Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A - Phần mở bài
I. Tình hình Việt Nam nói chung và nền kinh tế nói riêng.
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử xây dựng và bảo vệ, đất nớc ta đã có
những bớc thăng trầm trên con đờng phát triển. Gần đây nhất hai cuộc chiến
tranh chống Pháp, Mỹ và chiến tranh biên giới 1979 của dân tộc ta diễn ra
hết sức khốc liệt. Tuy đã đổi mới song hậu quả của nó để lại không nhỏ : tái
tạo cơ sở vật chất, chế độ bao cấp bất ổn, thơng binh, trình độ tri thức N ớc
ta hội nhập kinh tế là xuất phát từ mục tiêu kinh tế - xã hội trong quá trình
phát triển, bao gồm sự lựa chọn chế độ xã hội theo định hớng xã hội chủ
nghĩa (XHCN). Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bằng đờng lối, chính sách và
hệ thống pháp luật chặt chẽ, theo phơng châm : dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra hay dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Tình hình chính trị hiện nay khá ổn định tuy có một vài vụ rắc rối
nhỏ, nhng chúng ta không đợc chủ quan khi mà bọn phản động cấu kết âm
mu lật đổ thờng trực. Sự tồn tại của một quốc gia không thể thiếu yếu tố kinh
tế. Tình hình đất nớc ta hiện nay đã thoát khỏi chế độ bao cấp, nền kinh tế lạc
hậu và chuyển sang nền kinh tế thị trờng. Do đó nó mang tính cạnh tranh cao,
công cụ quản lý nền kinh tế của chính phủ cũng rất đa dạng phù hợp với thời
kỳ mở cửa. Thực tiễn của công cuộc đổi mới cơ chế kinh tế và cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần, cũng nh mở cửa để hội nhập quốc tế trong gần 15 năm
qua cho thấy nền tảng của độc lập, tự chủ, an ninh xã hội và thực hiện định h-
ớng XHCN. Có thể liệt kê : tốc độ tăng trởng kinh tế khá cao, bình quân GDP
hàng năm (thời kỳ 1991 - 1995) là 8,2%, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
cao gấp 2 - 3 lần tốc độ tăng GDP, du lịch và dịch vụ quốc tế tăng nhanh
chóng, Chúng ta đang b ớc vào giai đoạn quá độ lên XHCN từ điểm xuất
phát thấp, nền kinh tế nhỏ, tự cấp tự túc, tình trạng phổ biến của tái sản xuất
giản đơn, lực lợng sản xuất lạc hậu cản trở tới sự phát triển và tăng tr ởng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế. Tuy nhiên chúng ta cũng đợc sự giúp đỡ tích cực của bạn bè quốc tế
về vốn, công nghệ, quản lý,
II.Tình hình thế giới.
Mặt khác cả thế giới vừa thoát khỏi hai cuộc chiến tranh (chiến tranh
thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai) và nguy cơ một cuộc chiến tranh hiện đại,
công nghệ cao : chiến tranh hạt nhân, vũ khí sinh học, chiến tranh ảo, Đặc
biệt là chiến tranh sắc tộc (nh cuộc chiến sắc tộc tôn giáo ở ấn Độ,
Inđônêxia ) và âm m u can thiệp nội bộ, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Có một số
vấn đề phải giải quyết đối với thế giới đó là gì ? dân số, nớc sạch, thu nhập,
rất nhiều điều phải làm. Hãy xem xét thuận lợi và khó khăn sau : thuận lợi
là xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá phát triển ngày càng nhanh, khoa học
công nghệ phát triển tác động rất lớn đến kinh tế. Còn khó khăn đó là nạn
suy thoái môi trờng đe dọa đời sống con ngời và thiên nhiên, bùng nổ dân số
(Trung Quốc và ấn Độ, hai quốc gia đứng đầu thế giới về dân số), nghèo đói,
sự lộng hành của các tập đoàn kinh tế lớn (ban đầu sở tài chính ) có ảnh h -
ởng rất lớn đến kinh tế và chính trị các nớc (tỷ lệ phát triển kinh tế không
đồng đều, bất ổn định).
