Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

BÀI DỰ THI CUỘC THI PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP BẬC ĐẠI HỌC HIỆU QUẢ NHÓM TẦM NHÌN MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 39 trang )

Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
MỤC LỤC
Trang
Trang 1 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1: Các đặc điểm của ba mô hình giáo dục 11
Trang 2 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
LỜI NÓI ĐẦU
Đại học! Hai tiếng ấy luôn là mục tiêu của những người học sinh. Dẫu biết
rằng có rất nhiều con đường để đi tới thành công nhưng con đường học Đại học
luôn là lựa chọn đầu tiên của mỗi người học sinh. Ngay cả Bill Gates đã tạm dừng
công việc học tập tại Đại học nổi tiếng Havard để thành lập công ty vào năm 1975 và
khi sự nghiệp đạt tới đỉnh cao, trở thành người giàu nhất thế giới thì ông lại quay về
hoàn thành nhiệm vụ học tập tại trường. Như thế đủ để thấy rằng, việc học là việc
làm suốt đời và ai cũng cần phải học bởi “ Bác học không có nghĩa là ngừng học”.
Để vào được giảng đường là một điều khó và để tốt nghiệp ra trường với một
kiến thức vững vàng lại là một điều khó hơn. Bởi việc học tập tại giảng đường Đại
học khác rất nhiều so với việc học tại trường phổ thông. Vì thế xác định mục tiêu
học tập rõ ràng kết hợp rèn luyện nhiều kỹ năng học tập là phương pháp giúp chúng
ta học tập hiệu quả nhất. Cuộc thi “Phương pháp học Đại học hiệu quả” do Nhà Văn
Hóa Sinh Vên tổ chức chính là một sân chơi để các bạn sinh viên có thể trao đổi,
học hỏi lẫn nhau để cùng học tốt tại Đại học. Nhóm chúng tôi cũng muốn dành vài
trang nhỏ được rút ra từ kinh nghiệm bản thân và của các sinh viên đã đạt các thành
tích tốt trong việc học khác để cùng trao đổi với các bạn tham dự cuộc thi.
Mọi vật muốn tồn tại và phát triển thì phải biết thay đổi và dám thay đổi. Thay


đổi theo chiều hướng tích cực là thay đổi để loại bỏ đi những cái lạc hậu, lỗi thời và
tiếp nhận những cái hay, cái mới. Và để thay đổi được thì cần phải có một tầm nhìn.
Tầm nhìn để biết xa gần, biết rộng hẹp, biết cao thấp mà thay đổi phù hợp. Vì vậy,
nhóm chúng tôi lấy tên “Tầm nhìn mới” với ý nghĩa rằng mình sẽ có được một tầm
nhìn tiên tiến để phát triển, một tầm nhìn không bị bó buộc trong bất kỳ quy củ nào,
một tầm nhìn hợp thời đại những vẫn mang màu sắc của riêng cá nhân chúng tôi.
Và hy vọng với một tầm nhìn mới, một tâm hồn rộng mở và một phương pháp học
hiệu quả chúng tôi có thể đạt được mục tiêu đầu tiên của mình: mục tiêu học Đại
học hiệu quả.
Trang 3 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
MỤC TIÊU
Vì sao lại đặt mục tiêu ở trang nhất?
Đó chắc chắn sẽ là câu hỏi đầu tiên mà bất kỳ ai cũng đặt ra khi đọc bài luận
này của nhóm chúng tôi. Vậy vì sao chúng tôi lại sắp xếp kết cấu lạ thế này?
Ai cũng biết rõ mục tiêu chính là cái đích mà mình đặt ra và có ý muốn hướng
đến. Nếu cuộc sống không có mục tiêu bạn sẽ băn khoăn không biết nên đi hướng
nào hoặc sẽ đi trên con đường nào đó nhưng lại không biết rằng mình sẽ đi tới đâu.
Cuộc sống không có mục tiêu khác gì một món ăn không có gia vị. Tất cả đều nhạt
nhẽo. Một khi ta hành động mà không biết mục tiêu là gì, không biết vì sao ta lại phải
hành động như thế thì ta chính là một co robot. Và điều này thật nguy hiểm! Và nếu
không có mục tiêu, một lý do cụ thể thì bạn đọc bài luận này để làm gì?
Nói như thế để bạn biết rằng với chúng tôi mục tiêu chính là yếu tố quan
trọng nhất. Và chúng tôi muốn nói về mục tiêu của mình ngay từ đầu để bạn có một
cái nhìn rõ ràng về những gì chúng tôi đang làm và muốn đạt được.
Vậy mục tiêu của nhóm chúng tôi là gì? Mục tiêu ấy cũng chính là lý do cho
sự ra đời của nhóm.
Nhóm chúng tôi không như những nhóm khác, quen nhau trước rồi lập thành
nhóm rồi tham dự cuộc thi. Mà ngược lại. Chính vì sức hấp dẫn của cuộc thi và đặc

biệt là giải thưởng đã khiến chúng tôi lập thành nhóm.
Nhóm chúng tôi gồm 6 thành viên thuộc học ở 3 lớp khác nhau của 3 khóa
khác nhau, thậm chí các thành viên cùng lớp cũng hoạt động tại các nhóm học tập
khác nhau. Nhưng chúng tôi có 2 điểm chung chủ chốt để gặp nhau và lập thành
nhóm. Đó là đều cùng quen 1 người (nhóm trưởng hiện tại) và cùng có mục tiêu
chung là chinh phục cuộc thi “Phương pháp học đại học hiệu quả” do Nhà văn hóa
Sinh viên tổ chức.
Do đó mục tiêu mà nhóm đặt ra từ đầu là thành lập được và hoạt động thật
tốt nhóm. Nếu nhóm có thể tồn tại cho tới phút cuối cùng của cuộc thi, điều đó có
nghĩa chúng tôi đã thành công được nửa chặng đường. Nửa chặng đường còn lại là
giành được 10 triệu từ cuộc thi này. Bạn có nghĩ chúng tôi mơ mộng không? Ai cũng
có ước mơ nhưng ước mơ phải có cơ sở không thì sẽ mãi chỉ là mơ ước. Và với
việc chúng tôi đặt chân vào vòng chung kết này thì chúng tôi tin mình có thể ước mơ
và tin tưởng vào mục tiêu ấy.
Một mục tiêu nữa nhóm là có thể học hỏi được kinh nghiệm tổ chức các cuộc
thi tại khoa. Mục tiêu này xuất phát từ một yếu tố chủ quan. Mỗi thành viên trong
nhóm đều là một cán bộ Đoàn-Hội và đều đang hoạt động trong Ban chấp hành ở
lớp, ở khoa và ở trường. Có thể nói, đây là một cuộc thi dài hơi và có nội dung thi
phong phú, đòi hỏi nhiều kỹ năng mới có thể hoàn thành tốt. Với mong muốn có thể
tổ chức nhiều cuộc thi có chất lượng tạo một sân chơi bổ ích cho sinh viên tại khoa
và tại trường thì việc tham dự cuộc thi này là một cơ hội rất tốt để có thể hoàn thành
tốt khâu chuẩn bị và khâu tổ chức các cuộc thi đó.
Một mục tiêu quan trọng không kém nữa đó chính là rèn luyện và học hỏi
thêm thật nhiều kỹ năng mềm thông qua cuộc thi. Như trên đã nói, đây là một cuộc
thi đòi hỏi nhiều công sức của thí sinh nên để đáp ứng được các yêu cầu đó mỗi
Trang 4 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
người phải nỗ lực hết mình và phải tự hoàn thiện bản thân mình. Vì thế, mỗi thành
viên vừa được học hỏi cái hay của nhau vừa có quá trình tự rèn luyện.

Và mục tiêu lâu dài của nhóm là gì? Một điều chắc chắn sau cuộc thi này
nhóm chúng tôi sẽ ít cộng tác với nhau bởi mỗi người một lớp rất khó cho việc kéo
dài hoạt động nhóm. Nhưng mối liên lạc và tình cảm của các thành viên trong nhóm
vẫn còn tồn tại và được duy trì. Và nếu có một cuộc thi nào hấp dẫn như cuộc thi
này và với điều kiện khách quan cho phép thì nhóm sẽ tái thành lập và tiếp tục chinh
phục mục tiêu đó.
Trang 5 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
CHƯƠNG I :CƠ SỞ LÝ LUẬN
“Tôi, hoặc tìm ra phương pháp cho mình, hoặc phải phục tùng phương pháp
của kẻ khác.” (Wm.Blake 1757-1827 người Anh)
Học không có phương pháp như đi biển mà không có bản đồ. Giữa biển khơi
bao la, ta vẫn mãi lênh đênh không biết đi hướng nào để đến được bến đậu. Cũng
như thế, học không có phương pháp sẽ khiến cho người học rơi vào trạng thái
hoang mang, không biết bằng cách nào để đạt được kết quả tốt nhất hoặc đạt được
kết quả rồi nhưng đó chỉ là chuyện ăn may, và lại tiếp tục nhờ vào sự hên-xui cho
những môn tiếp theo.
Trong chương mở đầu này, chúng tôi muốn giới thiệu một số phương pháp học giúp
cho việc học đại học chở nên hiệu quả hơn.
1. Phương pháp tự học
Tự học là xương sống của quá trình đạo tạo vì nó định hình cho một phong
cách học tập mà tại đó người học:
- Biết nỗ lực tự thân, nỗ lực vượt khó, lấy sức mình làm trụ cột để thúc đẩy
mọi tìm tòi trong học hỏi.
- Không ỷ lại vào nguồn đào tạo, nhưng biết triệt để khai thác những thuận lợi
tích cực từ phía đào tạo.
- Biến kỹ năng tự học thành môt thói quen “tự động hoá” trong mọi qui trình
đào tạo và mọi tiến trình nhận thức.
- Biết rõ rằng nếu không có thói quen tự học mà chỉ chờ chực “thức ăn dọn

