Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ nông ngiệp Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của bò sữa chậm sinh và ứng dụng hormone để khắc phục”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.8 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM


TĂNG XUÂN LƯU



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA BÒ SỮA
CHẬM SINH VÀ ỨNG DỤNG HORMONE ĐỂ KHẮC PHỤC




Chuyên ngành: Sinh sản và bệnh sinh sản gia súc
Mã số: 62 64 01 06



TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ







HÀ NỘI, 2015








Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn Khoa học:
1. GS.TSKH. Cù Xuân Dần
2. PGS.TS. Trần Tiến Dũng

Phản biện 1:
PGS. TS. Nguyễn Văn Thanh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Phản biện 2:
TS. Đào Đức Hà
Viện Chăn nuôi

Phản biện 3:
TS. Lê Văn Thông
Trung tâm Gia súc lớn trung ương

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp
Học viện họp tại Học viện nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2015


Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh trong
những năm gần đây, đem lại hiệu quả kinh tế cao, ổn định thu nhập cho
người chăn nuôi. Chăn nuôi tập trung chiếm khoảng 35%, còn lại là chăn
nuôi nông hộ. Chăn nuôi nông hộ có đặc điểm: quy mô nhỏ, không đồng
bộ, thiếu khoa học kỹ thuật khả năng sinh sản của đàn bò thấp, biểu
hiện cụ thể là tuổi động dục lần đầu cao, khoảng cách hai lứa đẻ dài, tỷ
lệ chậm sinh cao
Chậm sinh ở bò sữa là tình trạng chung của cả nước cũng như ở
vùng Ba Vì, Hà Nội. Bò sữa thường bị các bệnh về buồng trứng như thể
vàng tồn lưu, u nang và buồng trứng không hoạt động.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh chậm sinh ở bò sữa. Bên cạnh
yếu tố giống, thức ăn, nuôi dưỡng, chăm sóc, mùa vụ, vùng miền, còn
phải kể đến yếu tố kỹ thuật: phát hiện động dục, phối giống, điều trị các
bệnh về sinh sản. Tất cả những điều này đều có thể ảnh hưởng đến khả
năng sinh sản của bò sữa.
Vì vậy, xuất phát từ yêu cầu rút ngắn tuổi động dục lần đầu, rút
ngắn khoảng cách lứa đẻ, tăng số con được sinh hay nói cách khác là
tăng sản lượng sữa trong một đời con cái, chúng tôi tiến hành đề tài này.
2. Mục tiêu đề tài
Đánh giá được thực trạng sinh sản của đàn bò sữa nuôi tại Ba Vì,
Hà Nội và tình trạng hoạt động của buồng trứng ở bò chậm sinh, từ đó
giúp cho người chăn nuôi có được thông tin và hướng tác động đúng
nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi.

Đánh giá được động thái của hormone progesterone trong những
trường hợp buồng trứng hoạt động không bình thường (không hoạt động,
u nang, thể vàng tồn lưu), giúp cho việc chẩn đoán và điều trị bệnh sinh
sản có hiệu quả.
Sử dụng một số hormone hướng sinh sản điều trị bệnh buồng trứng
để nâng cao khả năng sinh sản của bò sữa.

2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học
Đề tài làm rõ thêm quy luật hoạt động sinh lý, sinh sản của bò sữa
nuôi theo vùng sinh thái, giúp cho việc nghiên cứu, sản xuất có tác động
phù hợp, chủ động và hiệu quả. Kết quả sẽ góp phần bổ sung số liệu, tài
liệu khoa học về đặc điểm sinh lý sinh sản của bò nói chung và bò sữa
nói riêng cũng như khả năng điều khiển hoạt động sinh sản của bò bằng
các chế phẩm hormone sinh sản.
Ứng dụng kỹ thuật ELISA để định lượng hormone progesterone
(P
4
), trong sữa hoặc huyết tương, để làm rõ tình trạng hoạt động của
buồng trứng, hỗ trợ hữu hiệu trong chẩn đoán lâm sàng (qua trực
tràng), nâng cao độ chính xác của các kỹ thuật trong chẩn đoán bệnh
của buồng trứng, sử dụng hormone có hiệu quả hơn.
Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đánh giá, phân tích được thực trạng sinh sản của đàn bò sữa
cũng như chỉ ra các yếu tố hạn chế năng suất chăn nuôi, giúp cho các
nhà quản lý có cơ sở để đưa ra những chính sách, quản lý, kỹ thuật phù
hợp nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
Ứng dụng một số chế phẩm hormone hướng sinh sản để điều trị
triệu chứng rối loạn sinh sản của bò sữa hiện có hiệu quả không những