Sự tiến bộ khoa học không chỉ một gia hay một khu vực đợc hởng thụ
mà toàn thể nhân loại đợc hởng, có điều sự phân phối lợi ích không đồng đều
và không công bằng. Nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là phải tạo ra sự công
bằng, đa tiến bộ khoa học và sự hởng thụ văn hoá tinh thần đến tất cả mọi ng-
ời mà vẫn đảm bảo đợc bản sắc dân tộc. Đó là một số vấn đề cần lý luận
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia, trong đó có Việt
Nam.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B - Phần thân bài
I. Một số vấn đề lý luận về hộinhập kinh tế quốc tế.
1. Nói đến kinh tế quốc tế phải đề cập đến vấn đề toàn cầu hoá. Vậy
toàn cầu hoá là gì ? Nó có phải là quá trình tất yếu khách quan không ?
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan. Trong hơn một thập kỷ
lại đây xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ gắn
liền với sự phát triển của khoa học - công nghệ sự chấm dứt chiến tranh lạnh,
thế giới chuyển sang thời kỳ mới hoà bình, hợp tác xã phát triển. Sự gia tăng
này đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lợc hội
nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này không
thể phát triển nếu nh không mở cửa hội nhập. Tuy vậy hội nhập cũng có mặt
đợc, mặt mất : Cơ hội phát triển kinh tế cho các nớc nghèo nhng cũng kéo
theo hàng loạt rắc rối, khó khăn trong xu thế ấy. Việt Nam đang chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Việc hội nhập vào trào lu nền
kinh tế thế giới và khu vực là một nội dung quan trọng trong công cuộc đổi
mới hiện nay. Do vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu bản chất của toàn cầu hoá có
ý nghĩa cả lý luận lẫn thực tiễn. Sự nhìn nhận, đánh giá về toàn cầu hoá trên
nhiều phơng diện thông tin trong những năm gần đây cha hoàn toàn thống
nhất, thậm chí trái ngợc nhau. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tên gọi :
thế giới hoá, quốc tế hoá, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, Điều này cho
thấy những cách lý giải và thái độ không giống nhau đối với xu thế này. Có
quan điểm cho rằng toàn cầu hoá chỉ mới xuất hiện gần đây, là chính sách
của Mỹ nhằm bành trớng quyền lực và thống trị thế giới theo kiểu Mỹ. quan
điểm này không chỉ tồn tại ở các nớc đang phát triển mà còn ở chính các nớc
phát triển : Nhật, Sau chiến tranh lạnh, thế giới vận động theo trật tự đa cực
với một siêu cờng là Mỹ. Với sức mạnh của mình, Mỹ đang đóng vai trò chi
phối bàn cờ thế giới. Điều này đợc chứng minh rất rõ : suốt những thập kỷ
sau chiến tranh thế giới thứ hai Mỹ luôn chiếm 30% GDP thế giới, là một
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong hai siêu cờng hạt nhân thế giới hay một sự kiện điển hình : cuộc khủng
hoảng kinh tế 1933 làm giảm tỷ lệ tăng trởng GDP của Mỹ mất 2% (tơng đ-
ơng với thiệt hại 200 tỷ USD, trong đó tổng GDP của Mỹ khoảng 10.000 tỷ
USD) bằng tổng GDP của mấy chục nớc đang phát triển. Trong lĩnh vực kinh
tế, Mỹ thao túng các định chế kinh tế toàn cầu, đòi các quốc gia phải mở
rộng thị trờng. Toàn cầu hoá là chính sách của Mỹ, là Mỹ hoá bởi Mỹ đang
giữ vai trò bá chủ chi phối phần quan trọng trong các hoạt động quan hệ kinh
tế quốc tế. Toàn cầu hoá biểu hiện trớc mắt hết ở sự gia tăng của tự do hoá
trong lu chuyển các loại hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động. Nguyên nhân
của sự vợt quá cản trở hàng rào biên giới này chính là sự phát triển mạnh mẽ