sẵn” là thất bại.
- “Ai không tôn kính Thầy, đó là người không có trái tim. Nhưng nếu tôn kính
Thầy mà cứ phải lẽo đẽo theo Thầy, đó lại là người thiếu hẳn cái đầu – một cái đầu
biết làm việc” – LEONARD DE VINCI.
- “Thói quen tự học sẽ giúp mỗi người trở thành chính mình, không là bản sao
hay bóng mờ của người khác. Đó cũng là một thành phần chủ yếu của bản lĩnh cá
nhân, thể hiện tinh hoa và bản chất của cá nhân đó” – GS. TẠ QUANG BỬU.
- “Khi để những ý tưởng khoa học của người khác liên tục tràn vào đầu óc ta,
chúng sẽ hạn chế và áp chế những ý tưởng của chính ta, và cuối cùng làm tê liệt
năng lực tư duy của ta” – SCHOPENHAUER. Tự học là con đường có thể tự hoàn
thiện.
- Tự học là cách tự cứu mình trước khi được người khác giúp đỡ.
- “Yêu cầu thực hành cơ bản nhất của học tập chính là sự tự học. Khi đó
người ta biết tự đi tìm kiến thức, tự rèn luyện kỹ năng, thay vì chờ kiến thức tới từ
sự dạy dỗ.” – QUÁCH MẠC NHƯỢC”.
- “Chỉ với ý thức tự học, tồn tại thường xuyên ở ai đó cũng đủ cho ta thấy sự
vươn lên của người đó. Đấy là mầm mống của sự trưởng thành và sự thắng”-
THOMAS EDI.
Là sinh viên đại học việc tự học là một điều tất nhiên. Sẽ có nhiều phương pháp học
như: học ở nhà, học ở thư viện…
Trang 6 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
Học ở nhà:
Bước vào Đại học với khối kiến thức vô cùng lớn, trước mắt bạn cần phải đặt
ra câu hỏi vậy thì: “ Phương pháp học tập nào thích hợp đề tiếp thu hết khối kiến
thức đồ sộ đó?”. Sinh viên được coi là những người đã trưởng thành nên việc học
tập là sự tự giác và tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình. Do đó, việc
học ở nhà là vô cùng cần thiết và quan trọng; nó là yếu tố quyết định đến kết quả
học tập.

Việc học ở nhà đen lại cho bạn rất là nhiều thuận lợi chủ động được thời
gian, ôn lại bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp điều đó sẽ làm bạn dễ hiểu bài hơn
khi nghe bài giảng, có không gian yên tĩnh để suy nghẫm những gì mình đã được
tiếp thu. Tuy nhiên học ở nhà cũng có rất nhiều khó khăn gặp phải như: thiếu tài liệu
khi cần thiết, có những vấn đề khó khăn mà không thể trao đổi với ai được dễ làm
cho bạn mau nản, đôi khi ở trong đó bạn có tính ỷ lại, hay bị chi phối bởi công việc
khác. Việc học ở nhà là một điều không dễ bởi bạn sẽ bị chi phối bởi các chương
trình trên tivi như phim, ca nhạc…, câu chuyện của những người xung quanh, hay
sự hấp dẫn của dĩa thức ăn trên bàn…nên trước tiên bạn cần phải có kế hoạch cụ
thể cho việc học này. vì vậy bạn cần có lòng quyết tâm khi thực hiện phương pháp
này.
Bạn cần lập kế hoạch sao cho hợp lý, chọn thời gian học cố định và điều
quan trọng là bạn phải tuyệt đối nghiêm khắc với chính mình. Khi lập kế hoạch bạn
nên ưu tiên cho mức độ cần thiết của môn học, và tùy vào mức độ khó mà bạn định
khoảng thời gian hợp lý. Bạn nên học những môn, những phần dễ hiểu trước. Điều
khác biệt giữa học tập ở mức trung bình với những điểm số tuyệt vời thường nằm ở
chất lượng của sự chuẩn bị. Việc chuẩn bị môi trường học tập, thái độ và sự tập
trung sẽ ảnh hưởng tích cực đáng kể đến hiệu quả học tập của bạn.
Bạn cần chú ý đến góc học tập, tư thế ngồi học, ánh sáng cũng ảnh hướng
rất lớn đến khả năng tập trung của bạn.
1
Học ở thư viện:
Đây cũng là một trong rất nhiều phương pháp được sinh viên chọn lựa để
học đại học, với phương pháp này cung cấp cho bạn lượng kiến thức mới và lục lại
những kiến thức cũ. Ngoài ra, bạn còn có cảm giác hưng phấn, có động lực thúc
đẩy bạn chăm học hơn. Nếu trong quá trình học ở thư viện mà bạn gặp phải khó
khăn nào về vấn đề tài liệu thì sẽ dễ dàng cho bạn hơn khi tìm kiếm. Tuy nhiên,
không phải ai cũng lên thư viện học và đem lại kết quả tốt mà bạn cần có phương
pháp học ở thư viện phù hợp.
Phương pháp:

Việc quan trọng đầu tiên khi bạn tham gia học trên thư viện đó là cách đọc sách.
Đọc phần mở đầu, kết luận, lướt qua nội dung các chương của tài liệu tham khảo.
đọc phần này đầu tiên bạn sẽ có cái nhìn sơ lược nội dung của cuốn sách muốn đề
cập.
Thứ hai, bạn nên lựa chọn mục nào cần đọc (chương nào, mục nào,…) phù hợp với
nhu cầu của mình. Trong lúc đọc bạn cần đánh dấu những chỗ quan trọng, ngắt ý,
những chỗ khó hiểu, thắc mắc,… Để đối chiếu với những chỗ cần làm rõ của bài
giảng trên lớp.
1
Giải thích thêm trong phần phụ lục.
Trang 7 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
Vậy phương pháp học trên thư viện chỉ đạt hiệu quả cao nếu bạn biết cách áp dụng
vào việc tự học như thế nào.
2. Phương pháp POWER:
Từ POWER ở đây vừa có nghĩa là “sức mạnh”, “năng lực”, vừa là tên gọi của
một phương pháp học tập ở bậc đại học do GS. Robert Feldman (Đại học
Massachusetts) đề xướng nhằm hướng dẫn sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm
một, cách học tập có hiệu quả nhất. Phương pháp POWER có 5 yếu tố cơ bản
(POWER là viết tắt của năm từ chỉ năm yếu tố cơ bản này):
- Chuẩn bị, sửa soạn - PREPARE: Quá trình học tập ở đại học không phải chỉ
bắt đầu từ giảng đường khi sinh viên nghe thầy giáo giảng bài hoặc trao đổi, tranh
luận với các bạn đồng học. Quá trình này chỉ thật sự bắt đầu khi sinh viên chuẩn bị
một cách tích cực các điều kiện cần thiết để tiếp cận môn học như đọc trước giáo
trình, tìm tài liệu có liên quan. Sự chuẩn bị tư liệu này càng có hiệu quả hơn khi đi
liền với nó là sự chuẩn bị về mặt tâm thế để có thể tiếp nhận kiến thức một cách chủ
động và sáng tạo. Với sự chuẩn bị tâm thế này, sinh viên có thể chủ động tự đặt
trước cho mình một số câu hỏi liên quan đến nội dung sẽ được học trên lớp, thậm
chí có thể tự tạo cho mình một cái khung “tri thức” để trên cơ sở đó có thể tiếp nhận

