Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.44 KB, 110 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH





BÙI THỊ NGÀ








GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG CHI NHÁNH PHÚ THỌ





Chuyên ngành: Quản lý kinh tế












Thái Nguyên - 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh doanh có hiệu quả và việc không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh
là vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp nói chung cũng như mỗi ngân hàng
thương mại nói riêng. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập
quốc tế, cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, việc tiết kiệm chi phí , nâng
cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện rất cần thiết, tối quan trọng để giảm giá thành,
giá bán hàng hoá, dịch vụ và cạnh tranh thắng lợi với các đối thủ trong nước và
quốc tế.
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Phú Thọ
cũng không nằm ngoài vòng cạnh tranh khốc liệt đó. Là doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ, có đặc thù riêng trong hoạt động kinh tế tài chính, nhưng đơn vị này cũng
giống như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, đều sử dụng các yếu tố sản xuất
như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động làm yếu tố đầu vào để sản xuất ra
những đầu ra dưới hình thức dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu cầu. Vì vậy,
muốn tồn tại và phát triển thì ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông cửư long chi

nhánh Phú Thọ buộc phải hoạt động kinh doanh hiệu quả. Đặc biệt, trong bối cảnh
hiện nay, thị trường tài chính phát triển mạnh mẽ, các ngân hàng thành lập ngày
càng nhiều, mức độ cạnh tranh ngày càng cao làm cho hoạt động kinh doanh càng
trở nên khó khăn hơn, thì hiệu quả kinh doanh cao là mục tiêu phấn đấu có ý nghĩa
quyết định sự thành công của mỗi ngân hàng nói chung và ngân hàng phát triển nhà
đồng bằng sông cửư long chi nhánh Phú Thọ nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân cả chủ quan và khách quan, hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển
nhà đồng bằng sông cửư long chi nhánh Phú Thọ thời gian qua còn nhiều khiếm
khuyết và hiệu quả chưa cao, cần phải được nghiên cứu thấu đáo và tìm ra các giải
pháp khắc phục.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh,
từ thực trạng của doanh nghiệp, tôi đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



quả kinh doanh tại ngân hàng phát triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long chi nhánh
Phú Thọ” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý luận cơ bản về hiệu quả kinh
doanh, các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Trên cơ sở đó, phân tích thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Phú Thọ, tìm ra nguyên
nhân của tình hình và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tuợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những kiến thức lý luận cơ bản về hiệu
quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại và thực trạng hoạt động cũng như
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi

nhánh Phú Thọ.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển
nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Phú Thọ trong giai đoạn 2009 -2011.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1 Về mặt lý luận
Góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh và các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
4.2 Về mặt thực tiễn
Từ việc phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh tại ngân hàng phát
triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Phú Thọ cùng nguyên nhân của tình
hình đó, tác giả đề tài sẽ đề xuất các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp này. Những giải pháp và kiến nghị đó có cơ sở
khoa học và thực tiễn, có tính khả thi chẳng những sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



kinh doanh của doanh nghiệp là đơn vị nghiên cứu, mà còn có thể làm tài liệu tham
khảo cho nhiều ngân hàng thương mại khác.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 4 chương:
- Chương 1: Lý luận về hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại và
thực tiễn ở Việt Nam.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
- Chương 3: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh tại ngân hàng phát
triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Phú Thọ.
- Chương 4: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại ngân hàng
phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Phú Thọ.










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG CÁC
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về ngân hàng thƣơng mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thƣơng mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ,
tín dụng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ở mỗi nước có một cách
định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại.
Ở Mỹ: ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân
hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác
và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng
và tài chính”
Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay
hay tài trợ và đầu tư.
Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập

nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ
công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn khác…Cho đến thời điểm
hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
Ở Việt Nam: Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 ghi rõ:” Ngân hàng
thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ
yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó
để cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010, định nghĩa:
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



nhằm mục tiêu lợi nhuận. [Nguồn: Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12
ngày16 tháng 6 năm 2010, điều 4, khoản 3].
Luật này còn định nghĩa: Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một,
một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân
hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng
nhân dân. [Nguồn: Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 6
năm 2010, điều 4, khoản 1].
Có thể nói, trong các loại hình tổ chức tín dụng thì NHTM là loại hình ngân
hàng hoạt động mạnh nhất và đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh tiền
tệ hiện nay.
1.1.2 Các chức năng cơ bản của ngân hàng thƣơng mại
Nhìn chung NHTM có ba chức năng cơ bản theo sau đây:
Chức năng trung gian tín dụng: Chức năng trung gian tín dụng được xem là
chức năng quan trọng nhất của NHTM. Khi thực hiện các chức năng trung gian tín
dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về

vốn. Với chức năng này, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò
là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và
lãi suất cho vay góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và
người đi vay. Nếu không có khâu trung gian này thì những người có tiền nhàn rỗi
rất khó khăn để gặp gỡ người có nhu cầu vay và cũng khó biết phải đầu tư như thế
nào cho có lợi.
Chức năng trung gian thanh toán: Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ
cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách
hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu từ bán hàng và các khoản
thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện
thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán,
thẻ tín dụng Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể lựa chọn cho mình phương thức
thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có
thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy,
các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí tiền, thời gian, lại đảm bảo
thanh toán an toàn. Chức năng này đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc
độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền: Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản
chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho
sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính
đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức
năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng,
ngân hàng sử dụng vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được

khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao
dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ Với chức năng này, hệ
thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng
nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thƣơng mại
1.1.3.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới
hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và các tổ
chức tín dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