của lực lợng sản xuất. Việc giao lu giữa các vùng đặt ra nhiều cơ hội cho phát
triển sản xuất kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, đặc biệt là mở rộng giao tiếp
và mở rộng thị trờng. Sự phát triển của chủ nghĩa t bản (CNTB) nh Mác đã
chỉ ra luôn bị giới hạn bởi thị trờng và nguyên liệu. Việc phát triển vợt bậc
của lực lợng sản xuất trong CNTB so với các xã hội trớc đó cũng chính là cơ
sở, điều kiện cho quá trình bành trớng ra bên ngoài. Sự hình thành và phát
triển của CNTB mà dẫn đến nảy sinh quan niệm về quốc tế hoá trớc kia và
toàn cầu hoá ngày nay là xu thế lớn của sự vận động của nền kinh tế thế giới
do các nớc t bản đứng đầu là Mỹ. Nguồn gốc này là do sự cạnh tranh lợi ích,
sự chiếm lĩnh độc quyền trong lĩnh vực nào đó. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá
thực chất không phải là chủ trơng của một quốc gia nào. Thực ra nhu cầu về
tự do hoá và hội nhập đợc đẩy đến bởi sự phát triển của lực lợng sản xuất do
chính CNTB tạo ra. Cũng có loại quan điểm thừa nhận tính tất yếu khách
quan của quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá, xét về bản chất, là quá
trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hởng, tác động lẫn nhau,
phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn
thế giới
(1)
. Toàn cầu hoá nh vậy là một quá trình phản ánh sự phát triển mạnh
mẽ của lực lợng sản xuất, kéo theo đó là sự gia tăng các mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau ở cấp độ toàn cầu. Có ý kiến nhấn mạnh khía cạnh phát triển
(1)
Tạp chí cộng sản số 22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của lực lợng sản xuất, xem toàn cầu hoá là giai đoạn cao của quá trình phát
triển lực lợng sản xuất thế giới. Toàn cầu hoá ngày nay về bản chất chính là
sự tăng trởng của hoạt động kinh tế nói chung đã vợt khỏi biên giới quốc gia.
Nói cách khác toàn cầu hoá mang nội dung chủ đạo là toàn cầu hoá kinh tế.
Thực tế cha một quốc gia nào thực sự tự do hoá nền kinh tế toàn cầu, bởi toàn
cầu hoá là hiện tợng cực kỳ phức tạp, đầy mâu thuẫn. Toàn cầu hoá là một
trong những biểu hiện, một bộ phận tổ thành của quá trình tự nhiên đi tới chủ
nghĩa cộng sản - cộng đồng toàn thế giới của những ngời lao động tự do và
phát triển toàn diện
(2)
.
Bản chất của toàn cầu hoá là hệ thống kinh tế thị trờng, không bị giới
hạn bởi các đờng biên giới, ranh giới dân tộc, tôn giáo Phải chăng toàn cầu
hoá chính là phơng cách, con đờng, một giai đoạn tất yếu phải qua để đi lên
CNXH. Điều này có liên quan mật thiết đối với Việt Nam mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau bởi : Toàn cầu hoá là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan hệ
gắn kết tác động phụ thuộc lẫn nhau, là quá trình mở rộng quy mô và cờng
độ hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn
cầu trong sự vận động phát triển. Quốc tế hoá, toàn cầu hoá là một quá trình,
vì vậy mà khác với các vấn đề toàn cầu. Sự tham gia vào quá trình quốc tế
hoá, toàn cầu hoá chính là thực hiện hội nhập quốc tế. Toàn cầu hoá là một
xu hớng bao gồm nhiều phơng diện : kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Quốc
tế hoá, toàn cầu hoá đó phải là phản ánh quy mô các hoạt động liên quốc gia,
song toàn cầu hoá có thực sự theo một chiều hớng tốt ? có đảm bảo một cuộc
sống mới, tốt đẹp hơn cho cộng đồng thế giới ? bởi bản chất của các hoạt
động kinh tế này ra sao, chúng ta cha hiểu rõ ?
