc điểm hiếu động của học sinh giáo viên rất khó
quản lí lớp học. Hơn 2/3 giáo viên đều rất hạn chế trong việc tổ chức trò chơi,
khi sử dụng thì các thầy cô đều áp dụng vào phần củng cố bài cuối giờ học,
rất ít thầy cô sử dụng trò chơi như là một hình thức dạy học bài mới. Vẫn tồn
tại số ít giáo viên luôn có sự rập khuôn từ sách thiết kế bài giảng các trò chơi,
lặp đi lặp lại các trò chơi gây ra sự nhàm chán cho học sinh. Bên cạnh đó một
số giáo viên có hướng tìm tòi đổi tên gọi hay cách chơi phong phú luôn tạo
10
cảm giác mới lạ cho học sinh. Vấn đề sử dụng trò chơi trong học tập là vấn đề
rất cần thiết. Giáo viên nhận thức một cách sâu sắc về việc sử dụng trò chơi
học tập trong dạy học.
Vì vậy, để sử dụng trò chơi học tập trong dạy học có hiệu quả việc cung
cấp các tài liệu tham khảo cũng như tổ chức các chuyên đề, hội thảo mở các
lớp tập huấn để không ngừng nâng cao kĩ năng tổ chức cho giáo viên là nhu
cầu cấp thiết. Đồng thời, các cấp quản lí, giáo viên cần đầu tư hơn nữa về
trang thiết bị dạy học. Thiết kế các giờ dạy Tự nhiên và Xã hội hợp lí, áp
dụng mọi phương pháp tối ưu trong dạy, chơi nhưng học, hoạt động vui chơi
và học tập có sự cân đối.
Từ thực tế sử dụng như vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài nhằm hoàn thiện
hệ thống trò chơi: sáng tác một số trò chơi dễ áp dụng với hình thức tổ chức
dễ dàng vào các bài học, sự chuẩn bị đơn giản phù hợp với đặc điểm trường
học, giáo viên và đặc điểm tâm lí của học sinh đem lại hiệu quả cao.
2.1.2. Nguyên tắc thiết kế và sử dụng trò chơi học tập:
Sau khi phân tích nội dung chương trình, chúng tôi thấy có hai dạng bài
gồm: Dạng bài về thế giới động thực vật gồm các bài: Cây sống ở đâu?, Một
số loài cây sống trên cạn, Một số loài cây sống dưới nước, Loài vật sống ở
đâu?, Một số loài vật sống trên cạn, Một số loài vật sống dưới nước, Nhận
biết cây cối và các con vật. Dạng bài thứ 2 là: dạng bài về thiên thể gồm các
bài: Mặt trời, Mặt trời và các phương hướng, Mặt trăng và các vì sao.

Khi thiết kế trò chơi cho chủ đề này, chúng tôi cần tuân thủ các nguyên
tắc thiết kế: Thứ nhất là đặt tên trò chơi phải hấp dẫn gây sự chú ý của học
sinh ngay từ đầu, phải thể hiện được nội dung trò chơi, tên không được quá
dài. Ví dụ : Ong đi tìm nhụy, Đố bạn con gì?...Thứ hai là không phải bài học
nào cũng có thể áp dụng trò chơi, đặc biệt là các bài trong nhóm dạng bài về
thiên thể áp dụng rất khó. Khi thiết kế trò chơi cần xác định cụ thể hệ thống
trò chơi nào phục vụ cho dạng bài gì ở hoạt động nào của bài dạy khởi động
trước khi học, cung cấp kiến thức mới hay củng cố, ôn tập kiến thức. Chơi là
11
một nhu cầu tự nhiên mà theo Xamarucôva- nhà tâm lí học Nga- nói về trò
chơi trẻ em như sau: “ Trò chơi trẻ em không mang tính trách nhiệm. Nó là
một biểu hiện mang tính tự do, tự lực, tự hoạt động của chúng. Trong trò
chơi, đứa trẻ không phụ thuộc vào nhu cầu thực hành, đứa trẻ chơi xuất
phát từ những nhu cầu và hứng thú trực tiếp của bản thân”. Nhưng trò chơi
học tập luôn phải tuân theo nguyên tắc thứ ba thể hiện được tính thi đua giữa
các cá nhân, giữa các nhóm để tạo ra không khí thi đua hào hứng đem lại hiệu
quả cao giúp phát triển những kĩ năng cần thiết cho học sinh: tính hợp tác,
kiên trì, nổ lực... Chơi dù để học hay chỉ với mục đích chơi đều phải tuân theo
nguyên tắc thứ tư có tính kỉ luật, cách thức chơi cụ thể riêng biệt của mỗi trò
chơi. Người ta gọi đó là luật chơi. Luật chơi khiến cho trò chơi hấp dẫn tạo ra
sự bình đẳng giữa người chơi. Khi thiết kế, chúng tôi đã chọn lọc và tìm ra
các điểm chung của các trò chơi để tạo nên hệ thống. Ví dụ hệ thống trò chơi:
Gọi hình đáp tiếng, Kể nhanh kể đúng, Cây gì sống ở đâu?... được gọi tắt
thành trò nhận biết đối tượng với cách thực hiện chơi là giáo viên sẽ chia lớp
thành hai đội, các đội sẽ nêu tên các đối tượng sao cho phù hợp với những đặc
điểm của đối tượng đó.
Nguyên tắc cuối cùng: Khi chơi học sinh mong đợi nhất đó là kết quả trò
chơi vấn đề đưa ra thang đánh giá trò chơi là rất quan trọng. Trò chơi học tập
là một hoạt động mới mẻ, đầy sáng tạo. Nhiều trò chơi được sử dụng nhiều
lần nhưng vẫn lôi cuốn người tham gia. Bởi lẽ, cả quá trình chơi và kết quả