1.1.3.2 Hoạt động cho vay và dịch vụ tín dụng
Đây là hoạt động chủ yếu của NHTM bởi hoạt động này tạo ra thu nhập
chính cho NHTM và chiếm tỷ trọng lớn. Hoạt động cấp tín dụng cho tổ chức, cá
nhân dưới các hình thức sau:
Cho vay: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống. Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu
tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và phục vụ đời sống.
Bảo lãnh: Đó là hoạt động mà các NHTM cung cấp các dịch vụ bảo lãnh
cho các cá nhân, tổ chức như: bảo lãnh cho vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực

hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy
tín và khả năng tài chính của mình đối với bên nhận bảo lãnh.
Chiết khấu: Các NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác khi các cá nhân, tổ chức có yêu cầu.
Cho thuê tài chính: Các NHTM có thể hoạt động cho thuê tài chính nhưng
phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng nhưng phải thực hiện theo Nghị định
của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
1.1.3.3 Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và ngoài nước cho khách hàng.
- Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ.
- Thực hiện các dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho
phép.
1.1.3.4 Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động kể trên các NHTM còn thực hiện một số hoạt động khác
bao gồm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



Góp vốn và mua cổ phần: Các NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ
để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong
nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được góp
vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng
liên doanh.
Tham gia thị trường tiền tệ: Ngân hàng thương mại được tham gia thị
trường tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức

mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
Kinh doanh ngoại hối: Là hoạt động mà các NHTM dùng đồng tiền nước
này để kinh doanh ngoại tệ và vàng trên thị trường trong nước và quốc tế mang lại
thu nhập dưới hình thức chênh lệch giá.
Ủy thác và nhận uỷ thác: Ngân hàng thương mại có thể được ủy thác, nhận
ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, bao gồm
cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Cung ứng các dịch vụ bảo hiểm: Hiện nay do các quy định của Việt Nam
chưa cho phép các ngân hàng cung cấp trực tiếp các dịch vụ Bảo hiểm nên các ngân
hàng thường cung cấp dịch vụ này cho chính các khách hàng của mình thông qua
các thoả thuận đại lý cho các hãng Bảo hiểm và hưởng phí hoa hồng đại lý từ các
hãng Bảo hiểm.
Tư vấn tài chính: Cung cấp các dịch vụ tư vấn về lĩnh vực tài chính tiết
kiệm, đầu tư, thuế, các kế hoạch tài chính và các cơ hội kinh doanh trong và ngoài
nước cho cá nhân và các tổ chức.
Bảo quản vật có giá: Thực hiện các dịch vụ lưu trữ vàng và các vật có giá
khác trong kho bảo quản và các giấy tờ ghi nhận các tài sản ký gửi của khách hàng
chính là tiền thân của các loại séc bảo chi và thẻ tín dụng ngày nay.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng hoạt động
như một ngân hàng môi giới chứng khoán thực sự, đứng ra tổ chức bán các dịch vụ
môi giới chứng khoán mua và bán cho những khách hàng có nhu cầu mà không cần
thông qua bất cứ người môi giới chứng khoán nào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



1.1.4 Đặc điểm của ngân hàng thƣơng mại
Ngân hàng thương mại cũng có những đặc điểm chung giống như các doanh
nghiệp khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp khác, NHTM
là loại hình doanh nghiệp đặc biệt thể hiện qua các đặc điểm sau:

- Vốn và tiền vừa làm phương tiện, vừa làm mục đích kinh doanh nhưng
đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh của NHTM. Và chính đặc điểm này sẽ bao
trùm hơn và rộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
- Ngân hàng Thương mại kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn
tự có của NHTM chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc
kinh doanh của NHTM luôn gắn liền với một rủi ro mà ngân hàng buộc phải chấp
nhận với một mức độ bảo hiểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động kinh doanh hằng
ngày của mình, NHTM không những phải đảm bảo nhu cầu thanh toán, chi trả như
mọi loại hình doanh nghiệp khác, mà còn phải đảm bảo tốt nhu cầu chi trả tiền gửi
cho khách hàng. Từ đó cho thấy tính thanh khoản của NHTM có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng.
- Hoạt động kinh doanh của NHTM có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh
vực hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Do đó, tình hình tài chính
của NHTM có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp, tâm lý người dân, cũng như của cả nền kinh tế. Chính vì vậy, việc phân tích
đánh giá thực trạng tài chính của NHTM không chỉ là nhu cầu cấp thiết phục vụ cho
hoạt động quản lý của chính nhà quản trị ngân hàng mà còn là đòi hỏi mang tính bắt
buộc của ngân hàng trung ương
- Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ nó
tổng hợp tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng có thể gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất kỳ rủi ro của
loại loại hình doanh nghiệp nào vì tính chất lây lan có thể rung chuyển toàn bộ hệ
thống kinh tế. Do đó, trong quá trình hoạt động của NHTM phải thường xuyên cảnh
giác, nghiên cứu phân tích, đánh giá, dự báo và có những biện pháp phòng ngừa từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



xa có hiệu quả. Ngoài ra, điều này cũng đòi hỏi ngân hàng tự đánh giá được khả
năng chịu đựng rủi ro của mình.

- Hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc thù riêng mà các doanh
nghiệp trong ngành khác không có. Đồng thời, hoạt động kinh doanh của NHTM
diễn tiến liên tục trong mỗi loại hình nghiệp vụ và các sản phẩm của NHTM có mối
liên hệ với nhau chặt chẽ. Điều này sẽ gây khó khăn trong việc tách riêng từng mặt
hoạt động của ngân hàng để phân tích kết quả tài chính.
1.2 Hiệu quả kinh doanh trong các ngân hàng thƣơng mại
1.2.1 Tổng quan về hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh
1.2.1.1 Khái niệm, bản chất của hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu
quả kinh doanh
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các
mục tiêu hoạt động của chủ thể và nguồn lực mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó
trong những điều kiện nhất định.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả
cao nhất. Hay đơn giản hơn thì hiệu quả kinh doanh là sự so sánh gữa kết quả kinh
doanh với nguồn lực đầu vào. Hiệu quả phải gắn liền với việc thực hiện các mục
tiêu của doanh nghiệp và được thể hiện qua công thức sau:
Kết quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh =
Nguồn lực đầu vào được sử dụng
Hiệu quả kinh doanh mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận
được và chi phí bỏ ra hoặc các nguồn lực được huy động để nhận được lợi ích kinh
tế đó.
Biểu hiện của lợi ích và chi phí kinh tế phụ thuộc vào chủ thể và mục tiêu mà
chủ thể đặt ra. Đối với chủ thể doanh nghiệp, đó có thể là doanh thu bán hàng và
những chi phí gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để có được doanh thu bán
hàng đó
Hiệu quả kinh doanh được biểu hiện trên cả hai mặt lượng và chất:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN




Về mặt lượng: Hiệu quả kinh doanh biểu hiện mối tương quan giữa kết quả
thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đó. Ở góc độ
tài chính, hiệu quả kinh doanh chính là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh, là
chênh lệch giữa doanh thu đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là việc áp dụng các giải pháp, biện pháp có
thể để nâng cao doanh thu, tiết kiệm chi phí để nâng cao lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Về mặt chất: Việc đạt được hiệu quả kinh doanh cao phản ánh năng lực và
trình độ quản lý, đồng thời đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được những mục tiêu
kinh tế với việc đạt được những mục tiêu xã hội.
1.2.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu so sánh giữa kết quả kinh doanh và nguồn
lực đầu vào. Kết quả của hoạt động kinh doanh bao gồm: Số lượng sản phẩm tiêu
thụ, doanh thu và lợi nhuận, nguồn lực đầu vào của hoạt động kinh doanh bao gồm:
Lao động, tài sản, nguồn vốn.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh được đánh giá bằng 2 nhóm chỉ tiêu sau:
+ Nhóm chỉ tiêu sinh lợi
Lợi nhuận sau thuế
Sức sinh lợi vốn =
chủ sở hữu(ROE) Vốn chủ sở hữu bình quân

Chỉ tiêu này thể hiện trong thời gian nhất định cứ 1 đồng vốn chủ sở hữu sẽ
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn tự
có, đo lường tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có của các Ngân hàng.
Đánh giá ROE thế nào là tốt còn phụ thuộc vào cách mà doanh nghiệp sử
dụng để đạt được nó, vì nếu sử dụng đòn bẩy tài chính cao để nâng cao ROE thì
mức độ rủi ro sẽ cao, dưới giác độ ngân hàng, có thể chỉ chấp nhận ROE thấp hơn

lại an toàn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN




Lợi nhuận sau thuế
Sức sinh lợi tổng =
tài sản (ROA) Tổng tài sản bình quân

Chỉ tiêu này thể hiện 1 đồng tài sản trong thời gian nhất định tạo ra được bao
nhiêu lợi nhuận ròng. Tỷ số này phản ánh năng lực quản trị của ngân hàng về sử
dụng tài chính và những nguồn vốn thực sự đem lại lợi nhuận. Do đó, hệ số này
càng cao thì càng tốt.
Chỉ tiêu này càng cao thể hiện sự sắp xếp phân bổ và quản lý tài sản hợp lý
và hiệu quả. Còn càng thấp thì thể hiện vốn đang được sử dụng càng không hiệu
quả.
Lợi nhuận sau thuế
Sức sinh lợi lao động =
Số lao động bình quân

+ Nhóm chỉ tiêu hoạt động (năng suất)
Doanh thu
Năng suất lao động =
( tính theo giá trị ) Tổng số lao động bình quân

Sản lượng tiêu thụ
Năng suất lao động =
(tính theo hiện vật) Tổng số lao động bình quân


Doanh thu
Năng suất tài sản =
(sức sản xuất, vòng quay) Tổng tài sản bình quân

1.2.2 Hiệu quả kinh doanh trong các ngân hàng thƣơng mại
1.2.2.1 Thực chất hiệu quả kinh doanh trong các ngân hàng thƣơng mại
Hoạt động của NHTM về cơ bản cũng giống như các đơn vị kinh doanh
khác, do vậy hiệu quả kinh doanh được đo bằng kết quả đầu ra so với nguồn lực đầu
vào.
+ Kết quả đầu ra của NHTM là số lượng doanh thu và lợi nhuận; lợi
nhuận giống như các đơn vị kinh doanh khác, song do đặc thù của NHTM có nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



loại hình dịch vụ khác nhau, mỗi loại hình dịch vụ có kết quả đầu ra khác nhau do
đó phải xem xét cụ thể trường hợp này:
- Dịch vụ cho vay: Đây là dịch vụ mà trong đó NHTM thỏa thuận với khách
hàng (qua hợp đồng tín dụng) để khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định,
trong một thời gian nhất định, có lãi suất và phải hoàn trả. Đây là dịch vụ truyền
thống mà tất cả các NHTM đều thực hiện, dịch vụ này tạo ra nguồn thu nhập chính
cho các ngân hàng. Kết quả đầu ra của hoạt động cho vay bao gồm:
* Số tiền cho vay
* Doanh thu cho vay = ∑số tiền cho vay x lãi suất cho vay
* Số tiền thu hồi và nợ xấu: trong đó “Nợ xấu” (NPL) của ngân hàng được
quy định là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5. Tức là nó bao gồm các nhóm nợ: nợ
dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
- Dịch vụ thanh toán - Ngân quỹ:
- Dịch vụ kinh doanh ngoại hối