Toàn cầu hoá (về kinh tế) là tự do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế : th-
ơng mại, dv, Vậy thì toàn cầu hoá kinh tế là gì ? Có ý kiến nêu toàn cầu
hoá kinh tế là những mối quan hệ kinh tế vợt qua biên giới quốc gia, vơn tới
quy mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lợng mới. Các quốc gia dù muốn
hay không dần dần đều buộc phải hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực
(2)
Tạp chí Kinh tế thế giới sô 2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và toàn cầu, phải có chiến lợc và chính sách tích ứng với quá trình toàn cầu
hoá. Vấn đề đặt ra từ quan niệm này là tự do hoá kinh tế kiểu nào, trên cơ sở
nào ? Hội nhập và cam kết với ai, cam kết cái gì ? Phải chăng chúng ta cứ
chấp nhận, cam kết những điều kiện đang tồn tại, có bảo đảm hội nhập mà
không bị hoà tan, Có rất nhiều quan niệm về vấn đề này, nh OECD cho
rằng : Toàn cầu hoá kinh tế là sự vận động tự do của các yếu tố sản xuất hay
quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng : Toàn cầu hoá là sự gia tăng không ngừng
các luồng mậu dịch, vốn, kỹ thuật, Chúng ta có thể đúc kết qua nhận định
của một số chuyên gia kinh tế : Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng
nhanh chóng các hoạt động kinh tế vợt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực,
tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển
hớng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này đợc
thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lu chuyển của
các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu. Sự thực toàn cầu hoá là hiện
tợng phức tạp, chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn trong nó.
2. Chúng ta thử đi sâu phân tích cơ sở khách quan của xu thế toàn
cầu hoá.
Trớc hết đó là sự phát triển cao của lực lợng sản xuất : thời phong kiến
lực lợng sản xuất và giao thông kém phát triển cho nên hoạt động trao đổi,
sản xuất chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp. Mác và Ăngghen viết Đại công
nghiệp đã tạo ra thị trờng thế giới
Trong thời kỳ đầu quá trình quốc tế hoá, các hoạt động kinh tế giữa các
quốc gia mang nặng tính chất phụ thuộc một chiều. Các quóc gia phát triển
hơn thờng đàn áp các nớc kém (Anh, Mỹ, Pháp ) và giành cho mìnhmột
khu vực và thị trờng kinh tế riêng. Tuy vậy sự phát triển mạnh mẽ của lực l-
ợng sản xuất cùng với ý thức độc lập đã đa lại sự phát triển mới của phân
công lao động. Các quốc gia trớc kia vốn phụ thuộc, là thuộc địa của các đế
quốc, nay giành đợc độc lập đã tham gia vào quá trình phân công lao động
quốc tế. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai gắn liền với sự phát triển của
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phong trào giải phóng dân tộc là hiện tợng khoa học phát triển mạnh mẽ và
ngày càng trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Nó đã đợc nhanh chóng áp
dụng vào sản xuất, thúc đẩy phân công lao động phát triển lên một bớc mới.