tăng năng suất sinh sản mà còn hạn chế được sự ảnh hưởng của hormne
tồn dư trong sản phẩm chăn nuôi.
4. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đã tiếp cận một phương pháp nghiên cứu mới trong việc
xác định, đánh giá, phân loại cụ thể các nguyên nhân gây chậm sinh
trên bò sữa. Đó là phương pháp số hóa (định lượng hormone
progesterone), kết hợp với phương pháp truyền thống (lâm sàng) làm
cho kết quả lâm sàng được chính xác hơn trong chẩn đoán và điều trị
bệnh trên buồng trứng.
Việc đưa ra các phác đồ điều trị bệnh một cách cụ thể cho từng
trạng thái trên buồng trứng đã giúp cho các kỹ thuật ở cơ sở sản xuất có

3
thể áp dụng một cách thuận thiện và chính xác hơn, đạt được hiệu quả
cao. Nhất là đối với các địa bàn không có những kỹ thuật giỏi.
Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà chuyên
môn tham khảo dùng trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu và ứng dụng
trong thực tiễn sản xuất.
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Sinh sản là đặc tính sinh học tự nhiên của gia súc nói chung và bò
sữa nói riêng nhằm duy trì và bảo vệ nòi giống. Hoạt động sinh sản có
tính chất quy luật, chịu sự điều khiển của cơ chế thần kinh và thể dịch
đồng thời phụ thuộc vào môi trường, điều kiện sống Khi con người
nắm được quy luật đó, chúng sẽ có tác động và điều khiển chúng theo ý
muốn để thúc đẩy sản xuất có hiệu quả hơn, phục vụ nhu cầu thực phẩm
ngày càng tăng của xã hội.
Cụ thể đối với bò sữa, khả năng sinh sản của chúng chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố: di truyền (giống), độ tuổi, thời tiết khí hậu, phương pháp
quản lý, chăm sóc nuôi dưỡng, kỹ thuật

Ngày nay, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong công nghệ
sinh học để điều khiển sinh sản không còn là vấn đề khó khăn và
phức tạp. Chúng ta đã chủ động trong việc gây động dục, gây rụng
trứng, điều khiển giới tính thông qua những tác động bằng hormone
Chính nhờ những kỹ thuật này, năng suất sinh sản của bò sữa đã được
nâng lên rất nhiều.
1.2. Một số nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước có liên quan đến
luận án
1.2.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Những nghiên cứu trên bò sữa đã chỉ ra rằng, nguyên nhân gây
ra tỷ lệ thụ thai thấp ở bò sữa, nhất là bò cao sản là do mất cân đối về
năng lượng trong khẩu phần ăn (Opsomer et al., 2000), dẫn đến u
nang buồng trứng, viêm nhiễm đường sinh dục, sảy thai, chết thai

4
sớm, thai chết lưu, sót nhau, đẻ khó Theo Nakao (1982, 1983), sử
dụng kỹ thuật ELISA để phân tích hàm lượng hormone P
4
giúp cho
việc chẩn đoán và điều trị bệnh sinh sản (u nang, thể vàng, không
hoạt động) hiệu quả hơn, kỹ thuật này đã có hiệu quả trong điều
khiển sinh sản.
Dùng kỹ thuật ELISA để chẩn đoán các trường hợp bị rối loạn sinh
sản trên bò đã được nghiên cứu bởi Nakao et al. (1983), Prakash et al.
(1987), Lee et al. (1996). Dochi et al. (1998), Ake-Lopez et al. (1999)
sử dụng P
4
để gây rụng trứng nhiều trong công nghệ cấy truyền phôi ở gia
súc đều cho kết quả tốt.
Sử dụng P

4
, prostaglandin (PG) hoặc chế phẩm tương đương đã được
nghiên cứu bởi Henricks (1986), Agarwal (1987), Buse (1995), Fukui et
al., (1999), Baruselli et al. (2003), Cutaia et al. (2003), Gavara et al.
(2003), Su et al., (2009)
Sử dụng kết hợp GnRH-PGF