bài học một cách có hệ thống. Tóm lại: “Học là quá trình hợp tác giữa người dạy và
người học”.
- Tổ chức - ORGANIZE: Sự chuẩn bị phía trên sẽ được nâng cao hơn nữa khi
sinh viên bước vào giai đoạn hai. Giai đoạn người sinh viên biết tự tổ chức, sắp xếp
quá trình học tập của mình một cách có tổ chức và hệ thống.
- Làm việc - WORK: Một trong những sai lầm của phương pháp học tập cũ là
tách rời việc học tập ra khỏi lao động trong khi lao động chính là một quá trình học
tập có hiệu quả nhất. Trong giai đoạn này sinh viên phải biết cách làm việc một cách
có ý thức và có phương pháp ở trong lớp cũng như ở phòng thí nghiệm, thực hành.
Các hình thức lao động trong môi trường đại học rất đa dạng và phong phú: lắng
nghe và ghi chép bài giảng, thuyết trình hoặc thảo luận…
- Tự đánh giá - ESTIMATION: Sinh viên phải biết tự đánh giá chính bản thân
mình ngoài hệ thống đánh giá của nhà trường. Chỉ có qua đánh giá một cách trung
thực sinh viên mới biết mình đang đứng ở vị trí, thứ bậc nào và cần phải làm thế
nào để có thể cải thiện vị trí, thứ bậc đó. Tự đánh giá cũng là một hình thức để nâng
cao trình độ và ý thức học tập.
- Suy nghĩ lại - RETHINK: Khả năng suy nghĩ lại này luôn giúp cho sinh viên
biết cách cải thiện điều kiện, phương pháp và kết quả học tập của mình. Về bản
chất, tư duy đại học không phải là tư duy đơn tuyến, một chiều mà đó là thứ tư duy
đa tuyến, phức hợp đòi hỏi người học cũng như người dạy, nghiên cứu phải có tính
sáng tạo cao, luôn luôn biết cách lật ngược vấn đề theo một cách khác, soi sáng vấn
đề từ những khía cạnh chưa ai đề cập tới. Khả năng suy nghĩ lại này cũng gắn liền
với khả năng làm lại (REDO) và tái tạo quá trình học tập trên căn bản nhận thức mới
đối với vấn đề và kết quả đặt ra. Cuối cùng chữ R của giai đoạn thứ 5 này cũng có
nghĩa là RECREATE (giải lao, giải trí, tiêu khiển), một hoạt động cũng quan trọng
không kém so với các hoạt động học tập của sinh viên.
3. Phương pháp sơ đồ tư duy (mindmap)
Đây là phương pháp được phát triển vào cuối thập niên 60 (của thế kỉ 20) bởi
Tony Buzan. Phương pháp này giúp người học "ghi lại bài giảng" mà chỉ dùng các từ
Trang 8 / 39

Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
then chốt, sơ đồ và liên tưởng đến các hình ảnh. Với cách ghi chép này người học
sẽ không chỉ dễ nhớ mà còn nhớ lâu đồng thời hệ thống lại kiến thức để dễ ôn tập
hơn.
Sơ đồ tư duy giống như là một phương tiện để tận dụng khả năng ghi nhận
hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích
một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài
khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo 1 trình tự nhất định chẳng hạn như
trình tự biến cố xuất hiện của 1 câu chuyện) thì não bộ còn có khả năng liên lạc, liên
hệ các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai thác cả hai khả năng này của bộ
não.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng sơ đồ tư duy,
tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên
hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và
nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Ưu điểm của phương pháp Giản đồ ý:
- Ghi nhớ chi tiết cấu trúc đối tượng hay sự kiện mà chúng chứa các mối liên
hệ phức tạp hay chằng chéo.
- Tổng kết dữ liệu.
- Động não về một vấn đề phức tạp. Để trình bày nội dung bằng sơ đồ tư duy
thì cần có từ then chốt, mà muốn thể hiện được nó thì cần phải liên tưởng tới hình
ảnh mà mình cảm thấy phù hợp với từ then chốt đã chọn.
- Trình bày thông tin để chỉ ra cấu trúc của toàn bộ đối tượng.
Trang 9 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
- Ghi chép được tất cả các bài giảng, phóng sự, sự kiện một cách nhanh,
ngắn gọn và dễ dàng.
- Làm giảm sự miêu tả của mỗi ý mỗi khái niệm xuống thành một từ hay từ

kép để dễ nhớ.
- Toàn bộ ý của giản đồ có thể "nhìn thấy" và nhớ bởi trí nhớ hình ảnh
- Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng.
- Quan hệ hỗ tương giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan trọng thì
sẽ nằm vị trí càng gần với ý chính.
- Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức bằng thị
giác.
- Ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
- Thêm thông tin (ý) dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào giản đồ.
- Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng, bất
chấp thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh chóng
và linh hoạt cho việc ghi nhớ.
- Có thể tận dụng hỗ trợ của các phần mềm trên máy tính.
4. Phương pháp tư duy
Có người ví các công đoạn học tập như một chu trình sản xuất: kiến thức là
nguyên liệu, tư duy là công nghệ, nhân cách là năng lượng. ví như vậy nghe có vẻ
hơi khập khiễng vì sản xuất tạo ra của cải vật chất, mỗi chu trình sau khi kết thúc sẽ
được lặp đi lặp lại còn trong học tập khi kết thúc một “công đoạn” (một tiết học, một
kỳ học hay một năm học) thì mọi cái đều thy đổi. Kiết thức không những không bị
tiêu hao mà còn được củng cố và phát triển, tư duy và nhân cách cũng phát triển
nhưng chỉ thấy rõ trong một khoảng thời gian dài chính vì vậy mà hay bị coi nhẹ
hoặc bị lãng quên.
Tư duy phát triển qua 4 giai đoạn:
- Ở giai đoạn đầu người học phải có thầy ở bên cạnh để cung cấp những kiến
thức làm nguyên liệu đầu tiên và tư duy nối kết các kiến thức đó với nhau.
- Ở giai đoạn thứ hai, thầy sẽ không cung cấp kiến thức nữa mà chỉ là gợi ý
để người học từ những kiến thức đã có kết hợp với năng lực tư duy để tự tìm kiến
thức mới đối với bản thân người học.
- Trong giai đoạn thứ ba thì sẽ không có thầy ở bên cạnh nữa mà tự bản thân
người học tự tìm kiến thức mới cho mình.

- Còn trong giai đoạn cuối cùng, người học không chỉ tìm ra những kiến thức
đối với mình mà đối với cả nhân loại. “Học” lúc đó gọi là “Nghiên cứu khoa học”.
Bốn giai đoạn đó không tách biệt nhau mà giai đoạn trước manh nha cho giai
đoạn sau.
Con người tư duy để hiểu tự nhiên, xã hội và cả bản thân mình.
Tư duy có khoa học thì việc rèn luyện tư duy qua giáo dục dễ dàng hơn, có
bài bản hơn. Nhưng dường như ở các trường hiện nay gần như không quan tâm
đến phát triển tư duy, chỉ biết nhồi nhét kiến thức để nâng trình độ của sinh viên như
vậy có khác nào người không biết bơi nhưng xuống nước và tự vẫy vùng để bơi.
Trang 10 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
Như vậy, làm sao có thể địch với việc học bơi từ huấn luyện viên có khoa học bơi
lội.
Có 2 lý do để học sinh, sinh viên cần rèn luyện tư duy. Thứ nhất, thời đại
ngày nay là thời đại kinh tế tri thức mà tư duy đẻ ra tri thức; hai là nước ta nghèo và
lạc hậu hơn so với các nước khác. Chỉ có rèn luyện tư duy mới chạy đua được với
thế giới trong điều kiện không có điều kiện về cơ sở vật chất.
Các loại tư duy :
- Phán đoán , đánh giá ( xấu tốt, hay dở,đúng sai…);
- So sánh (giống nhau, khác nhau, mối tương quan);
- Phân tích ( Xem xét các thành phần quan trọng, khía cạnh nổi bật, để tìm ra
những mối quan hệ qua lại và nhìn toàn bộ một cách bao quát);
- Tổng hợp ( bao gồm những thành tố riêng cấu tạo thành cái chung nhất, có hệ
thống),
- Khái quát (Thâu tóm, tóm tắt những điều đại thể, những điều chính);
- Suy luận ( dựa vào một lẽ đã biết để tìm ra cái chưa biết hoặc theo phép qui
nạp đi từ cái riêng đến cái chung hoặc phép diễn dịch đi từ cái chung đến cái
riêng)…
Phương pháp rèn luyện: tập suy nghĩ, chủ nộng trả lời, nêu câu hỏi, thắc mắc tùy

theo từng loại tư duy, lúc nào trong đầu cũng đầy ắp thắc mắc hay ít ra cũng có sẵn
một ý sẵn sàng phát biểu :
- Khi nghe giảng
- Khi hội thảo lớp, họp nhóm
- Khi đọc sách báo, tài liệu, giáo trình
- Khi học bài
5. Phương pháp học nhóm:
Cùng với Sự hội nhập với nền kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hóa ngày
càng sâu sắc, khiến cho không chỉ các doanh nghiệp phải đứng trước sự thay đổi
mà bản thân con người cũng phải thay đổi và điều chỉnh để thích nghi.
Theo UNESCO,1998 có 3 mô hình giáo dục và các mô hình được thể hiện dưới
bảng sau:
2
Bảng 1: Các đặc điểm của ba mô hình giáo dục
Mô hình Trung tâm Vai trò người học Công nghệ
Truyền thống (1) Người dạy Thụ động Bảng, TV,Radio
Thông tin (2) Người học Chủ động Máy tính cá nhân - PC
Tri thức (3) Nhóm Thích nghi PC + Mạng