Dới sự tác động của khoa học công nghệ các ngành kinh tế truyền thống dần
những bớc cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học kỹ thuật : mạng máy
tính quốc tế Internet, truyền hình cáp, khám phá vũ trụ, tóm lại chính sự
phát triển nh vũ bão của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng rào ngăn cản
địa giới, thúc đẩy quốc tế hoá kinh tế lên một thời kỳ mới. Thứ hai là sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế thị trờng : quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá có
sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình phát triển kinh tế thị trờng. Kinh tế thị trờng
càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc. Sự phát triển của kinh tế
thị trờng đã mở ra điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất, đẩy
mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá. Lợi
ích đem lại của kinh tế thị trờng : tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng
sản xuất và đa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế, đó là
cơ chế thị trờng. Mô hình Đức đợc gọi là mô hình kinh tế thị trờng xã hội,
của Mỹ là nền kinh tế thị trờng phân tán. Nhà nớc thông qua các công cụ
phát triển bảo đảm cạnh tranh thị trờng. Nhiều quốc gia vốn trớc đây từ chối
nền kinh tế thị trờng đã thực hiện mở cửa cải cách. Có thể nói ngày nay nền
kinh tế thế giới thống nhất ở cơ chế vận hành : cơ chế thị trờng. Đây chính là
cơ sở cho sự gia tăng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Sự phát triển của nền
kinh tế thị trờng không chỉ ở sự mở rộng quy mô về không gian, về sự xâm
nhập ràng buộc lẫn nhau giữa các thị trờng mà còn thể hiện ở sự phát triển
của thị trờng tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới
trong thanh toán giao dịch. Nhìn chung các quốc gia trên toàn thế giới ngày
nay đều dựa trên cơ chế thị trờng, sử dụng các phơng tiện và công cụ của
kinh tế thị trờng trong hoạt động kinh doanh, đa lại một không gian rộng lớn,
không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lu chuyển các yếu tố của
chính quá trình sản xuất ấy.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ ba là sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết
thúc chiến tranh lạnh, bớc vào thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển. Tình
hình chạy đua vũ trang khốc liệt điển hình là các quốc gia với tiềm lực kinh
tế mạnh : Mỹ, Nga, Pháp, Đức,
Trong suốt mấy thập kỷ chạy đua vũ trang, nhất là vũ khí hạt nhân. Các
bên đều nhận thấy một cuộc chiến tranh hiện đại nổ ra sẽ không có ngời
chiến thắng. Nhìn chung các vấn đề toàn cầu đều có quan hệ nhân quả với
nhau cho nên phải có quan hệ tổng thể khi giải quyết và đòi hỏi phải có sự nỗ
lực của mọi quốc gia. Các vấn đề toàn cầu là liên quan mọi quốc gia, tác
động trên phạm vi thế giới. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh thị trờng thế giới
bị chia cắt không cho phép các quốc gia thống nhất hành động, liên kết sức
mạnh. Sự kết thúc chiến tranh lạnh, sự phân chia thế giới thành hai cực đối
lập đã và đang chuyển sang trật tự theo hớng đa cực, thế giới vận động trong
xu thế hoà dịu hợp tác và phát triển. Đây cũng xem là cơ sở quan trọng cho
sự gia tăng mạnh mẽ xu thế quốc tế hoá lên một trình độ mới, đó là toàn cầu
hoá.
3. Xét vai trò của các chủ thể trong xu hớng toàn cầu hoá, ta thấy
có hai vai trò chính.
Thứ nhất : là sự bành trớng của các công ty xuyên quốc gia (TNC). Sự
phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia trong những thập niên
qua vừa phản ánh đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá, vừa là nhân tố thúc
đẩy quá trình quốc tế hoá gia tăng mạnh mẽ lên một bớc mới toàn cầu hoá.
Quá trình phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong CNTB tất yếu dẫn đến sự
tập trung sản xuất và dẫn đến độc quyền. Nếu vào cuối những năm 60 có
khoảng 7000 Công ty xuyên quốc gia, thì đến những năm 80 có khoảng 20
nghìn. Với một mạng lới rộng khắp đối với Việt Nam ngày 27/11/2001, Bộ
Chính trị đã ban hành nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu của
hội nhập là mở rộng thị trờng, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, để đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hớng XHCN. Quán triệt chủ trơng đ-
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ợc xác định tại Đại hội IX, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn
dân, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đề ra kế
hoạch và lộ trình hợp lý và kết hợp chặt chẽ quá trình họi nhập kinh tế quốc
tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng. Có nh vậy chính phủ và toàn
dân ta mới có điều kiện tiếp cận với hình thức độc quyền, đối phó với sự bành
trớng của nó. Việc gia tăng các hoạt động TNC ở các quốc gia đang phát
triển còn đóng góp quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao
trình độ quản lý và chuyển giao các công nghệ hiện đại. Đây là những mặt rấ
quan trọng để các quốc gia đang phát triển nâng cao trình độ phát triển của
mình từng bớc rút ngắn khoảng cách phát triển. Các TNC đã dựa vào vốn, kỹ
thuật, nguồn thông tin để thiết lập các chi nhánh khác nhau ở các nơi có điều
kiện thuận lợi nhất cho việc sản xuất gia công, lắp ráp. Sự phát triển và xâm
nhập ngày càngmạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia vào các nền kinh tế
dân tộc đã góp phàan xoá bỏ sự ngăn cách, biệt lập trong phát triển của nhiều
quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc từng bớc tham gia, thích ứng với
các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế, đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ
những bản sắc riêng của các quốc gia bổ sung vào nền kinh tế toàn cầu, làm
gia tăng tính đa dạng của nó.