trò chơi là một ẩn số bất ngờ đối với tất cả người tham gia. Giáo viên cần có
hình thức khen thưởng cho đội thắng, phạt nhẹ nhàng đội thua như thế nào có
thể là cho các em múa theo lời bài hát...
Thiết kế trò chơi học tập dựa vào các nguyên tắc trên và khi sử dụng
chúng cần đảm bảo các yêu cầu cụ thể. Như chúng ta đã biết không nên áp đặt
cho học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập.
Khi sử dụng bất kì phương pháp dạy học gì cần chú ý các yêu cầu của
phương pháp đó. Khi sử dụng trò chơi trong học tập trong chủ đề Tự nhiên,
12
giáo viên cần phải đảm bảo các yêu cầu. Với những đặc điểm hiếu động và
ghi nhớ của học sinh Tiểu học, đầu tiên trò chơi phải dễ chơi có luật chơi rõ
ràng, dễ hiểu. Thứ hai, trò chơi phải gắn liền với mục tiêu - nội dung cho từng
bài học: Bất kì bài học nào cũng có mục tiêu đề ra kết hợp với nội dung kiến
thức truyền đạt. Tùy vào mục tiêu, nội dung của từng bài mà giáo viên có sự
lựa chọn cho phù hợp. Ví dụ: Khi dạy bài “Một số loài vật sống trên cạn” thay
vì truyền đạt kiến thức một cách thụ động chúng tôi đã cho học sinh chơi trò
chơi học tập: Hoa nào đẹp nhằm mục đích: giúp học sinh tự nắm bắt và ghi nhớ
dễ dàng loài vật nào là vật nuôi và loài vật nào sống hoang dã, rèn kĩ năng quan
sát, tạo không khí học tập. Với các phương tiện chuẩn bị: hai nhụy hoa: vật nuôi-
vật hoang dã, các cánh hoa là hình ảnh các con vật. Trong thời gian khoảng 7- 8
phút giáo viên sẽ chia lớp thành hai đội. Mỗi đội gồm 5 bạn, trên tay mỗi bạn sẽ
có các cánh hoa. Nhiệm vụ của hai đội là lần lượt lên gắn các cánh hoa vào nhụy
hoa của đội mình. Kết thúc trò chơi: đại diện mỗi đội trình bày bông hoa của đội
mình, lớp và giáo viên nhận xét tuyên dương đội thắng cuộc.
Thứ ba, trò chơi phải phù hợp với năng lực của học sinh, thu hút được
nhiều học sinh tham gia. Theo Usinxki, trò chơi đối với trẻ em là một hoạt
động tự lực. Trẻ em hứng thú với trò chơi vì trong trò chơi có sự sáng tạo, trẻ
là những người trưởng thành, đang thử sức lực của mình và tự tổ chức công
việc của mình. Giáo viên là người tổ chức học tập cho học sinh. Chúng ta cần
tôn trọng ý kiến các em, cần tìm hiểu hứng thú của các em với trò chơi gì ở