2
Nguồn: Nguyễn Cảnh Toàn - Phương pháp dạy và học đại học –– tr.251
Trang 11 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
Hiện nay, ở các nước phát triển đã có điều kiện chín muồi cho mô hình “Tri thức”.
Ở Việt Nam thì đang chuyển từ mô hình “Truyền thống” sang mô hình “Thông tin”
nhưng có một số bộ phận lại đang chuyển sang mô hình “Tri thức”. trong công việc
trong chúng ta ai cũng cần sự giúp đỡ và cộng tác của đồng nghiệp,những người
biết đóng góp tài năng, sự sáng tạo, năng lực, sự động viên và ủng hộ trong công
việc nhóm để hướng tới mục tiêu chung. Ngày nay, việc tổ chức làm việc theo nhóm

chính là con đường hoàn tất mọi công việc. sự đóng góp của cá nhân chỉ còn là
những ý tưởng sáng giá để tạo ra những quyết định sáng suốt.
Hãy nghĩ xem sẽ như thế nào nếu bạn tự mình nghĩ ra một sáng kiến mới mẻ,
hay tạo ra sự thay đổi ban đầu cho một quá trình và sau đó ứng dụng với những
sáng kiến thay đổi đó. Cho dù bạn thông minh đến đâu thì những ý kiến khác nhau,
kinh nghiệm khác nhau, năng lực khác nhau và cả những tầm nhìn của những
người khác nữa sẽ làm cho mọi việc được xoay chuyển.
Việc học theo nhóm đang dần chiếm lĩnh trong thế kỷ XXI. Hiện nay, hầu hết
các trường đại học đều thực hiện đào tạo theo tín chỉ, yêu cầu sinh viên phải có sự
kết hợp chặt chẽ với nhau, chủ động tìm tòi và học nhóm để tăng thêm hiệu quả học
tập. Tuy nhiên, không phải bất cứ một nhóm học tập nào cũng có thể mang lại kết
quả tốt đẹp như mong muốn. Vậy làm thế nào để có thể xây dựng một nhóm học tập
và tiến hành học nhóm có hiệu quả?
Vậy chúng ta hãy tìm hiểu về nhóm:
a. Nhóm là gì?
Nhóm không đơn giản chỉ là một tập hợp nhiều người làm việc cùng nhau hoặc
làm việc dưới sự chỉ đạo của một nhà quản lý. Nhóm là một tập hợp những cá nhân
có các kỹ năng bổ sung cho nhau và cùng cam kết chịu trách nhiệm thực hiện một
mục tiêu chung. Các thành viên trong nhóm tương tác với nhau và với trưởng nhóm
để đạt được mục tiêu chung. Các thành viên trong nhóm phụ thuộc vào thông tin
của nhau để thực hiện phần việc của mình.
Trang 12 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
b. Phương thức hoạt động
Đi tìm sự khác biệt của các thành viên và cộng tác với nhau để tìm ra cái chung nhất
cho quyết định đồng thời cái chung nhất đó là hiệu quả nhất.
c. Phân loại nhóm
Thông thường ta thấy có hai phương thức được phân nhóm. Thứ nhất là do
giảng viên phân theo danh sách nhóm này được gọi là nhóm không chính thức.

Nhóm được lập nên là để giải quyết vấn đề được giao. Thứ hai là nhóm do tự các
thành viên gom lại với nhau. Nhóm như thế này mọi người thân thiết hơn, làm việc
nhiều với nhau hơn. Nhóm như vậy ta có thể xếp vào là nhóm chính thức. Nhóm
chính thức là nhóm có tổ chức và sự phân công rõ ràng. Trong việc làm nhóm ở sinh
viên thường có ba cách sau:
Cách một là người nhóm trưởng sẽ lập đề cương, sau đó các thành viên
“nhận” từng phần, VD chương 1, phần a cho ai đó phụ trách…
Sau đó tổng hợp lại, ghép các đoạn đã làm vào thành bài hoàn chỉnh của nhóm.
Cách này thường được làm hơn, các thành viên thích vì “làm ít”, không mất công tập
hợp, tốn ít công sức, phát huy nhiều khả năng từ thành viên. Mỗi thành viên đều rèn
được khả năng tìm tài liệu, xử lý, viết bài…
Nhưng lại làm hổng kiến thức của sinh viên, khi tham gia làm phần 1, sẽ không
biết gì về phần 2, 3…Thiếu thông tin từ các phần khác, khả năng chồng chéo lên
nhau là rất cao…
Cách thứ hai là người trưởng nhóm sẽ phân theo khả năng của từng thành
viên. Trước hết sẽ lập ra bảng phân công công việc rồi sau đó sẽ phân về từng cá
nhân.
- Ai tìm tài liệu?
- Ai xử lý tài liệu?
- Ai viết bài?
- Ai phản biện lại bài viết, tài liệu của nhóm?
- Ai chuẩn bị câu hỏi, phản biện nhóm khác.

Trang 13 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
Cách này mỗi thành viên đều nắm rõ chủ đề thảo luận, có thể phát huy được
thế mạnh của mỗi thành viên, rèn luyện thêm một số kỹ năng mềm như: Xây dựng
kế hoạch nhóm, phân công công việc…
Nhưng lại đòi hỏi người trưởng nhóm phải có năng lực và các thành viên thì

cần nỗ lực lớn.
Cách thứ ba là tất cả các thành viên trong nhóm đều làm bài rồi cuối cùng gom
ý hay nhất. cách này thì các thành viên biết hết kiến thức, rèn luyện đượcc các kỹ
năng nhưng mà lại mất nhiều thời gian, công sức, dễ xảy ra tình trạng chép bài của
nhau.
d. Các giai đoạn hình thành và phát triển nhóm
 Hình thành
Hình thành là giai đoạn nhóm được tập hợp lại. Mọi người đều rất giữ gìn và
rụt rè. Trong giai đoạn này việc hiểu về cá tính của nhau còn bị hạn chế. Trong họp
nhóm mọi người còn dè dặt và không cởi mở cho lắm. những xung đột thì mang tính
chất cá nhân hơn là phát ngôn trực tiếp. do mới thành lập nên việc bầu ra nhóm
trưởng cũng bị hạn chế. Nếu bầu phải một người “chuyên quyền” hay là người quan
trọng thì việc học nhóm sẽ không mang lại kết quả như mong muốn. rồi dần dần làm
việc với nhau lâu sẽ hiểu nhau hơn, tự nhiên hơn từ đó lại hình thành nên xung đột
nội bộ.
 Xung đột hay “khẳng định”
Trong giai đoan này mọi người chưa tin tưởng lẫn nhau và còn ngại ngùng. Khi
đó, các bè phái được hình thành, các tính cách va chạm nhau dẫn đến những phản
ứng mạnh trong nhóm. Đến lúc này trong việc học nhóm không còn là sự giao tiếp,
lắng nghe nữa mà sẽ mang tính chất cãi cọ, thậm chí mỉa mai, công kích lẫn nhau.
Nhưng đến một lúc nào đó, những xung đột này sẽ phải lắng xuống để ưu tiên cho
mục tiêu mà nhóm đang hướng tới. khi đó mọi người lại bình thường với nhau.
 Giai đoạn bình thường hóa
Ở giai đoạn này, nhóm bắt đầu nhận thấy những lợi ích của việc cộng tác cùng với
nhau và sự giảm bớt xung đột nội bộ. lúc này thái độ của mọi người mang tính tích
cực, chịu lắng nghe nhau và bắt đầu tìm được phương pháp học. tuy nhiên, có
những trường hợp sẽ không có sự lắng nghe ngay sau đó mà sẽ xuất hiện tình
trạng mỗi người một nơi khi mà xung đột lên cao. Điều đó quả thật rất tệ hại.
Nếu sau sự xung đột mọi người lại ngồi lại với nhau, coi những xung đột chỉ là bày
tỏ quan điểm thì sau đó việc học nhóm sẽ trở nên suôn sẻ và dễ dàng hơn.

 Giai đoạn hoạt động trôi chảy
Đây là điểm cao trào, khi nhóm làm việc đã ổn định trong với những quan điểm tự
do và thoải mái và có sự hỗ trợ cao độ của cả nhóm đối với mỗi thành viên và với
các quyết định của nhóm.
Trang 14 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
e. Học nhóm là gì?
Học nhóm nghĩa là chúng ta không phải ngồi trên lớp với sự giảng dạy của các
thầy cô bộ môn mà là chỉ có chúng ta với bạn bè học với nhau. Học nhóm là bạn có
thể vừa là thầy cô giảng bài cho cô bạn ngồi kế mình nhưng cũng có thể đưa ra một
số câu hỏi mà bạn còn thắc mắc và chưa dám hỏi giáo viên. Đó là một hình thức
hợp tác, giao lưu với nhau để đạt được kết quả học tập tiến bộ về nhiều mặt.
f. Vậy những môn nào có thể học nhóm và Học như thế nào?
Nếu tinh thần học nhóm của bạn thật nghiêm túc thì tất cả các môn đều có thể
học nhóm. Kiến thức đại học rất rộng nên mỗi người một ý tưởng sẽ làm cho việc
giải quyết vấn đề được dễ dàng hơn. Mọi người chỉ bài cho nhau, cùng tranh luận sẽ
lộ ra rất nhiều vấn đề mới do đó việc đi đến kết quả nhanh hơn và dễ dàng hơn.
Dân gian đã có câu: “Học thầy không tày học bạn.” và đó cũng là một trong tác
dụng của học nhóm.
g. Tác dụng của học nhóm
- Việc học nhóm đem lại rất nhiều điều cho bản thân người học nhóm. Nó giúp
sinh viên tìm hiểu, phân tích vấn đề một cách kĩ lưỡng. việc học nhóm có hiệu quả
sẽ làm một tiết học được sôi nổi, lý thú và tránh được những cơn buồn ngủ ập đến
khiến bạn phải ngáp ngắn ngáp dài. Hơn nữa, việc thảo luận nhóm sẽ hạn chế được
những thiếu sót khi làm việc cá nhân, giúp chúng ta hiểu bài nhanh hơn, sâu hơn.
- Góp phần xây dựng tinh thần đồng đội và các mối quan hệ tương hỗ, đồng
thời thúc đẩy sự tích cực học tập của cá nhân, tạo sự gắn kết trong một “cộng đồng”
bởi trong khi làm việc nhóm, những mâu thuẫn sẽ nảy sinh từ đó yêu cầu phải giải
quyết và để giải được cần sự cố gắng của mỗi cá nhân cùng với trí tuệ của cả tập