-GnRH-Estradiol nhằm nâng cao
khả năng sinh sản đã được nghiên cứu bởi Martiner et al. (2001), Fabio
de Rensis et al. (2002), Alinmer (2005), Bilego et al. (2013), Giordano
et al. (2013).
1.2.2. Những nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu ứng dụng hormone sinh sản (P
4
, estradiol, GnRH,
PGF

) bởi Nguyễn Tấn Anh, Nguyễn Văn Thiện, Lưu Kỷ, Trịnh Quang
Phong và Đào Đức Thà (1995), Nguyễn Thị Ước (1996), Hoàng Kim
Giao và Nguyễn Thanh Dương (1997), Chung Anh Dũng (2001), Nguyễn
Xuân Trạch (2004), Lưu Công Khánh và cs. (2004), Quản Xuân Hữu,
(2006), Tăng Xuân Lưu và cs. (2010), Trịnh Quang Phong và cs. (2012)
Nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật ELISA xác định hàm lượng (P
4
)
và điều trị rối loạn sinh sản đã được thưc hiện bởi Phan Văn Kiểm và
cs. (1998, 2000, 2006), Trần Tiến Dũng và cs.(2003), Nguyễn Hùng
Nguyệt (2009)

5

Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Vật liệu nghiên cứu
Đàn bò cái lai hướng sữa HF (HF ≥ 75%) đến tuổi sinh sản và sau đẻ.
Sữa để định lượng hormone P
4
, kít chẩn đoán P
4
của Trường đại học
Hiroshima, Nhật Bản (2002).
Các chế phẩm hormone hướng sinh sản: P
4
(vòng CIDR), PGF
2
,
GnRH của hãng Fizer và Intervet.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu
2.1.2.1. Đánh giá tình hình sinh sản của đàn bò sữa tại Ba Vì, Hà Nội
Thông qua các chỉ tiêu: tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu,
khối lượng đẻ lứa đầu, thời gian động dục lại sau khi đẻ, khoảng cách
giữa hai lứa đẻ, tỷ lệ đẻ toàn đàn, tỷ lệ thụ thai, hệ số phối giống, tỷ lệ
chậm sinh, tỷ lệ sảy thai, đẻ non và tình trạng hoạt động của buồng trứng
sau khi đẻ 120 ngày.
2.1.2.2. Đánh giá tình trạng hoạt động của buồng trứng bò sau khi đẻ
Qua các chỉ tiêu: Động dục trở lại của bò sữa đến 120 ngày sau
đẻ, nguyên nhân ở buồng trứng, ảnh hưởng của mùa vụ, lứa đẻ, thể
trạng.
2.1.2.3. Định lượng hormone P
4
, để phát hiện bệnh buồng trứng và chẩn

đoán thai sớm nhằm nâng cao khả năng sinh sản ở bò sữa
Qua các nội dung: Xác định nguyên nhân bằng phương pháp khám
qua trực tràng, định lượng P
4
trong sữa đối với các trường hợp chậm
sinh do buồng trứng (thể vàng tồn lưu, u nang buồng trứng, buồng trứng
kém phát triển (thiểu năng)), chẩn đoán có thai sớm ở 21, 28 và 35 ngày
sau phối giống.
2.1.2.4. Ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng
sinh sản của bò sữa
Sử dụng thiết bị đặt âm đạo CIRD; hormone: GnRH, PGF
2


6
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu
2.1.3.1. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu sinh sản
Theo dõi ghi chép trực tiếp, qua sổ sách giống và điều tra trực tiếp
các hộ chăn nuôi (theo phương pháp của Nguyễn Trọng Tiến và cs.,
1991).
2.1.3.2. Phương pháp đánh giá thể trạng và khám lâm sàng để phân loại
buồng trứng của bò
Chấm điểm thể trạng BCS (Body Condition Scoring In Dairy
Cattle) theo phương pháp đánh giá cho điểm của Nhật Bản.
2.1.3.3. Phương pháp định lượng progesterone (P4)
Sử dụng phương pháp định lượng miễn dịch enzyme - ELISA để
định lượng P
4
, theo phương pháp của Isobe et al. (2004), Mann et al.
(2005) và Su Thanh Long et al., (2009):