- Các dịch vụ khác
Các kết quả đầu ra của dịch vụ này bao gồm: Số món (vụ) thực hiện, phí dịch
vụ, doanh thu từ hoạt động dịch vụ, trong đó:
Doanh thu dịch vụ = Tổng số món x mức phí
+ Các yếu tố đầu vào của NHTM là lao động, chi phí, tài sản và nguồn
vốn song do kinh doanh tiền tệ nên tài sản có những đặc thù khác:
- Dịch vụ huy động vốn: có đặc thù vừa là kết quả đầu ra vừa là yếu tố đầu
vào của NHTM. Trong đó, số tiền huy động là nguồn lực đầu vào có khả năng tạo
ra lợi nhuận lớn nhất trong các NHTM hiện nay, còn lãi suất huy động là chi phí trả
cho khoản tiền huy động để có tiền cho vay. Đối với NHTM, chi phí này phải là chi
phí đầu vào cho dịch vụ tín dụng. Lãi suất huy động vốn càng thấp thì lợi nhuận
kinh doanh càng cao và ngược lại.
- Tài sản có sinh lời là tài sản được sử dụng vào kinh doanh trực tiếp để thu
về lợi nhuận cho ngân hàng, do vậy tài sản có sinh lời càng cao thì khả năng tạo ra
lợi nhuận cho ngân hàng càng cao và ngược lại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



Tài sản có sinh lời = Tổng tài sản có – (tiền mặt + Tài sản cố định)
1.2.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của ngân hàng thƣơng mại
+ Nhóm chỉ tiêu sinh lợi:
- ROE, ROA, sức sinh lợi lao động.
- NIM: Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên.

Thu lãi cho vay và đầu tư CK – Chi trả lãi tiền gửi và nợ khác
NIM =
Tổng tài sản sinh lời bình quân

Thu nhập ròng

Tỷ lệ thu nhập lãi =
Tổng tài sản có sinh lời


Tỷ số này cho biết một đồng tài sản có sinh lời sẽ thu về được bao nhiêu
đồng thu nhập sau khi đã trừ chi phí lãi sử dụng vốn.
Thu nhập ròng = Tổng doanh thu lãi – Tổng chi phí lãi
+ Nhóm chỉ tiêu năng suất:
- Năng suất lao động, năng suất (vòng quay) tổng tài sản.
- Chỉ tiêu Nợ xấu / tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu =
Nợ xấu x 100%
Tổng dư nợ cho vay

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ
chức tín dụng. Theo quy định hiện hành thì tỷ này không vượt quá 3%.
1.2.2.3 Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh doanh của NHTM
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh có vai
trò quan trọng trong việc đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động. Nhìn chung
chúng ta đề cập một số nhân tố chủ yếu sau:
Nhân tố bên ngoài ngân hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



+Khách hàng: Khách hàng là một trong những nhân tố bên ngoài có sự
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, số lượng khách hàng
tăng lên sẽ làm tăng quy mô kinh doanh, làm tăng doanh số và gia tăng lợi nhuận
cho đơn vị. Một ngân hàng mạnh không chỉ mạnh về tài chính, uy tín thương hiệu
mà còn có một lực lượng khách hàng hùng mạnh. Nếu như, ngân hàng đó mạnh và

có lợi thế về tài chính nhưng không có nhiều khách hàng thì ngân hàng đó chưa hẳn
đã mang lại thành công. Sự thành công của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào khách
hàng, nhưng để có được khách hàng thì các ngân hàng phải nắm bắt và đáp ứng
được các yêu cầu của khách hàng sau:
- Phải có nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ cho khách hàng lựa chọn theo nhu
cầu của họ.
- Lãi suất tiền gửi, phí huy động của NHTM phải hấp dẫn.
- Kênh phân phối của ngân hàng phải thuận lợi cho khách hàng giao dịch. Thông
thường khách hàng thường giao dịch với các ngân hàng ở gần nơi ở hoặc nơi sản
xuất kinh doanh của họ.
- Quy trình, thủ tục: Khách hàng thường muốn giao dịch với những ngân hàng
có các quy trình, thủ tục đơn giản, nhanh gọn, bởi trong thực tế cơ chế hành chính
đã tạo cho họ nhiều phản cảm. Vì vậy quy trình thủ tục rườm rà sẽ tạo ra sự khó
chịu hơn cho khách hàng
- Cơ sở vật chất: khách hàng thường thích các quầy hàng lịch sự, thoáng mát,
máy móc thiết bị hiện đại.
- Ngân hàng có quy mô lớn: tâm lý khách hàng họ thường muốn những ngân
hàng lớn, vì như vậy họ cảm thấy an toàn hơn khi quan hệ giao dịch.
Với những yêu cầu của khách hàng thì các ngân hàng cần phải ngày càng
hoàn thiện hơn, phát triển hơn để đáp ứng các yêu cầu đó. Mức độ đáp ứng của
ngân hàng nào càng cao thì sẽ thu hút được khách hàng càng nhiều, đem lại lợi thế
cạnh tranh càng lớn và chắc chắn hiệu quả kinh doanh cũng sẽ tốt hơn.
+ Đối thủ cạnh tranh: Khi mà các tổ chức tín dụng ngày càng nhiều, sự
cạnh tranh giữa các ngân hàng là không thể tránh khỏi thì việc nâng cao hiệu quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



kinh doanh là rất khó khăn. Vì vậy, bản thân ngân hàng cần phải đẩy mạnh tốc độ
kinh doanh, tăng doanh số huy động cũng như cho vay, tổ chức lại nhân sự phù hợp