mức độ nào, nó tác động đến việc học ra sao? Ở chủ đề này, các em được tìm
hiểu rõ hơn về thế giới tự nhiên xung quanh mình, những cái vốn dĩ rất quen
thuộc với mình, khi tổ chức trò chơi phải phù hợp với đặc điểm bài học giúp
học sinh nhìn nhận thế giới một cách chính xác và rõ ràng hơn. Ví dụ các em
chơi trò chơi tìm phương hướng với mục đích: giúp các em xác định phương
hướng biết được vị trí mình đang đứng là ở phương nào? Giáo viên chuẩn bị:
các thẻ từ ghi tên các phương, ông mặt trời. Luật chơi: Đội nào xác định
nhanh và đúng phương hướng cũng như vị trí mặt trời sẽ là đội thắng cuộc.
13
Giáo viên chia lớp thành hai đội chơi trong vòng 5- 7 phút. Mỗi đội gồm 5
bạn: một đội xác địng phương hướng khi mặt trời lặn và mặt trời mọc. Tổng
kết trò chơi: lớp nhận xét và tuyên dương đội thắng cuộc...
Ngoài ra, trò chơi phải đảm bảo tính đồng đều, vừa sức học sinh để mọi
học sinh trong lớp đều được tham gia. Ví dụ: Trong tiết ôn tập chủ đề giáo
viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Giải câu đố” nhằm giúp học sinh
nắm chắc kiến thức về tự nhiên, rèn năng lực tư duy, phản ứng nhanh. Giáo
viên chuẩn bị hệ thống câu đố về thế giới tự nhiên. Luật chơi: đội nào ghi
được nhiều điểm là đội thắng cuộc. Giáo viên chia lớp thành hai đội. Sau khi
giáo viên đọc câu đố hai đội sẽ đưa tay dành quyền trả lời. Đội nào trả lời
đúng sẽ ghi 1 điểm, đội nào không trả lời được quyền trả lời thuộc về đội còn
lại. Tổng kết trò chơi đội nào ghi điểm nhiều thắng cuộc.
Thứ tư, trò chơi phải đảm bảo tính giáo dục thẩm mĩ: Chúng ta dạy học sinh
không chỉ về thế giới tự nhiên mà còn dạy học sinh làm người. Do đó, trò chơi còn
phải gớp phần giúp các em trở thành những người tốt, biết bảo vệ tự nhiên. Chẳng
hạn, thông qua trò chơi Con gì sống ở đâu?, Cây gì sống ở đâu? Chúng ta giúp các
em biết thêm được thêm nhiều về nơi sống của các loài vật, loài cây hình thành cho
các em thái độ bảo vệ môi trường sống của chúng, tinh thần đoàn kết, hợp tác trong
học tập.
Do đó khi áp dụng bất kì trò chơi nào có sử dụng phương tiện trực quan
cần chuẩn bị chu đáo, cẩn thận, rõ ràng, đẹp thu hút học sinh chú ý.

Cuối cùng, trò chơi phải đảm bảo an toàn, tiết kiệm phù hợp với cơ sở
vật chất của trường lớp. Đối với trẻ em, đồ chơi là phương tiện để chơi, đã
chơi là phải có đồ chơi và thời gian một tiết học có qui định phù hợp với mục
tiêu đề ra. Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, cách tổ chức, các phương tiện
trực quan cần chuẩn bị một cách chu đáo để khi lên lớp không mất thời gian,
hạn chế tốn kém về vật chất. Phương pháp trò chơi cũng chỉ là một hình thức
dạy học nên khi sử dụng phải đảm bảo thời gian cụ thể, trò chơi gì đáp ứng yêu
cầu dạy học nào? Học sinh Tiểu học rất hiếu động, giáo viên phải có khả năng
14
quản lí lớp, kĩ năng tổ chức trò chơi đảm bảo an toàn cho học sinh trong khi chơi
là điều tất yếu.
2.1.3. Cơ sở, các tiêu chí phân loại trò chơi theo chủ đề Tự nhiên:
Sau quá trình nghiên cứu nắm bắt nội dung chủ đề Tự nhiên dựa vào các
tiêu chí phân loại trò chơi theo 2 cách: theo tính chất bài học và theo nội dung
bài học.
Theo tính chất bài học chúng tôi đã hệ thống trò chơi theo 4 dạng: Trò
chơi dùng để khởi động trước khi vào bài mới, dạy bài mới, củng cố kiến thức
sau mỗi tiết học và trò chơi phục vụ ôn tập chủ đề lớn.
Vào đầu mỗi tiết học giáo viên cần sử dụng hệ thống trò chơi tạo không
khí thoải mái trước giờ học, từ một số trò chơi tạo nền giáo viên giới thiệu
vào bài mới. Ở dạng bài này chúng tôi đã xây dựng được hệ thống trò chơi
nhanh tay lẹ mắt gồm các trò chơi: Con công múa; Chim bay, cò bay; Làm theo
những gì tôi nói đừng làm theo những gì tôi làm, Cá bơi cá lượn bùm chiu, Muỗi
bay muỗi đốt, Con ong...
Đi vào các hoạt động dạy học chúng tôi hệ thống các trò chơi giúp học
sinh tự nắm lấy kiến thức mới. Hệ thống trò chơi đó là: “Nhận biết đối
tượng” gồm các trò: Trò chơi đố bạn con gì?, Ai biết nhiều hơn, Kể nhanh kể
đúng, Gọi hình đáp tiếng, Ai nhanh hơn và đúng hơn, Xì điện... hay trò chơi Hoa
nào đẹp. Đến cuối giờ học giáo viên tổ chức cho các em chơi với hệ thống trò chơi
như “Ghép 2 đối tượng” gồm các trò: Trò chơi sắp xếp hình, Cây gì sống ở đâu?,