thể.
Trang 15 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
- Tăng khả năng hòa nhập, có thêm tinh thần học hỏi và biết lắng nghe người
khác thông qua phần trình bày của bản thân và sự phản hồi của mọi người xung
quanh.
- Tập hợp được những ý kiến sáng tạo của từng cá nhân, mỗi người bổ sung
một ý, từ đó sản phẩm của học tập sẽ giàu tính sáng tạo và mang tính tập thể.
- Rèn luyện khả năng thuyết trình trước tập thể, kĩ năng giao tiếp và tính tự
giác của mỗi cá nhân, khả năng làm cho người khác hiểu điều mình hiểu - đây là
điểm yếu của đa số sinh viên chúng ta hiện nay.
- Hình thành khả năng độc lập suy nghĩ, phản xạ nhạy bén trước vấn đề khó
khăn và biết bảo vệ ý kiến của mình, tôn trọng ý kiến của các thành viên trong nhóm.
Tạo ra môi trường để mỗi thành viên tự rèn luyện, hoàn thiện bản thân hơn.
- Rèn luyện tinh thần trách nhiệm cao của mỗi thành viên trước mục tiêu
chung của nhóm.
- Học nhóm còn có thể tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tinh thần hợp tác
trong học tập cũng như sự phối hợp, hỗ trợ, bổ sung kiến thức nhịp nhàng giữa các
thành viên ⇒ Từ đó đưa ra những giải pháp mới cho mọi vấn đề khó khăn đồng thời
học tập nhóm sẽ hạn chế được những sai sót khi làm việc độc lập.
Những kĩ năng được rèn luyện trong khi làm việc nhóm là rất quan trọng cho
môi trường làm việc mới sau này, đây sẽ là tiền đề để ta biết cách làm việc trong
một môi trường tập thể.
Đó là lí do tại sao chúng tôi chọn phương pháp học tập nhóm là giải pháp cho
việc học đại học hiệu quả. Ngoài những lợi ích mà phương pháp học nhóm mang lại
dưới đây còn giúp cho các thành viên trong nhóm yêu thương nhau, đoàn kết và
giúp nhau vượt qua những vấn đề khó khăn.
Trang 16 / 39
Cuộc thi: Nhóm:

“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
Chọn phương pháp học nhóm làm kim chỉ nam cho việc học tập ở Đại học,
chúng tôi còn muốn hướng đến một mục tiêu xa hơn và rộng hơn đó là ứng dụng
được những lý thuyết tại giảng đường vào công việc thực tế. Những kỹ năng rèn
luyện trong quá trình học nhóm mà chúng tôi trình bày trong Chương III sẽ là những
bước đi cơ bản nhất cho quá trình sống và hòa nhập với cộng đồng. Bởi lẽ con
người không thể và chưa bao giờ có thể sống riêng lẻ một mình.
Trang 17 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỦA PHƯƠNG PHÁP HỌC NHÓM
1. Thuận lợi:
- Do tính chất của môn học mà các giảng viên đều hướng sinh viên thảo luận
theo nhóm nhằm giúp cho sinh viên tăng khả năng tư duy, năng động do đó tạo điều
kiện thuận lợi cho các bạn sinh viên chủ động tìm đến với nhau và hình thành nên
các nhóm học.
- Đa số các cuộc thi do trường tổ chức cũng như là các khối đoàn thể đều tổ
chức các cuộc thi theo hình thức đội nhóm.
- Học nhóm tạo môi trường thuận lợi để các bạn sinh viên dễ thích nghi được
với môi trường làm việc sau này.
2. Khó khăn:
Phương pháp học tập theo nhóm chỉ đạt hiệu suất cao khi nó được thực hiện
trên cơ sở có sự chuẩn bị chu đáo cả về mặt nội dung lẫn phương pháp tổ chức của
mọi thành viên trong nhóm. Do đó cũng không ít nhóm gặp nhiều khó khăn trong
vấn đề học tập nhóm. Qua thống kê sơ lược của nhóm chúng tôi thì những khó khăn
dưới đây thường gặp trong quá trình làm việc nhóm:
- Mỗi nhóm gồm nhiều thành viên, mỗi thành viên lại có những nhu cầu cá
nhân cũng như công việc riêng ngoài việc học tập. Do đó việc sắp xếp thời gian sao
cho mọi thành viên trong nhóm đều có mặt khi họp hay học nhóm là rất khó. Đôi lúc
chính vì điều này làm cho học tập trong nhóm đạt kết quả không cao, có sức ỳ trong

nhóm.
- Trong quá trình hoạt động nhóm các thành viên tranh luận sôi nổi và hăng
say để tìm ra hướng giải quyết. Sự tranh luận đó nếu không đi đúng mục tiêu chung
của nhóm sẽ dẫn đến sự xung đột gây gắt, mâu thuẫn, đối kháng giữa các thành
viên làm cho bầu không khí học tập nặng nề và có thể vỡ toan ra lúc nào cũng
được. Điều này đã xảy ra thường xuyên ở các nhóm. (Vậy bạn cho rằng sự tranh
luận là không nên có trong việc học nhóm ?)
- Để nhóm học tập hoạt động hiệu quả thì cần có sự tôn trọng ý kiến của
nhau. Một đặc diểm của người Việt nam đề cao cái tôi của mình. Chính vì vậy mà đa
phần các buổi học nhóm đều căng thẳng. Tất cả các thành viên trong nhóm luôn cho
rằng mình đúng, và bác bỏ ý kiến các thành viên khác cũng như những thành viên
nào bị bác bỏ ý kiến cảm thấy mình bị chèn ép. Cuối cùng hoạt động nhóm dần tan
rã.
- Biết lắng nghe và ghi nhận ý kiến của các thành viên trong nhóm sẽ làm hài
hòa tình cảm cũng như công việc giữa các thành viên. Đôi khi điều đó làm cho nhóm
bạn chiến tranh lạnh khi sự lắng nghe và ghi nhận theo chiều hướng bắt buộc hoặc
cử chỉ không hài lòng.
- Sự lấn át của một số thành viên trong nhóm đôi khi lại là con dao hai lưỡi
gây ra cản trở cho nhóm các bạn. Những bạn luôn thích thể hiện mình trong quá
trình làm nhóm đã vô tình tạo nên cảm giác khó chịu ở các thành viên khác. Khi đó
các thành viên khác sẽ cảm thấy mình là người thừa trong nhóm, không cần góp ý
làm gì cho mệt. Ý người ta sao mình vậy. Thậm chí sự lấn át quá đáng có thể làm
cho các thành viên còn lại bất hợp tác.
Trang 18 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP:
Những kĩ năng được rèn luyện trong khi làm việc nhóm là rất quan trọng cho
môi trường làm việc mới sau này, đây sẽ là tiền đề để ta biết cách làm việc trong
một môi trường tập thể.

Làm việc nhóm có nhiều ưu điểm, nhưng không phải ai cũng đạt được kết quả
cao với phương pháp học tập này, thậm chí đôi khi một số người cảm thấy nó mang
nhiều tính hình thức và ít hiệu quả hơn so với làm việc theo cá nhân. Vậy nguyên
nhân vì sao ?
1. Nguyên nhân
Câu trả lời là:
Thứ nhất, một số còn coi bài tập nhóm là công việc của tập thể nên thường có
tâm lí “không phải việc của mình”, ai cũng trừ mình ra. Và kết quả là “cha chung
không ai khóc".
Thứ hai, do làm việc theo nhóm nên sự hợp tác là rất quan trọng, đòi hỏi sự tự
giác của từng thành viên trong nhóm. Nếu một thành viên trong nhóm không làm
việc như đã phân công sẽ dẫn đến công việc của nhóm bị ngưng trệ. Hai điều đó thể
hiện tính trách nhiệm trong công việc của cá nhân trong nhóm còn ở dưới mức trung
bình.
Thứ ba, sự phân công công việc không rõ ràng. Đôi khi một thành viên trong
nhóm phải đảm nhiệm quá nhiều công việc, trong khi có thành viên không có việc để
làm, kết quả là sự bất hợp tác. Mọi người không nắm rõ khả năng, thế mạnh của
các thành viên nên sẫn đến sự phân công bất hợp lý làm mọi người chán nản.
Thứ tư, đặt mục tiêu không phù hợp với năng lực của nhóm, không mang tính
cụ thể (lượng hóa được) hoặc không có mục tiêu mà chỉ đi theo một cách chung
chung.
Thứ năm: không biết lắng nghe, ghi nhận những ý kiến của mọi người, không
chịu rời bỏ các quan điểm cá nhân hoặc mang tâm lý miễn cưỡng cho xong chuyện.
Thứ sáu, khi làm việc nhóm không có sự chuẩn bị trước nên khi thảo luận
nhóm mới nghĩ là hôm nay mình làm gì,thảo luận ra sao. Mà khi không có sự chuẩn
bị trước thì mọi người sẽ cảm thấy nản, mọi việc làm dường như dần xa rời mục tiêu
cần đạt được.
Thứ bảy, nhóm thiếu kỹ năng tổ chức và khi không có sự tổ chức hợp lý thì sẽ
dẫn đến sự lộn xộn.
Thứ tám, thiếu sự hướng dẫn của giảng viên, giảng viên cần phải cho sinh viên