để tạo khả năng cạnh tranh về lãi suất, chất lượng sản phẩm, chủng loại cũng như
tiện ích của sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy đối thủ cạnh
tranh làm cho các ngân hàng phải giảm lãi suất, chia nhỏ thị phần, tăng chi phí cho
việc quảng cáo tiếp thị làm ảnh hưởng đến lợi nhuận từ đó ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả kinh doanh, nhưng đối thủ cạnh tranh càng nhiều thì càng tạo ra động lực
phát triển cho các ngân hàng, buộc các ngân hàng luôn phải cải tiến nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ, tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo
ra năng lực cạnh tranh với các đối thủ. Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng đối
thủ lại phụ thuộc vào các yếu tố như: năng lực quản trị; năng lực tài chính; chính
sách marketing. Vì vậy, ngân hàng nào có được các yếu tố này tốt hơn sẽ tạo ra sức
mạnh cạnh tranh tốt hơn và trở thành đối thủ mạnh hơn trên thị trường.
+ Nhân tố môi trường vĩ mô: Có thể nói các yếu tố ngoại lai có những
tác động hết sức lớn đối với hoạt động ngân hàng. Ngân hàng có mối quan hệ hết
sức phức tạp với các thành phần kinh tế khác, do đó mọi hành vi diễn ra trong nền
kinh tế đều có ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp ở các cấp độ khác nhau tới ngân hàng.
Trong đó, có môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường chính trị xã hội…
- Tăng trƣởng kinh tế: Môi trường kinh tế bao gồm trình độ phát triển của
nền kinh tế, sự tham gia của mọi thành viên vào hoạt động của thị trường với trình
độ phát triển nhất định của sức sản xuất. Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc vào
đường lối phát triển kinh tế của một đất nước. Đường lối phát triển kinh tế đúng đắn
sẽ tạo cho nền kinh tế phát triển đúng hướng, tăng trưởng cao, hoạt động sản xuất
kinh doanh ngày càng hiệu quả. Nền kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả hơn, ngân hàng yên tâm đầu
tư tín dụng cho nền kinh tế, phát triển dịch vụ mới, cụ thể:
* Khủng hoảng kinh tế: Khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng hoặc suy
thoái thì đời sống của người dân giảm xuống, các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh
trở nên khó khăn, họ phải thu hẹp quy mô để cầm cự hoặc ngưng hoạt động kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN




doanh, do đó nhu cầu vay vốn cũng như sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng
cũng giảm theo. Từ đó ảnh hưởng đến doanh thu cũng như lợi nhuận của các ngân
hàng.
* Lạm phát: nền kinh tế lạm phát cao làm cho giá cả tăng lên, đời sống của
người dân giảm xuống, làm cho nhu cầu tiêu dùng cũng giảm theo, bên cạnh đó lạm
phát tăng cao làm cho lãi suất của vốn trên thị trường cũng tăng lên, gây khó khăn
cho hoạt động đầu tư cũng như hoạt động kinh doanh trên thị trường. Điều đó làm
cho nhu cầu vay vốn giảm, chi phí huy động vốn tăng, làm cho hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng giảm xuống.
* Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá ngoại hối ảnh hưởng đến sự phát triển và tăng
trưởng của nền kinh tế, khi tỷ giá đồng nội tệ tăng lên, các doanh nghiệp sẽ xuất
khẩu nhiều hơn, đem nguồn ngoại tệ về nhiều hơn cho đất nước, ngược lại khi tỷ giá
đồng nội tệ giảm xuống, thì các doanh nghiệp lại nhập khẩu nhiều hơn. Do đó sự ổn
định của tỷ giá hối đoái sẽ làm cho cán cân thương mại ổn định hơn, các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được ổn định hơn, lượng ngoại tệ chuyển qua
ngân hàng cũng tăng lên, giúp cho các ngân hàng thu phí và mua bán ngoại tệ tốt
hơn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các ngân hàng.
- Chính sách tài chính ngân hàng:
Một trong những công cụ của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế là các chính
sách tài chính ngân hàng. Đó là hệ thống các nhân tố tác động trực tiếp hay gián tiếp
đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng. Chính sách tài chính ngân hàng có thể
nới lỏng hoặc có thể thắt chặt sẽ tác động ảnh hưởng đến kinh doanh của ngân hàng,
cụ thể:
* Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Nếu như ngân hàng nhà nước yêu cầu các ngân
hàng thương mại tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên, sẽ làm giảm nguồn vốn cho vay của
các ngân hàng thương mại, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh, ngược lại tỷ
lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng khả năng cho
vay của mình và làm tăng lợi nhuận. Vì vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng
nhà nước có sự ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các NHTM.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