Tiếp sức hay trò chơi “ Thử tài học sinh” với các trò: Tìm phương hướng mặt
trời, Nhà du hành vũ trụ, Hát nối, Đối đáp... giúp học sinh củng cố nắm chắc
những gì mình vừa học.
Sau 10 bài học các em đi đến với tiết ôn tập toàn chủ đề là lúc các em nhớ lại
những gì đã được học, trong tiết học này chúng ta nên tổ chức các trò chơi tái hiện lại
nội dung các kiến thức đã học mà không thấy nhàm chán với các trò: Giải câu đố, Tổ
chức triểm lãm, Hái hoa dân chủ, Chọn quà tặng, Ô chữ kì diệu, Chỉ tên những kẻ
giấu tên, Con vật bí mật...
15
Bảng 1:
* Phân loại trò chơi theo tính chất bài học:
STT Loại hoạt động Tên trò chơi
1. Khởi động
- Alibaba, nhanh tay lẹ mắt, con công hay
múa, con thỏ ăn cỏ uống nước vào hang,
chanh chua cua kẹp, chim bay- cò bay...
2. Dạy bài mới - Ghép 2 đối tượng, xếp hình, nối nhanh vào
hình, ai biết nhiều hơn, kể nhanh kể đúng, gọi
hình đáp tiếng, hoa nào đẹp, .
3.
Củng cố kiến thức
- Ghép 2 đối tượng, xếp hình, nối nhanh vào
hình, ai biết nhiều hơn, kể nhanh kể đúng, gọi
hình đáp tiếng, nhìn nhanh nhìn đúng, tiếp
sức, thử tài học sinh,đố bạn con gì?, giải câu
đố, Cây gì sống ở đâu?...
4.
Ôn tập chủ đề
- Giải câu đố, tổ chức triểm lãm, hái hoa dân
chủ, ô chữ kì diệu, chỉ tên những kẻ giấu tên,

đếm nhanh, Ai nhanh ai tài, tiếp sức...
Theo nội dung bài học trò chơi áp dụng với 2 dạng bài: Bài về thế giới
động thực vật ở các bài này các em sẽ được tìm hiểu trực tiếp về các loài cây,
loài vật xung quanh các em, chúng tôi đã hệ thống các dạng trò chơi cho kiểu
bài này gồm: Điền đúng thông tin, Nối nhanh vào hình, Triển lãm, Câu đố về
các loài vật và loài cây, Gọi hình-đáp tiếng, Kể nhanh kể đúng. Dạng bài thứ hai
mà chúng tôi thiết kế các bài về thiên thể với các cách xác định phương hướng, thế
giới vũ trụ, hệ thống trò chơi gồm: Tìm phương hướng bằng mặt trời, Ai thông
minh hơn, Du hành vũ trụ.
16
Bảng 2:
* Phân loại trò chơi theo nội dung bài học:
STT Nội dung bài học Tên trò chơi
1
Thế giới động
thực vật
- Tìm tên các con vật trong ô chữ, Xếp hình,
Nối nhanh vào hình, Ai biết nhiều hơn, Kể
nhanh kể đúng, Gọi hình đáp tiếng, Tiếp sức,
Hoa nào đẹp, Hội thi triển lãm, Đố bạn con gì?,
Giải câu đố, Nêu đúng tên, Cây gì sống ở đâu?,
Thi kể tên, Ai nhanh hơn, Xì điện, Hát nối. . .
2 Các thiên thể
Nhà du hành vũ trụ, Tiếp sức, Ai nhanh hơn,
Tìm phương hướng bằng mặt trời...
Tuỳ vào từng dạng bài dạy và dựa trên hệ thống trò chơi xây dựng các
giáo viên có thể sử dụng các trò chơi vào các bài dạy một cách có hiệu quả
nhất.
2.1.4. Quy trình lựa chọn và thực hiện trò chơi:
Để xây dựng hoàn chỉnh hệ thống trò chơi hoàn chỉnh đáp ứng nội dung