tự nhận thấy được lợi ích mà sinh viên có được của việc học nhóm.
Tuy nhiên, không phải bất cứ một nhóm học tập nào cũng có thể mang lại kết
quả tốt đẹp như mong muốn. Vậy làm thế nào để có thể xây dựng một nhóm học tập
và tiến hành học nhóm có hiệu quả?
2. Khắc phục (nâng cao hiệu quả làm việc nhóm)
Nhóm cũng có thể coi là một tổ chức thu nhỏ vì vậy việc hoạt động của nhóm
cũng là sự hoạt động của một tổ chức. Đã là một tổ chức thì trước tiên cần phải có
một người đứng đầu. Do đó trong một nhóm không thể không có người nhóm
trưởng.
Trang 19 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
2.1 Bầu trưởng nhóm
Công việc của nhóm trưởng cũng như công việc của người quản lý. Trước tiên
cần phải có trình độ nổi trội, biết quan tâm và lắng nghe. Người trưởng nhóm cũng
là người “cầm cân gẩy mực” do đó điều quan trọng là cần có cơ cấu hoạt động rõ
ràng cho nhóm, điều phối các hoạt động của nhóm, đại diện cho nhóm trước nhóm
khác, hòa giải mâu thuẫn, đảm bảo mọi người đều đóng góp và hưởng thành quả
tương xứng đồng thời giữ cho công việc luôn tiến triển đúng hướng.
Vậy người trưởng nhóm sẽ cần những phẩm giá nào để xây dựng nhóm làm
việc hiệu quả?
Người trưởng nhóm cần phải có tính cách mạnh mẽ để khẳng định ảnh hưởng
và chức năng của mình. Có những phẩm chất thuộc về bản năng nội tại nhưng
chúng cũng phải được thường xuyên bổ sung bởi các tính cách có được qua rèn
luyện và trải nghiệm thực tế - đó là những kỹ năng bên ngoài.
Kỹ năng nội tại:
- Tầm nhìn: là hướng đi, là bức tranh tươi đẹp phía trước nhưng tương lai có
thể đạt được. bức tranh đó có thể hình dung được, nó phù hợp với nhóm ở hiện
thực, mang tính khả thi và dễ hiểu, dễ giải thích.
- Sự tự tin: lòng tự tin và ý chí của con người giống như đôi cánh của một con

chim hay là hai cái bánh của một chiếc xe đạp. Chỉ nhờ không ngừng tăng cường
rèn luyện hai yếu tố đó bạn mới có thể bay thạt cao và đạp thật nhanh. Nhưng sự tự
tin ở đây không phải là sự tự tin mù quáng mà là tin tưởng vào bản thân, nhận thức
và nắm rõ được bản thân mình.
- Tính quyết đoán: là biết nắm bắt cơ hội kịp thời, nói “có ” một cách thẳng thắn
và biết nói “không” khi cần thiết. Quyết đoán không có nghĩa là làm bừa bãi mà là
“dám nghĩ, dám làm”, quyết định phải dựa trên thực tiễn. Thiếu tính quyết đoán là sợ
ra quyết định, có thể sự do dự sẽ mang đến cho các bạn những quyết định chắc
chắn nhưng nó cũng mang cơ hội của các bạn đi xa.
- Tập trung vào kết quả: là người trưởng nhóm cần luôn hướng cho những
thành viên trong nhóm nhìn về kết quả mà nhóm cần đạt được. Điều đó làm cho các
cuộc thảo luận nhóm không bị xa rời và luôn hướng về mục tiêu.
Kỹ năng bên ngoài:
- Khả năng truyền thông:
Truyền thông là quá trình thông tin 2 hay nhiều chiều trở lên, có người nói và có
người nghe, nói sao cho người nghe hiểu và đồng cảm, nghe sao cho người nói hài
lòng và có cảm hứng nói tiếp. Hay nói một cách cụ thể đối với sinh viên đại học thì
khả năng truyền thông chính là sự giao tiếp, thuyết trình. Tuy nhiên, khả năng truyền
thông không chỉ là khả năng trình bày, nói, thuyết trình, giải thích. Mà đó còn là bạn
biết nghe và lắng nghe như thế nào nữa. Một thực tế đó là người Việt Nam thích nói
nhiều hơn thích nghe. Theo tôi "muốn người khác hiểu những gì mình nói hãy lắng
nghe những gì người khác nói trước đã". Lắng nghe khác với nghe. Lắng nghe cần
sự phân tích, tư duy, phản hồi bằng thái độ tôn trọng đối với người nói dù đó là ý
kiến trái ngược với quan điểm của mình. Đây là kỹ năng mà tất cả mọi người cần
phải rèn luyện chứ không riêng nhóm trưởng.
- Khả năng quan sát: óc quan sát khá quan trọng trong việc tập thể. Là người
trưởng nhóm bạn cần quan sát mọi thành viên trong nhóm từ cử chỉ,thái độ và hành
Trang 20 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”

động. Quan sát để đánh giá chính xác không phiến diện về một vấn đề nào đó và để
người khác không thể nhận xét bạn là người hồ đồ. Khả năng quan sát và óc phán
đoán cũng sẽ tránh được những xung đột trong nhóm bạn.
- Khả năng làm việc theo nhóm: như điều hành các cuộc thảo luận hướng theo
mục tiêu; tạo điều kiện thuận lợi để tạo cảm hứng cho thành viên trong nhóm phát
biểu; xây dựng bầu không khí tích cực; lắng nghe, ghi nhận ý kiến của tất cả mọi
người…cách làm việc nhóm sẽ không có kết quả nếu trưởng nhóm là người đưa ra
ý kiến trước khi người khác có cơ hội phát biểu.
- Kỹ năng phân công: nếu nhóm trưởng hiểu các thành viên của nhóm mình,
biết thế mạnh của họ thì sẽ có sự phân công công việc hợp lý. Việc vận dụng 6
chiếc nón tư duy cũng là một cách hay và hiệu quả cho một buổi thảo luận nhóm.
Mỗi thành viên sẽ giữ một chiếc nón khác nhau nhưng cần có sự luân chuyển. Tuy
nhiên, không nên tạo cho mọi người cảm giác bị mặc một cái áo chật chội. nên sắp
xếp vai trò phù hợp với tính cách của người đó, tạo cho họ cảm giác thoải mái.
Vậy chúng ta chỉ bầu ra một nhóm trưởng chính thức và duy nhất? nhóm sẽ
như thế nào nếu có 2 trưởng nhóm luôn xung khắc với nhau? Và các thành viên
trong nhóm sẽ nghe theo trưởng nhóm nào? Lúc đó chúng ta sẽ rơi vào tình trạng
“một cổ hai tròng do chính chúng ta bày ra”. Nếu 2 trưởng nhóm đứng trên 2 đường
thẳng song song thì mục tiêu của nhóm sẽ chẳng bao giờ được thực hiện. trên đời
này liệu có nhóm nào được như nhóm Khám Phá đi xuyên qua miền Tây hoang dã
dọc sông Mississippi của nhóm trưởng là Meriwether Lewis cùng người đồng
trưởng nhóm của ông - William Clark. Họ tôn trọng, hỗ trợ, bổ sung, tin tưởng lẫn
nhau. Nhưng một nhóm muốn hoạt động tốt thì không chỉ phải có nhóm trưởng giỏi,
quyết đoán…mà còn phụ thuộc vào những yếu tố khác. Trước tiên, sự hoạt động
của nhóm phải có mục tiêu.
Vậy nhóm trưởng ở nhóm chúng tôi đã làm việc có hiệu quả hay không?
Nhìn vào thành phần của nhóm, mỗi thành viên ở một lớp khác nhau, có những
thời gian học tập và sinh hoạt trên lớp trái ngước nhau. Thế nhưng nhóm chúng tôi
vẫn tồn tại và bước vào chặng đường cuối cùng. Điều này thể hiện rõ khả năng
truyền thông, tập trung nhân lực và biết đánh giá từng thành viên(cụ thể ở phần