* Lãi suất: Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản
và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi;
Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước
quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng
với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng.
* Nghiệp vụ thị trường mở: Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở thông qua việc mua, bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng; Ngân
hàng Nhà nước quy định loại giấy tờ có giá được phép giao dịch thông qua nghiệp
vụ thị trường mở.
* Thắt chặt tín dụng: Để giảm lạm phát buộc nhà nước phải thắt chặt đầu tư
và giảm lượng cung tiền ra thị trường bằng chính sách thắt chặt tín dụng, như tăng
lãi suất cho vay, hạn chế cho vay một số lĩnh vực ngành nghề đang nóng, tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc Như vậy khi hoạt động tín dụng bị thắt chặt sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng.
Các nhân tố bên trong ngân hàng
+ Năng lực quản trị
Đối với mọi doanh nghiệp nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng thì
nhân tố quản trị đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh. Nó tác động tới hoạt động kinh doanh qua nhiều yếu tố như cơ cấu lao
động, cơ sở vật chất, công nghệ, quản lý Công tác quản trị doanh nghiệp được tiến
hành tốt sẽ giúp ngân hàng tiết kiệm được chi phí, khai thác nguồn lực sẵn có một
cách hợp lý, có hiệu quả, đồng thời định hướng, xác định đúng chiến lược kinh
doanh nhằm đạt được các mục tiêu của mình, cụ thể:
- Năng lực quản trị trong việc hoạch định chiến lược: Nhà quản trị có năng
lực quản trị tốt sẽ giúp cho việc hoạch định chiến lược, xây dựng mục tiêu và lập kế
hoạch kinh doanh được đúng đắn, phù hợp với tiềm lực của ngân hàng và xu thế

phát triển của thị trường, từ đó tạo thành kim chỉ nam cho ngân hàng kinh doanh
đúng hướng, giảm thiểu rủi ro, tổn thất chi phí trong chiến lược kinh doanh nhằm
đem lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



- Năng lực quản trị trong việc tổ chức thực hiện: Tổ chức thực hiện là việc
sắp xếp bố trí, phân phối và sự phối hợp giữa các nguồn lực của ngân hàng như
nguồn vốn, nguồn nhân sự, giúp cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng được
thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề ra. Vì vậy, năng lực quản trị tốt sẽ giúp cho
ngân hàng hoạt động ổn định, không gây ách tắc, các bộ phận trong tổ chức vận
hành trôi chảy, tiết kiệm thời gian và chi phí, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ
của ngân hàng.
- Năng lực quản trị trong việc ra quyết định: Việc ra quyết định đúng đắn,
kịp thời sẽ giúp cho ngân hàng giảm thiểu rủi ro, nắm bắt được cơ hội, đặc biệt
trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, nền kinh tế luôn biến động thì việc ra quyết
định của nhà quản trị có ảnh hưởng rất lớn đến thành bại của ngân hàng.
- Năng lực quản trị thể hiện thông qua kinh nghiệm quản lý: Kinh nghiệm là
yếu tố tạo nên sự thành công rất lớn đối với nhà quản trị, kinh nghiệm không phải
chỉ một vài ngày là sẽ có được mà nó đòi hỏi cả một quá trình thực tiễn, cộng với
thời gian hoạt động. Vì vậy, ngân hàng nào hoạt động lâu hơn, có kinh nghiệm quản
lý tốt hơn sẽ có được năng lực quản trị tốt hơn.
Năng lực quản trị được thể hiện thông qua các chính sách, các quyết định của
doanh nghiệp, bằng những kinh nghiệm quản lý và khả năng tư duy của nhà quản
trị.
+ Các chính sách marketing dịch vụ
Trong hoạt động kinh doanh dịch vụ thì chính sách marketing dịch vụ có tầm
ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng. Bởi chính sách
marketing tốt sẽ giúp cho ngân hàng xác định và phân nhóm được đối tượng khách

hàng, trên cơ sở đó phân tích, đáp ứng nhu cầu cho từng nhóm đối tượng khách
hàng đó. Chính sách marketing hợp lý còn tạo ra các kênh phân phối dịch vụ và bán
hàng tốt nhất, có hiệu quả, tạo ra nền tảng cho sự cạnh tranh và chiếm lĩnh thị
trường, cụ thể:
* Loại hình dịch vụ: Do nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng và có
nhiều nhóm đối tượng khách hàng khác nhau cũng có nhu cầu đa dạng khác nhau,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



nên các ngân hàng luôn phải đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu
cầu của khách hàng, nhưng cung và cầu luôn phải gặp nhau thì mới thực hiện được
giao dịch. Vì vậy, chính sách marketing sẽ giúp cho ngân hàng quảng bá, giới thiệu
về tất cả các loại sản phẩm dịch vụ của mình, với những lợi ích vượt trội luôn đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng. Từ đó, khách hàng có được thông tin về các loại
hình sản phẩm dịch vụ nhiều hơn, hiểu biết được lợi ích của sản phẩm nhiều hơn.
Điều này sẽ giúp cho ngân hàng kinh doanh được nhiều loại hình dịch vụ của mình
một cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại
chính là bản thân sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
* Giá dịch vụ: là một trong 4 yếu tố cơ bản trong chính sách marketing và là
yếu tố duy nhất tạo ra doanh thu, giá dịch vụ góp phần làm cho khách hàng quyết
định giao dịch hay không giao dịch với ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng phải thực
hiện tốt chiến lược về giá để thu hút khách hàng về mình.
* Hệ thống phân phối: Hiện nay, hầu hết các NHTM đều sử dụng các trung
gian phân phối để cung cấp các sản phẩm dịch vụ của mình ra thị trường. Những
trung gian phân phối này là các chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch hợp
thành một hệ thống của ngân hàng. Hệ thống phân phối sẽ giúp cho ngân hàng tiếp
cận với khách hàng dễ dàng hơn, cung cấp dịch vụ tới khách hàng đảm bảo về chất
lượng, thời gian, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về sự thuận lợi và kịp thời.
* Xúc tiến bán hàng: là hoạt động truyền thông từ phía ngân hàng, tác động