các bài học trong chủ đề Tự nhiên, chúng tôi đã tiến hành theo các bước: Đầu
tiên sau khi chọn phân tích phần Tự nhiên trong chương trình Tự nhiên và Xã
hội lớp 2: chúng tôi nghiên cứu đặc điểm nội dung cấu trúc chương trình và
tìm hiểu các trò chơi trong các sách tham khảo. Thứ hai dựa vào các tiêu chí
phân loại trò chơi chúng tôi đã tập hợp phân tích những ưu cũng như nhược
điểm của các trò chơi đó. Thứ ba đối tượng phục vụ trò chơi là học sinh việc
tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh, giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất
của trường học rất quan trọng. Thứ tư, chúng tôi nắm bắt các ưu điểm của các
trò chơi vốn có tìm cách khắc phục hạn chế vốn có của nó, sưu tầm mở rộng
hệ thống trò chơi. Từ những trò chơi sưu tầm được kết hợp với trò chơi sáng
tác được chúng tôi bước sang bước thứ năm tìm ra các đặc điểm chung của
chúng và nhóm lại tạo thành hệ thống. Từ những hệ thống trò chơi kết hợp
soạn giáo án ứng dụng các trò chơi vào thực tiễn giảng dạy tại các lớp ở
trường phổ thông khảo sát tính thực dụng của đề tài.
17
Để lựa chọn và thực hiện một trò chơi chúng ta cần thực hiện theo 4 bước.
Sau khi nắm bắt, phân tích yêu cầu của từng bài, tiết học chúng ta đi vào bước 1:
Lựa chọn trò chơi: dựa vào hệ thống trò chơi được xây dựng cần lựa chọn trò chơi
phù hợp. Đi vào bước 2: Chuẩn bị tổ chức trò chơi: để tiết dạy thành công việc
xây dựng giáo án với đầy đủ mục tiêu, ý nghĩa, nội dung các hoạt động tiến hành
cụ thể, chuẩn bị các phương tiện phục vụ trò chơi, thang đánh giá trò chơi là rất
quan trọng. Đến phần mà mọi học sinh hứng thú nhất đó là bước 3: Tổ chức trò
chơi: chúng ta cần nêu rõ tên gọi, qui luật chơi, các yêu cầu về tổ chức kỉ luật,
cách phân thắng thua như thế nào...cho học sinh chơi và theo dõi.
Cuộc chơi nào rồi cũng đến lúc kết thúc đó là bước 4 của quá trình tổ
chức trò chơi. Các thành phần tham gia trò chơi đưa ra kết qủa làm được sau
thời gian chơi, giáo viên đưa ra đánh giá chung về kết quả trò chơi, tuyên
dương khen thưởng đội thắng đưa ra hình phạt với đội thua.
2.1.5. Hệ thống trò chơi thiết kế trong chủ đề Tự nhiên:
Dựa vào các tiêu chí và cơ sở phân loại trò chơi kết hợp nghiên cứu hệ

thống bài học ngoài hai trò chơi trong sách thiết kế, chúng tôi đã xây dựng
bảng hệ thống trò chơi tương ứng với bài áp dụng:
Bảng 3
* Hệ thống trò chơi, tên bài áp dụng
STT Tên trò chơi Bài áp dụng Thời gian
1 Ghép 2 đối tượng Bài 28, bài 29 7-9 phút
2 Xếp hình Bài 32 8- 10 phút
3 Nối nhanh vào hình Bài 32 8- 10 phút
4 Hoa nào đẹp Bài 28, bài 29 8- 10 phút
5 Tổ chức triển lãm tranh Bài 25, 26, 27, 28, 29, 30. 8- 10 phút
6 Ong tìm nhụy Bài 28,29 8- 10 phút
7 Tìm nhà Bài 28, 29 8- 10 phút
8 Ai biết nhiều hơn Bài 27, 30 8- 10 phút
9 Đố bạn con gì? Bài 27, 28, 29, 30 8- 10 phút
10 Ai nhanh hơn và đúng hơn? Bài 27, 30, 34 8- 10 phút
11 Kể nhanh kể đúng, Bài 25, 26, 27, 28, 29, 30 8- 10 phút
12 Gọi hình đáp tiếng Bài 25, 26, 27, 28, 29, 30 8- 10 phút
13 Xì điện Bài 29 8- 10 phút
14 Hát nối Bài 27 3- 5 phút
18
15 Thi kể tên Bài 27, 30 6- 8 phút
16 Tìm kẻ dấu tên Bài 34 10- 12 phút
17 Con vật bí mật Bài 34 8- 10 phút
18 Giải câu đố? Bài 27, 34 10- 12 phút
19 Ô chữ kì diệu Bài 34 10- 12 phút
20
Tìm phương hướng bằng
mặt trời.
Bài 32 8- 10 phút
21 Nhà vũ trụ tài ba Bài 33 8- 10 phút