phân công công việc) để có thể lập thành một nhóm hoạt động một cách hòa hợp dù
trước đây không ai quen ai.
Thứ hai, nhóm trưởng của nhóm chúng tôi là một người khá tự tin. Đã từng
chinh phục các cuộc thi như Vòng tay nhân ái lần IV(giải nhất) và VI(giải III); lọt vào
chung kết cuộc thi Tầm nhìn xuyên thế kỷ (cá nhân) do Thành đoàn tổ chức; làm MC
tại các hội thảo của khoa;…
Với những kinh nghiệm tại các “chiến trường”, chắc chắn trưởng nhóm đã có
những kinh nghiệm nhất định về việc nắm bắt thông tin và đánh giá tình hình của
nhóm.
Nhóm trưởng luôn là người đưa ra vấn đề đầu tiên và ý kiến sau cùng; quyết
định cuối cùng là sự bàn thảo của các thành viên.
Và đặc biệt nhóm trưởng chính là người tạo cảm hứng cho đội. “Lạt mềm buộc
chặt” đôi khi trong nhóm có thành viên vì bận việc riêng mà có tâm lý ngán thi, không
muốn tiếp tục thì trưởng nhóm liền động viên và khích lệ chỉ bằng 3 câu trong vòng
30 giây. Thế nhưng điều đó không có nghĩa là nhóm trưởng thỏa hiệp, nhượng bộ
cho những thái độ không tích cực.
Trang 21 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
2.2 Đặt mục tiêu
Nhóm cần phải có mục tiêu học rõ ràng. Một nhóm không có mục tiêu như con
thuyền không có bến đỗ. Có rất nhiều đại dương bên ngoài kia khiến mọi người trôi
nổi khắp nơi và không biết đi đâu về đâu- những cuộc họp không bao giờ kết thúc,
những buổi thảo luận chẳng bao giờ được thỏa mãn. Mục tiêu mà nhóm đưa ra cần
ngắn gọn, rõ ràng, định hướng hành động, cụ thể và điều quan trọng là mục tiêu
nhóm đưa ra cần phải có tính khả thi. Trong cấu trúc của một nhóm, mục tiêu luôn là
kết quả mà mọi cá nhân không thể nào tự mình đạt được. khi mục tiêu đã được xác
định thì các thành viên trong nhóm phải tin tưởng là có khả năng đạt được mục tiêu.
Nhóm tự đặt câu hỏi cho chính mình về mục tiêu của nhóm thì câu trả lời sẽ dần lộ
diện nếu như mọi người hiểu được kết quả nhóm cần đạt được là gì. Mà không có

cách nào khác ngoài phương tiện là kế hoạch để đạt được mục tiêu. khi đã có mục
tiêu, tất cả mọi người cùng hướng về mục tiêu đó từ đó tạo nên kết quả tốt nhất.
Và mục tiêu của nhóm đã được thể hiện rất rõ ràng từ trang nhất. Trong bài
tiểu luận cũng như mỗi lần họp, chúng tôi luôn nhắc tới mục tiêu để lên tinh thần và
để nhắc nhở mỗi thành viên rõ mình đang làm gì và muốn gì.
Khi đã có mục tiêu nhóm bắt đầu vận hành nhằm mục đích hướng tới và đạt
được cái mình đặt ra. nhưng không phải chúng ta muốn nó vận hành là tự động nó
vận hành theo ý của mình. Một tổ chức muốn hoạt động hiệu quả thì điều không thể
thiếu đó là những nguyên tắc.
2.3 Thiết lập nội quy
Một đất nước cần phải có hiến pháp, thể chế thiết lập những nguyên tắc hoạt
động nền tảng, các chính sách…Một dòng họ, một gia đình cũng có những nguyên
tắc, luật lệ…Chúng ta hãy tưởng tượng nếu như đất nước mà không có hiến pháp,
thể chế; gia đình không có những nguyên tắc, luật lệ…hệ quả sẽ là gì? Nhóm cũng
vậy, nhóm được thành lập từ những con người khác nhau với những điều kiện
không ai giống ai vậy thì nguyên tắc được đưa ra để hoạt động nhóm, thực hiện
mục tiêu của nhóm liệu có tốt hơn? Chúng tôi nghĩ nếu không có những nguyên tắc
–“thể chế” này thì công việc của nhóm sớm rơi vào cuộc bàn thảo vô tổ chức, không
có mục đích, lạc hướng hoặc lâm vào ngõ cụt khác và điều quan trọng là thời gian
thì vẫn cứ trôi đi âm thầm nhưng vấn đề cần giải quyết lại càng rối hơn. Chính vì
vậy, nhóm cần có những nguyên tắc riêng để tự quản lý. Ví dụ nhóm xác định bao
lâu sẽ gặp mặt? 1 tuần 2 lần hoặc 3 lần… Nguyên tắc có mặt tại buổi họp là gì? Các
thành viên hoàn thành tất cả các bài tập có thể,… Sự chuẩn bị của các thành viên ra
sao? Chuẩn bị dàn ý bài học, các bài đọc tham khảo,…Trong cuộc họp các thành
viên trình bày những gì mình đã chuẩn bị, tự đặt ra các câu hỏi và suy nghĩ phương
án trả lời. Mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu người khác phải trình bày ý kiến,
phát biểu và bản thân mình phải có sự nhận xét và đóng góp ý kiến nhiệt tình. Mỗi
người phải có trách nhiệm với các thành viên khác, cần có tinh thần học hỏi, học
cách lắng nghe, hết mình vì tập thể… Yêu cầu mỗi thành viên trong nhóm cần phải
đưa ra quan điểm rõ ràng của mình.

Để có buổi học nhóm hiệu quả thì trước hết các thành viên trong nhóm cần có
sự chuẩn bị bài ở nhà trước. nếu khi đến họp nhóm rồi mới nói “hôm nay chúng ta
học gì ?” thì quả là nguy hiểm. khi chưa có ai chuẩn bị thì việc học nhóm sẽ chẳng đi
tới đâu cả. vì vậy, trước một buổi làm việc nhóm các thành viên cần có sự chuẩn bị
kỹ càng, phải xác định được ngày hôm đó sẽ làm gì. Đó được xem là một nguyên
tắc, nội quy bắt buộc của một nhóm.
Trang 22 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
Nhóm chúng tôi cũng có những nguyên tắc riêng của mình:
- Khi đã thống nhất được giờ họp thì phải tới đúng giờ và không đổ lỗi cho
hoàn cảnh, nếu tới trễ vì lý do đột xuất hoặc một lý do nào khác thì cần phải có lời
giải thích và báo trước nếu không sẽ bị phạt. Trễ từ 5 đến 10 phút thì bị phạt
10,000đ; từ phút thứ 10 trở đi sẽ bị phạt 20,000đ;
- Trước một buổi thảo luận nhóm các thành viên cần có sự chuẩn bị kỹ càng
trước, phải có tài liệu, giấy tờ và bút viết;
- Gạt mọi cảm xúc sang một bên không được để ảnh hưởng tới việc chung;
- Khi ai đó trong nhóm phát biểu ý kiến thì cần phải lắng nghe và ghi nhận,
không được đưa ra lời bình luận ngay lúc đó dù đó có là ý kiến trái ngược của mình;
nếu có phản hồi thì sẽ nêu lên sau khi kết thúc các ý kiến
- Hoàn thành công việc được giao đúng thời hạn, mọi người gửi mail cho nhau
để góp ý kiến và sau đó thì họp nhóm để nhận xét rồi tìm hướng giải quyết.
Việc sử dụng bảng nội quy của nhóm sẽ làm cho mọi người cảm thấy nhóm
mình không đi lệch hướng. đối với những người thường xuyên không tuân thủ nội
quy thì phải có biện pháp cụ thể. Ta có thể sử dụng phương pháp ngoại giao hay
gặp riêng với thái độ mềm mỏng nhưng kiên quyết. Mỗi thành viên trong nhóm cần
phải có trách nhiệm đối với cách làm việc của nhóm mình cũng như làm việc hết
mình để đạt kết quả cao nhất, nên viết những điều lệ ra giấy và thực hiện nghiêm
chỉnh.
Khi bộ máy đã được thiết lập và đi vào vận hành thì cũng cần có những kỹ

năng, quy trình rõ ràng cụ thể. Trước hết, một đội nhóm cần phải có sự cộng tác
giữa các thành viên.
2.4 Sự cộng tác:
Việc giải quyết vấn đề trong nhóm khác với việc một cá nhân giải quyết vấn
đề. Ví dụ, ta đặt câu hỏi: tại sao cuộc thi phương pháp học đại học hiệu quả lại là sự
tham gia của đội nhóm mà không phải riêng một cá nhân nào? Đơn giản chỉ là nếu là
cá nhân thì có những cái nhìn không khách quan. Nhiều người sẽ có nhiều thông tin,
các thông tin sẽ được chọn lọc và lựa chọn hợp lý hơn. Là cá nhân sẽ có quan điểm
riêng và đôi khi có những quan điểm không đúng sẽ không có người nhận ra cái sai
của mình nếu như họ không làm tập thể. Mỗi người sẽ có những phương pháp học
khác nhau nhưng không phải tất cả các phương pháp đều hiệu quả. Làm Chính vì
vậy, khi làm việc nhóm cần thiết phải nâng cao sự cộng tác giữa các thành viên. Đơn
giản chỉ là khi làm việc với nhau để cùng giải quyết vấn đề thì với những quan điểm và
cách hiểu khác nhau cộng thêm những sự kiện và kiến thức khác nhau sẽ tạo ra
những giải pháp tối ưu. Sự cộng tác tốt tức là các thành viên chăm chú lắng nghe các
thành viên khác đóng góp ý kiến dựa trên ý tưởng của nhau, sửa đổi ý tưởng, bỏ qua
hoặc lấy lại ý tưởng, đưa ra cái mới.
Nhóm tôi thể hiện rất rõ điều này. Khi có một vấn đề mới cần giải quyết như
nội dung của mục tiêu gồm những phần nào thì trước khi họp mỗi người chuẩn bị về
nội dung trước. Trong trong khi thảo luận những ý kiến đưa ra sẽ được ghi ra tờ giấy
khác ra, ghi nhận tất cả ý kiến của mọi người. Và cuối cùng thảo luận về tất cả các ý
kiến.
2.5 Sự đồng thuận:
Trang 23 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
Nếu tinh thần cộng tác là giúp nhóm đặt ra những ý tưởng sáng tạo và thú vị
thì sự đồng thuận chính là quá trình giúp nhóm đi đến lựa chọn những ý tưởng hay
nhất và thực hiện chúng. Có rất nhiều quyết định mà một nhóm đưa ra cần có sự
đồng lòng của cả nhóm. Mỗi lựa chọn đều có những thuận lợi và bất lợi riêng, không