tới khách hàng mục tiêu và công chúng để ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ, hành
vi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Để thực hiện xúc tiến bán hàng các NHTM
thường sử dụng các hình thức quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ công chúng, bán
hàng trực tiếp và marketing trực tiếp nhằm cung cấp thông tin về dịch vụ, ngân
hàng, kích thích sử dụng dịch vụ, nâng cao hình ảnh thương hiệu làm cho khách
hàng tin tưởng và sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nhiều hơn.
* Quy trình bán hàng: Trong kinh doanh dịch vụ thì quy trình bán hàng có
tầm ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút và giữ chân khách hàng. Quy trình bán hàng
hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ như: các bước thực hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



đơn giản nhanh gọn nhưng đảm bảo chính xác, giảm thiểu thời gian, giảm chi phí
cho khách hàng và cho ngân hàng. Khách hàng sẽ thấy hài lòng và không cảm thấy
phiền hà khi giao dịch với ngân hàng, đó là yếu tố quan trọng cho việc phát triển
khách hàng.
* Con người: Môi trường hoạt động kinh doanh ngân hàng đòi hỏi nhân viên
ngân hàng phải có một trình độ chuyên môn nhất định, phải có một năng lực kinh
doanh nhất định. Năng lực kinh doanh của ngân hàng được thể hiện qua những con
người trực tiếp quản lý và đội ngũ nhân viên, đây là nhân tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng.
Thực vậy, một ngân hàng hoạt động có hiệu quả và phát triển tốt không chỉ
đòi hỏi phải có đội ngũ lãnh đạo quản lý giỏi, mà còn yêu cầu phải có một đội ngũ
nhân viên giỏi về nghiệp vụ, có kiến thức về kinh tế, luật pháp, có tinh thần trách
nhiệm cao đối với công việc. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và hiệu quả
công việc. Ngoài ra nó còn là nền tảng cho việc xây dựng thương hiệu trên thị
trường.
* Cơ sở vật chất: Trong các NHTM việc hoạt động kinh doanh không thể
thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, đặc biệt ngày nay khi mà công nghệ

thông tin ngày càng phát triển. Một số các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cần phải
có sự hỗ trợ của các thiết bị kỹ thuật, như dịch vụ chuyển tiền, thẻ ATM, kinh
doanh sàn vàng, sàn chứng khoán, thiết bị kỹ thuật quản lý toàn hệ thống…Vì vậy,
thiết bị kỹ thuật tác động rất lớn đến chất lượng sản phẩm dịch vụ, năng suất lao
động, khả năng cạnh tranh, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị.
+ Năng lực tài chính: Trong tất cả các doanh nghiệp nói chung, các NHTM
nói riêng, năng lực tài chính là yếu tố quyết định rất lớn đến hiệu quả kinh doanh.
Năng lực tài chính tạo ra sức mạnh để phát triển về quy mô, mở rộng thị trường, đầu
tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa các sản phẩm, tạo ra
sự cạnh tranh mạnh mẽ với các đối thủ trên thị trường để chiếm lĩnh thị phần, thu
hút và lôi kéo khách.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



1.3 Cơ sở thực tiễn về hoạt động ngân hàng
1.3.1 Thực tiễn hoạt động ngân hàng ở một số quốc gia trên thế giới
1.3.1.1 Trung Quốc
Trước khi gia nhập WTO, chính phủ Trung Quốc đã ban hành, sửa đổi, bổ
sung hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật về tài chính, ngân hàng theo quy
định của hiệp định về thương mại - dịch vụ (GATS); Tiến hành đổi mới hệ thống
ngân hàng theo lộ trình riêng, tạo ra sự cạnh tranh “hạn chế” trong khu vực này và
kết quả là hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã khá tự tin để chuẩn bị cho việc thực
hiện cam kết tại GATS. Cụ thể:
Năm 1987 – 1988: Cho phép TCTD nước ngoài thành lập tại một số thành
phố và đặc khu kinh tế.
Năm 1987 – 1991: Phát triển nhanh các trung gian tài chính phi ngân hàng và
hợp tác xã tín dụng, cho phép các ngân hàng cạnh tranh theo cơ chế thị trường có
kiểm soát.

Năm 1991 – 1996: Đa dạng hoá khu vực tài chính, thành lập sở giao dịch
chứng khoán và thị trường liên ngân hàng, thành lập ngân hàng chính phủ, cho phép
các TCTD nước ngoài được thành lập ở lĩnh vực phi ngân hàng như bảo hiểm nhân
thọ và phi nhân thọ, mở rộng phạm vi hoạt động của ngân hàng nước ngoài (ngân
hàng nước ngoài được kinh doanh bằng nhân dân tệ và hoạt động tại 23 thành phố
của Trung Quốc), đồng thời ban hành các quy định về mở cửa và giám sát các
TCTD nước ngoài.
Năm 1997 – 2001: Giải quyết các vấn đề danh mục đầu tư của các NHTM.
chuẩn bị cho việc gia nhập WTO đã đẩy nhanh cải cách NHTM nhà nước và tiếp
tục nới lỏng hoạt động cho TCTD nước ngoài; thực hiện chương trình tái cơ cấu và
hợp nhất trong khu vực tài chính, ngân hàng; tăng cường giám sát, buộc các NHTM
tuân thủ nghiêm ngặt quy định của ngân hàng Trung ương; đẩy mạnh cơ cấu lại khu
vực tài chính trong nước; khuyến khích cạnh tranh trong nước bằng cách thành lập
thêm nhiều ngân hàng thuộc sở hữu Chính Phủ; mở cửa cho phép cạnh tranh quốc
tế trong khu vực tài chính; tiếp tục cải cách pháp luật về ngân hàng, tài chính nhằm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