22 Nhà du hành vũ trụ Bài 33 8- 10 phút
23 Hái hoa dân chủ. Bài 34 10- 12 phút
24 Chọn quà tặng Bài 34 10- 12 phút
25
Con thỏ, ăn cỏ, uống nước,
vào hang
Tất cả các bài: ở phần
khởi động
1- 3 phút
26
Nói theo những gì tôi nói
đừng làm những gì tôi làm
Tất cả các bài: ở phần
khởi động
1- 3 phút
27 Phe nào thắng Bài 27, 34 8- 10 phút
28 Hát mà nghe Bài 27, 30 3- 5 phút
29 Con công hay múa,
Tất cả các bài: ở phần
khởi động
1- 3 phút
30 Chim bay- cò bay
Tất cả các bài: ở phần
khởi động
1- 3 phút
Từ các trò chơi đó, chúng tôi dựa vào các đặc điểm giống nhau về mục
đích sử dụng nhóm trò chơi thành 4 nhóm sau: trò chơi ghép hai đối tượng,
nhận biết đối tượng, thử tài học sinh, khởi động giờ học. Cụ thể:
Bảng 4
STT Tên trò chơi Biến thể trò chơi

1
Ghép 2
đối tượng
- Xếp hình, Nối nhanh vào hình, Hoa nào đẹp, Tìm
phương hướng bằng mặt trời, Hội thi triển lãm,
Chạy tiếp sức, Tìm nhà, Ong tìm nhụy...
2
Nhận biết
đối tượng
Đố bạn con gì?, Ai biết nhiều hơn?, Kể nhanh kể
đúng, Gọi hình đáp tiếng, Xì điện, Hát nối, Thi kể
19
tên, Tìm kẻ giấu tên, Giải câu đố?, Ô chữ kì diệu,
Con vật bí mật, Ai nhanh hơn và đúng hơn, Hái hoa
dân chủ, Chọn quà tặng...
3 Thử tài
học sinh
- Tổ chức triển lãm tranh, Nhà vũ trụ tài ba, Tìm
phương hướng bằng mặt trời, Nhà du hành vũ trụ,
Đối đáp, Hát nối, Hát mà nghe...
4
Nhanh tay
lẹ mắt
- Con thỏ, ăn cỏ, uống nước, vào hang; Nói theo
những gì tôi nói đừng làm những gì tôi làm, Con
ong, Con công hay múa, Chim bay- cò bay, Cá
bơi- cá lượn- bùm chíu, ...
Trong hệ thống đó, những trò chơi mà chúng tôi tổng hợp được từ tài
liệu: Triển lãm tranh, Hoa nào đẹp?, Đố bạn con gì?, Con công hay múa, Tìm
phương hướng bằng mặt trời. Ngoài ra, qua quá trình thực nghiệm sư phạm

các thầy cô giáo cũng đưa ra một số trò chơi như: Nhà du hành vũ trụ tài ba,
Hội thi tranh...Phần hệ thống trò chơi chủ yếu do chúng tôi dựa trên đặc điểm
tâm lí của học sinh, công tác chuẩn bị của giáo viên, cơ sở vật chất của
trường, thay đổi về cách thức tiến hành... đã xây dựng nên một số trò chơi với
tên gọi, hình thức tổ chức, công tác chuẩn bị khác... như trò chơi: Hát nối, Hát
mà nghe, Hái hoa dân chủ, Tìm kẻ giấu tên, Chọn quà tặng, Làm theo những
gì tôi nói đừng làm theo những gì tôi làm, Giải câu đố, Tìm phương hướng,
Ong tìm nhụy, Tìm nhà...
2.2. THỰC NGHỆM SƯ PHẠM
2.2.1. Mục đích, yêu cầu thực nghiệm:
- Tiến hành thực nghiệm sử dụng trò chơi học tập ở các bài thuộc chủ
đề Tự nhiên cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Vĩnh Lợi nhằm đánh giá,
kiểm nghiệm tính hiệu quả của hệ thống trò chơi đã xây dựng được. Qua đó,
khẳng định hơn nữa vai trò của trò chơi trong dạy học, tạo hứng thú học tập,
nâng cao hiệu quả giờ dạy.
20
- Yêu cầu: Tiến hành thực nghiệm việc sử dụng trò chơi trong dạy học
một số bài trong chủ đề Tự nhiên môn Tự nhên và Xã hội tại lớp 2 phải đảm
bảo tính khách quan, chân thực.
- Quan sát kết hợp đứng lớp, điều tra, thống kê và xử lí số liệu rút ra
nhận xét, kết luận.
2.2.2. Nội dung thực nghiệm:
Chúng tôi đã thực nghiệm 3 bài trong chủ đề Tự nhiên môn Tự nhiên và
Xã hội lớp 2:
- Một số loài cây sống trên cạn
- Loài vật sống ở đâu?
- Một số loài vật sống trên cạn
Chúng tôi đã phát phiếu thăm dò đối với học sinh, phiếu trưng cầu ý kiến
đối với giáo viên, thu thập xử lí số liệu.
2.2.3. Đối tượng thực nghiệm: Khối lớp 2 trường Tiểu học Vĩnh Lợi.