Thứ hai, là vai trò cua các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Các
định chế kinh tế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Trong các tổ chức kinh tế - thơng mại - tài chính
toàn cầu và khu vực có ảnh hởng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực
hoá về kinh tế : WTO, IMF, WB, liên hợp quốc, các tổ chức khu vực : EU,
ASEAN
Ngoài những lý do chủ yếu đã nêu thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu
hoá trong những thập kỷ gần đây, chúng ta có thể kể một số lý do khác : sự
phát triển về dân chủ, về văn hoá
4. Bây giờ ta xét các tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế -
chính trị.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trên phơng diện kinh tế nó đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế thế
giới. Thực chất của những tác động đợc biểu hiện trên một số điểm : Thứ
nhất toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất nhanh, mạnh sự phát triển và xã hội
hoá lực lợng sản xuất, đa tốc độ tăng trởng của thế giới lên mức cao. Toàn
cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt
làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tạo, dịch vụ. Thứ hai dới tác động của toàn
cầu hoá, các thị trờng thế giới từng bớc đợc thống nhất và ngày càng phát
triển. Với xu thế đó nó sẽ tạo nên một sự loại bỏ các rào cản và có sự điều
chỉnh trong sự vận hành. Khi thị trờng thế giới thống nhất và phát triển thì
các rào cản thơng mại sẽ từng bớc bị loại bỏ, một trong những thành công
của phơng diện này là sự ra đời của các hiệp định buôn bán thông thờng (hiệp
định thơng mại ký kết giữa Việt Nam - Mỹ là một điển hình trong quan hệ
buôn bán song phơng). Trong Hội nghị tổ chức thơng mại thế giới, thơng
mại, dịch vụ là một trong ba đề tài lớn. Trên phơng diện chính trị, nguy cơ
can thiệp nội bộ, trong đó can thiệp chính trị đợc thấy rất rõ (Mỹ can thiệp
vào Nam T là một ví dụ điển hình trong thập kỷ 90 vừa qua). Sự can thiệp
này đợc tổ chức rất quy củ theo những điều kiện ràng buộc, đặc biệt của các
nớc có tiềm lực kinh tế lớn (Mỹ, Pháp, ) và các tập đoàn xuyên quốc gia.
Về cơ bản có hai hình thức can thiệp chính trị thờng thấy trong quá trình toàn
cầu hoá : Thứ nhất, mợn chiêu bài duy trì chuẩn mực và quy tắc quốc tế để
can thiệp vào công việc nội chính và ngoaị giao của nớc khác. Thứ hai, lấy lý
do bảo vệ an ninh quốc tế và thực thi chủ nghĩa nhân đạo để thực hiện can
thiệp xuyên quốc gia đối với các nớc khác, bất chấp cả việc có vi phạm chuẩn
mực và nguyên tắc quốc tế hiện hành hay không ?
Thực chất, can thiệp chính trị trong quá trình toàn cầu hoá là hành vi
phản ánh rõ nét đặc trng của lợi ích nớc lớn (tính cờng quốc, bá chủ). Mợn
danh nghĩa là ngời nắm vai trò chủ đạo trong tiến trình phát triển toàn cầu
hoá, các nớc lớn, tập đoàn kinh tế mạnh đã dựa vào u thế kinh tế, chính trị va
sức mạnh quân sự của mình để thực hiện lợi ích bản thân. Biểu hiện cụ thể
của toàn cầu hoá kinh tế đối với chính trị gồm nhiều mặt : cán cân sức mạnh