có gì là hoàn hảo cả. Đồng lòng đơn giản chỉ là một quyết định được chọn trong một
nhóm mà tất cả mọi người đều cho rằng đó là quyết định tốt nhất. Trong quá trình đi
tìm sự đồng thuận tất cả các thành viên với những quan điểm khác nhau sẽ nhìn
nhận vấn đề theo cách tương tự như nhau hay ít nhất là thu hẹp lại những khác biệt
đó. Trong sự đồng thuận, các quan điểm khác nhau của từng thành viên sẽ được
phát hiện, cân nhắc, so sánh, thảo luận… khi các thành viên nhận thấy, thấu hiểu
vấn đề thì sẽ đi đến được những quyết định hợp lý, đúng lúc, đúng nơi.
Muốn tìm kiếm được những quan điểm chung trong một nhóm thì mỗi thành
viên trong nhóm phải thể hiện họ cảm thấy như thế nào về vấn đề này. Đó là sự bộc
lộ chân thành và cởi mở cho thấy tại sao họ nghĩ rằng lựa chọn này tốt hơn lựa
chọn kia. Các thành viên trong nhóm cần phải bảo vệ ý tưởng của mình bằng cách
đưa ra các luận điểm sau đó nhóm sẽ nhận ra cái chung của nhóm. Không có ý
tưởng sai hoặc đúng mà chỉ là ý tưởng đó có tốt trong trường hợp, hoàn cảnh này
không. Để tìm kiếm sự đồng thuận thì đòi hỏi các thành viên phải có sự nỗ lực rất
lớn.
Tuy nhiên, trong cách làm việc của người Việt Nam ở các cuộc họp thường có
dấu hiệu mỗi người một ý kiến không ai chịu ai, điều đó rất khó ra quyết định. Nhưng
khi đã quyết định một phương án nào đó rồi thì những người không đồng tình mặc
dù là thiểu số nhưng vẫn không chịu làm theo đa số hoặc có sự miễn cưỡng. Điều
đó làm cho công việc không được thực hiện một cách suôn sẻ. Vì vậy khi đưa ra
quyết định, nhóm nên hỏi các thành viên trong nhóm là họ có cảm thấy bị lừa phỉnh
hay miễn cưỡng trong quyết định đó không. Nếu họ cảm thấy có thể chấp nhận
được tức là lúc này họ đang thỏa hiệp, chấp nhận quyết định nhưng nếu họ không
thể chấp nhận thì đây là lúc chúng ta nên xem lại quyết định đó. Tuy nhiên, sự thỏa
hiệp khi quyết định không thể tạo thành thói quen cho nhóm. Nếu không sẽ làm cho
các thành viên cảm thấy bị gạt ra hay không có khả năng tác động vào nhóm như
vậy sẽ đánh mất lòng nhiệt tình và sự tận tụy đối với nhóm.
Và một khi ý kiến đã được thống nhất thì các thành viên phải tôn trọng và thực
hiện một cách tốt nhất. Chúng ta nên tạo sự đồng thuận của nhóm trong việc ra
quyết định vì chỉ có sự đồng thuận mới đưa đến được ý tưởng hay nhất.

2.6 Phân công hợp lý:
Mỗi thành viên trong nhóm cũng là một “người chơi” trong đội; Điều đó có
nghĩa là nhóm tin tưởng mỗi thành viên hoàn thành phần việc của họ. Chính vì vậy,
các thành viên trong nhóm cần phải biết việc nhóm mình đang cố gắng thực hiện là
gì. Trong nhóm cần có sự phân công công việc hợp lí. Điều này phụ thuộc rất nhiều
vào vai trò và khả năng chỉ đạo của nhóm trưởng. Khi công việc được phân công rõ
ràng cho từng thành viên họ sẽ ý thức được vai trò của mình, có trách nhiệm hoàn
thành công việc. Một điều đặc biệt quan trọng phải nói đến là sự tự ý thức của các
cá nhân trong nhóm, bản thân mỗi người cần nhận thấy trách nhiệm của mình. Một
nhóm học chỉ hiệu quả khi các thành viên có ý thức tự giác về thời gian, bài vở, tự
giác “phát biểu”…
Việc phân công hợp lý là vấn đề cốt yếu ảnh hưởng đến sự thành bại của một
tập thể trong công việc. Biết rõ phận sự, giới hạn về quyền hành và thời gian của
Trang 24 / 39
Cuộc thi: Nhóm:
“Phương pháp học đại học hiệu quả” “Tầm nhìn mới”
mình sẽ giúp mọi người trong nhóm dễ làm việc với nhau hơn. Khuyến khích tính
đồng đội bằng cách phân chia công việc rõ ràng cụ thể. Tuy sự phân công công việc
rõ ràng- việc ai người đó làm nhưng cần có sự hỗ trợ lẫn nhau “Một cây làm chẳng
nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Ở nhóm chúng tôi, mỗi thành viên có một năng khiếu và một thế mạnh riêng.
Điều này chính là thuận lợi lớn mà nhóm trưởng đã nhìn ra từ đầu như phần 2.1 có
nói. Cụ thể là:
Bạn Kiều Nhi có khả năng tìm ý, đọc sách và nắm bắt thông tin;
Bạn Minh Nguyệt có khả năng viết, triển khai ý;
Bạn Hoàng Hiếu có thế mạnh giải quyết các vấn đề về máy vi tính;
Bạn Diễm Phúc có khả năng ngoại giao;
Bạn Bảo Trân có khả năng tìm kiếm thông tin trên mạng;
Bạn Khánh Vân có khả năng sắp xếp ý và triển khai thông tin.
Vì vậy, khi làm bài luận này việc tìm kiếm thông tin được giao cho Kiều Nhi

(đọc sách) và Bảo Trân (trên mạng). Sau đó Khánh Vân sẽ sắp xếp ý thành một dàn
bài hoàn chỉnh rồi cùng với Minh Nguyệt triển khai ý. Sau đó nhóm họp thống nhất
nội dung từng phần. Việc dàn trang và các kỹ thuật trên máy tính sẽ do Hoàng Hiếu
đảm nhận. Diểm Phúc là người có nhiệm vụ hỗ trợ vòng ngoài như tìm phòng họp
cho nhóm, thăm dò ý kiến thầy cô và sinh viên…
Tất nhiên quy trình trên chỉ là một quy trình cơ bản và có người phụ trách
chính; những nhiệm vụ nhỏ trong đó đều có đồng đội hỗ trợ và trong quá trình làm
việc nếu có trục trặc lớn (thay đổi dàn bài) nhóm sẽ họp gấp và thống nhất ý kiến.
“Đến với nhau là bước khởi đầu, ở bên nhau là một quá trình phát triển,
nhưng làm việc cùng nhau mới là thành công.” - (Henry Ford).
3
2.7 Tin tưởng lẫn nhau:
Như đa số mọi người đã biết khi niềm tin giữa con người mất đi thì sẽ rất khó
làm việc cùng nhau. Các thành viên là như nhau, mọi người đều có trình độ, sự hiểu
biết khi tham gia vào nhóm. Mỗi người có thế mạnh riêng, tính cách riêng. Do đó, ý
kiến, ý tưởng của mỗi người đều có giá trị trong quá trình làm việc. Tuyệt đối không
nên có sự "vạch lá tìm sâu" hay "con sâu làm rầu nồi canh". Thành quả chỉ đến từ
sự cống hiến và tin tưởng lẫn nhau của các thành viên trong nhóm.
Tin tưởng cũng là sự tôn trọng. Khi một ý kiến nào đó được đưa ra và được
mọi người ghi nhận, tôn trọng có nghĩa là mọi người tin tưởng vào nhau. Khi đã có
niềm tin vào nhau thì việc giải quyết công việc sẽ dễ dàng hơn. Mỗi thành viên trong
nhóm phải tôn trọng ý kiến của những người khác thể hiện qua việc động viên, hỗ
trợ nhau, nỗ lực biến chúng thành hiện thực. Mọi ý kiến cần được ghi chép lại sau
đó loại dần những ý kiến bất khả thi và tóm tắt những ý khả thi. Trong buổi họp
nhóm tuyệt đối không được miệt thị ý kiến nào. Đôi khi nhiều ý kiến tưởng chừng
như ngớ ngẩn lại là giải pháp có hiệu quả cao nhất. việc tôn trọng ý kiến của người
khác cũng sẽ tạo những sáng tạo mới mẻ và một tinh thần thoải mái khi họp nhóm.
Vậy làm thế nào để xây dựng được niềm tin giữa các thành viên trong nhóm?
Chúng tôi có một vài ý kiến sau:
3

Michael Maginn. Thúc đẩy nhóm làm việc hiệu quả.
Trang 25 / 39

×