Học sinh khối lớp hai trường tiểu học Vĩnh Lợi với 295 học sinh. Các em
học bán trú 2 buổi/ ngày. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm tại lớp 2/5. Lớp
học với diện tích 45m2 và 44 học sinh trong đó có 23 học sinh nam. 98% học
sinh đi học đúng độ tuổi, các em đều là con cán bộ, nhân viên, làm thợ điều
kiện sống đảm bảo chỉ có 2 học sinh có hoàn cảnh khó khăn. Thuận lợi của
lớp: được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm giúp đỡ 100% học sinh và giáo
viên có đủ SGK và đồ dùng học tập. Lớp học đạt kết quả tốt: 89% học sinh
đạt loại giỏi, 100% có hạnh kiểm đạt. Bên cạnh đó vẫn tồn tại một số khó
khăn: một số em tiếp thu bài và làm bài còn chậm, rất hiếu động. Đối với các
môn học như Tự nhiên và xã hội, Đạo đức... tỉ lệ học sinh đạt loại giỏi hạn
chế chỉ chiếm khoảng: 25%, còn lại là loại khá.
2.2.4 Tiến hành thực nghiệm:
Đối với bài:
- Một số loài cây sống trên cạn
- Loài vật sống ở đâu?
21
- Một số loài vật sống trên cạn
2.2.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm:
Sau khi tiến hành thực nghiệm ba lần đối với ba bài học tại các lớp khối 2,
chúng tôi nhận thức rằng: Trong giờ học, học sinh rất hăng say phát biểu bài,
nắm bắt bài nhanh, không khí lớp học sôi nổi, thoải mái.
Ở bài: Một số loài cây sống trên cạn, chúng tôi được dự giờ tiết dạy của
bạn không tổ chức trò chơi trong giờ học. Chúng tôi nhận thấy lớp học rất
trầm, khả năng quản lí của giáo viên còn hạn chế. Cũng với các hoạt động như
vậy nhưng giáo viên không tổ chức cho học sinh có tính thi đua, hiệu quả tiết
học thấp. Chúng tôi tiến hành thực nghiệm trò chơi: “Hội thi triển lãm” ở hoạt
động thứ hai và nhận thấy lớp học sôi nổi, sau tiết học các em nắm bắt thêm
được rất nhiều loài cây sống trên cạn mà trong sách không nói đến. 90% giáo
viên đồng ý với hình thức tổ chức trò chơi mà chúng tôi đưa ra.
Sau giờ học, chúng tôi phát phiếu kiểm tra đối với học sinh thì hầu hết

các học sinh đều rất thích chơi trò chơi khi học, hiểu bài hơn so với các tiết
học thông thường. Tiết học diễn ra trôi chảy, đảm bảo mục tiêu, nội dung đề ra.
Bảng 5
Đánh giá Số lượng giáo viên Tỉ lệ %
Cung cấp kiến thức mới 1 20%
Củng cố kiến thức 4 80%
Kết quả làm bài kiểm tra của học sinh ở các lớp thực nghiệm như sau:
Bảng 6
* Kết quả lần thực nghiệm thứ nhất:
Bài : Một số loài cây sống trên cạn
Điểm
5 6 7 8 9 10 Tổng
Lớp
TN
Số HS 0 0 0 3 35 6 44
Tỉ lệ 0 0 0 6,8% 79,6% 13,6% 100%
Lớp
ĐC
Số HS 0 0 4 20 19 2 45
Tỉ lệ 0 0 8,9% 44,5 42,2% 4,4% 100%
Qua phát phiếu trưng cầu ý kiến đối với giáo viên chúng tôi nhận thấy:
22
Việc thiết trò chơi của chúng tôi tương đối hợp lí. Các thầy cô đều đồng ý
với việc thực hiện trò chơi ở bài đó. Ở mỗi lớp chúng tôi tiến hành thực hiện
một trò chơi với các mục đích khác nhau: có thể là khởi động trước giờ học,
truyền đạt kiến thức mới, củng cố kiến thức sau bài học.
Sau tiết dạy bài Loài vật sống ở đâu? Chúng tôi phát phiếu thực nghiệm
và thu được một số kết quả: Đối với bài này theo các thầy cô áp dụng:
Bảng 7
Tên trò chơi