tăng khả năng cạnh tranh khu vực tài chính, ngân hàng sau khi là thành viên WTO.
Theo cam kết tại WTO, Trung Quốc đã thực hiện chỉnh sửa hàng loạt các luật và
quy định luật; đồng thời thành lập một cơ quan đặc biệt để báo cáo kịp thời với
WTO về các chính sách kinh tế và thương mại liên quan, việc thực hiện để đảm bảo
tính minh bạch của các chính sách đó. Song song với hoàn chỉnh môi trường pháp
lý, Chính Phủ và ngân hàng Trung Quốc đã thực hiện hàng loạt các giải pháp để
nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực ngân hàng và hỗ trợ cho khu vực ngân
hàng, doanh nghiệp phát triển như: phát triển thị trường tài chính theo nguyên tắc
thị trường; nâng cao quản trị tại các NHTM bằng nhiều biện pháp khác nhau (tinh
giảm khoảng 73% lãnh đạo, mời chuyên gia nước ngoài tham gia quản trị điều
hành, giảm biên chế nhất là đối với cán bộ trình độ thấp,…); giảm tốc độ cho vay;

tăng cường đào tạo …Tất cả những thay đổi, cải tiến đó đều nhằm phù hợp với quy
định của WTO, hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh
doanh của các NHTM của nước này.
1.3.1.2 Một số nƣớc trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN)
Phần lớn các nước ASEAN là thành viên WTO từ 1995, nhưng hầu như
không phải thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định về thương mại - dịch vụ (GATS).
Trong cuộc khủng hoảng tài chính (năm 1997) đã buộc phải tiến hành cải cách hệ
thống ngân hàng theo các quy định của GATS và đã được những kết quả đáng kể.
Nhờ đó, hệ thống ngân hàng trong các nước này đã giữ được vai trò chủ đạo trong
việc huy động tiết kiệm ở mức rất cao. Mặt khác các nước ASEAN đã tiến hành đổi
mới mạnh mẽ cơ chế hoạt động ngân hàng theo hướng mở rộng cửa, xoá bỏ rào cản
cho các ngân hàng nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài; nhờ vậy, đã thu hút
một lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nợ vay chính thức của Chính
Phủ; giúp nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và phát triển nhanh chóng.
Chính Phủ các nước này đã thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng một cách
triệt để, tạo ra môi trường thuận lợi cho các sở hữu khác nhau về ngân hàng phát
triển, đồng thời thâm nhập nhanh chóng vào thị trường thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



Mặc dù mỗi nước có đặc thù riêng, nhưng các nước ASEAN đã thực hiện
một số giải pháp tương tự nhau để nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân
hàng. Cụ thể là “giảm thiểu sự can thiệp về chính trị trong việc phân bổ tín dụng của
hệ thống ngân hàng tạo ra hiệu quả tín dụng tối đa, xoá bỏ tín dụng đối với các
doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp có quan hệ riêng với điều kiện tín
dụng dễ dãi, xoá bỏ sự ràng buộc chặt chẽ giữa Chính Phủ và các ngân hàng về
quản trị, điều hành, kinh doanh tại các NHTM lớn, tăng cường vai trò độc lập trong
việc thanh tra, giám sát các định chế tài chính, loại bỏ triệt để tư duy cho rằng
Chính Phủ là người cho các ngân hàng vay cuối cùng và rằng Chính Phủ không thể

để các ngân hàng phá sản, tăng cường quản lý và nhận biết rủi ro đối với các ngân
hàng thương mại trong lĩnh vực hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận với tín dụng
nước ngoài, thực hiện chính sách tỷ giá theo cơ chế thị trường, khuyến khích và
thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn.
1.3.2 Thực tiễn hoạt động ngân hàng ở Việt Nam hiện nay
Từ đầu quý IV năm 2010 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt, kiềm chế lạm phát. Trong giai đoạn này, nợ xấu tại các
NHTM tăng cao. Nợ xấu của các doanh nghiệp cũng phát sinh lớn do thắt chặt tiền
tệ. Về nguyên tắc, nợ xấu phát sinh thì khách hàng nói chung và doanh nghiệp nói
riêng khó có thể tiếp tục được vay vốn mới của NHTM. Nguyên tắc này không chỉ
được thực thi ở Việt Nam mà tất cả các ngân hàng trên thế giới đều tuân thủ.
Về dư nợ của NHTM không tăng:
Trong thực tế hoạt động kinh doanh của các NHTM, hàng ngày có nhiều
khoản vay đến hạn, quá hạn được trả nợ, đồng thời có những khoản vay mới vẫn
được giải ngân. Hộ sản xuất ở nông thôn, các trang trại ở nhiều vùng miền khác
nhau, các gia đình làm nghề kinh doanh vật tư nông nghiệp, kinh doanh vận tải, làm
dịch vụ khác… vẫn được NHTM giải ngân cho vay bình thường. Do vậy, nhìn tổng
thể dư nợ không tăng hay tăng chậm, nhưng vẫn có những khoản vay mới phát sinh
với lãi suất được cả người cho vay và đi vay chấp nhận được.
Về vấn đề đảo nợ vốn vay:

×