Cung cấp kiến thức Củng cố bài
Số lượng GV Tỉ lệ Số lượng GV Tỉ lệ
Giải câu đố? 2 40% 3 60%
Triển lãm tranh 4 80% 1 20%
Trong một bài học, giáo viên có thể sử dụng một trong hai trò chơi trong
hoạt động Dạy bài mới cho học sinh thay vì phải truyền thụ kiến thức một
cách thụ động. Ở cuối tiết học, giáo viên có thể tổ chức cho lớp chơi trò chơi
để thay đổi không khí lớp học hoặc củng cố kiến thức vừa học được. Theo
khảo sát thực tế, chúng tôi thu được:
Phần lớn 80% giáo viên sử dụng trò chơi “Giải câu đố?” vào cuối tiết
học nhằm củng cố kiến thức cho học sinh. Với khoảng 20% thầy cô áp dụng
“Triển lãm tranh” để các nhóm thi đua trưng bày các sản phẩm của nhóm
mình. Không có thầy cô nào sử dụng cả hai trò chơi trong một tiết dạy.
Bảng 8
* Thời gian thực hiện cho các trò chơi:
Tên trò chơi Hội thi triển lãm Đố bạn con gì?
Thời gian 8- 10 phút 4-5 phút
Đối với bài: “Một số loài vật sống trên cạn”, chúng tôi thực nghiệm hai
trò chơi: “Hoa nào đẹp” và “Tiếp sức” với hai mục đích khác nhau. Tất cả
giáo viên đều đồng ý có thể tổ chức 1 trong 2 trò chơi. Kết quả như sau:
Tên trò chơi Số lượng giáo viên Tỉ lệ
23
Tiếp sức 2 40%
Hoa nào đẹp? 3 60%

Cả hai trò chơi đều tạo hứng thú học tập tích cực cho học sinh. Với trò
chơi “ Hoa nào đẹp” thì hình thức tổ chức trò chơi sinh động, học sinh dễ
chơi, giáo viên chuẩn bị đơn giản và dễ quản lí lớp hơn. Thời gian tổ chức trò
chơi hợp lí là: 8- 10 phút.
Đối với trò chơi “Tiếp sức” thì các thầy cô đưa ra một số tên gọi biến thể

của trò chơi như: Triển lãm tranh, Ai nhanh hơn...Đây là một hình thức tổ
chức dạy học rất hay và hiệu quả giờ học tăng lên rất nhiều. Kết quả đó là,
chúng tôi phát phiếu kiếm tra nhằm khảo sát đối với 2 lớp: lớp 2/5 và lớp 2/4.
Ở lớp 2/5, chúng tôi tổ chức trò chơi “ Ai nhanh hơn”, lớp 2/4 không có tổ
chức trò chơi trong dạy học. Kết quả khảo sát như sau:
Bảng 9
* Bảng phân phối kết quả kiểm tra
Điểm 5 6 7 8 9 10 Tổng
Lớp
TN
Số HS 0 0 5 6 30 3 44
Tỉ lệ 0 0 11,4% 13,7% 68,1% 6,8% 100%
Lớp
ĐC
Số HS 0 2 7 20 15 1 45
Tỉ lệ 0 4,4% 15,6% 44,5 33,3% 2,2% 100%
Sau ba lần thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy tổ chức trò chơi trong dạy
học là rất cần thiết. Qua trò chơi, khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh tốt
hơn, thời gian học sinh làm bài kiểm tra nhanh hơn, kết quả đạt cao hơn. Khi
tổ chức trò chơi, yêu cầu người giáo viên có sự chuẩn bị kĩ phong phú về hình
ảnh, các thông tin cần thiết. Từ đó, ngoài những thông tin hay những con vật,
cây cối có trong bài học, các em còn được mở rộng thêm vốn hiểu biết. Sau
khi tham gia các trò chơi, kiến thức của học sinh có được khắc sâu hơn đồng
thời giúp các em ghi nhớ lâu hơn. Mỗi bài có thể thiết kế từ một đến hai trò
chơi và sử dụng trong 2 hoạt động: hoạt động Dạy bài mới, hoặc phần Củng
cố kiến thức cho học sinh sau giờ học.
24
2.3 Kết quả nghiên cứu:
Với những nhiệm vụ đặt ra ban đầu, sau khi nghiên cứu và hoàn thành
khoá luận đã giải quyết một số vấn đề sau:

- Nghiên cứu cơ sở lí luận từng bước vận dụng để giải quyết vấn đề đặt ra.
- Thông qua nghiên cứu tài liệu, nội dung chủ đề đưa ra hệ thống trò chơi
phục vụ nội dung bài dạy chủ đề Tự nhiên lớp 2.
- Dưới sự hướng dẫn nghiên cứu của giảng viên hướng dẫn, chúng tôi dã
tiến hành thực nghiệm đề tài ở trường thực tập, quan sát, thống kê số liệu
hoàn thành khóa luận.
PHẦN 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ - ĐỀ XUẤT.
25

×