2.1.3.4. Phương pháp xác định bệnh buồng trứng qua định lượng
progesterone
Áp dụng phương pháp của Isoble (2004), Mann et al. (2005) và
Su et al., (2009)
2.1.3.5. Phương pháp xác định bệnh ở buồng trứng bò qua khám lâm
sàng
Khám buồng trứng (qua trực tràng) 2 lần liên tiếp cách nhau 7 –
10 ngày (Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương, 1997).
2.1.3.6. Phương pháp ứng dụng một số hormone hướng sinh dục để
nâng cao khả năng sinh sản
- Sử dụng CIRD, GnRH, PGF

buồng trứng không hoạt động;
- Sử dụng GnRH, PGF
2
đối với bò bị u nang buồng trứng;
- Sử dụng PGF
2
đối với bò có thể vàng tồn lưu;
- Sử dụng công thức tổng hợp: GnRH-PGF
2
-PGF
2
-GnRH trong
trường hợp bò chậm sinh không rõ nguyên nhân;

7
Phương pháp phối giống và khám thai cho bò trong thí nghiệm:
Phối giống cho bò bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo (tinh bò đông
lạnh). Thời gian phối giống từ 12-18 giờ kể từ khi bò xuất hiện động dục

(Sato et al., 1992). Định lượng P
4
sau 21 ngày và khám thai qua trực
tràng ở 45 - 60 ngày sau phối.
2.2. Xử lý số liệu
Các chỉ tiêu tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, khối lượng
cơ thể khi đẻ lần đầu, thời gian mang thai, thời gian dộng dục lại sau đẻ,
khoảng cách giữa hai lứa đẻ. Số liệu thu thập được xử lý bằng chương
trình Minitab 16. Các tham số thống kê bao gồm dung lượng mẫu (n),
giá trị trung bình (
X
), độ lệch chuẩn (SD), giá trị nhỏ nhất (Min), giá trị
lớn nhất (Max).
Các chỉ tiêu bao gồm tỷ lệ đẻ, xẩy thai, đẻ non, sát nhau, hệ số
phối giống và tỷ lệ thụ thai, hiện tượng chậm sinh, động dục trở lại của
bò đến 120 ngày sau khi đẻ, ảnh hưởng mùa vụ đến chức năng buồng
trứng sau đẻ, chẩn đoán lâm sàng bệnh buồng trứng bằng khám qua trực
tràng, định lượng progesterone trong sữa, điều trị bệnh buồng trứng
không hoạt động, điều trị bệnh u nang buồng trứng, điều trị bệnh thể
vàng tồn lưu, điều trị bò chậm sinh không rõ nguyên nhân bằng phác đồ
tổng hợp.
Các tham số thông kê được xác định bao gồm: dung lượng mẫu,
tần xuất quan sát và tỷ lệ. Dữ liệu được phân tích thống kê và so sánh
bằng phép thử (χ
2
) (Chi-square test) và phép thử chính xác của Fisher
(Fisher’s exact test). Phép thử chính xác của Fisher được sử dụng trong
trường hợp mẫu bé (có ít nhất một giá trị tần suất ước tính lý thuyết <5)
2.3. Địa điểm nghiên cứu
- Vùng chăn nuôi bò sữa Ba Vì, Hà Nội.

- Phòng thí nghiệm trọng điểm, Bộ môn Sinh lý sinh sản và Tập
tính vật nuôi - Viện Chăn nuôi.
- Bộ môn Ngoại Sản - Khoa Thú y - Học viện Nông nghiệp Việt Nam.

8
2.4. Thời gian nghiên cứu
Các nội dung của đề tài là sự tiếp tục kế thừa của những nghiên cứu
từ năm 2003-2005 (về hormone); phần đánh giá sinh sản, phân loại
buồng trứng và điều trị sinh sản được nghiên cứu hoàn thiện và cập nhật
từ năm 2010 - 2014.
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tình hình sinh sản của đàn bò sữa vùng Ba Vì, Hà Nội
3.1.1. Tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lần đầu
Kết quả được thể hiện qua bảng(3.1). Theo Tăng Xuân Lưu và cs.
(2004a), bò lai HF ≥75% chọn lọc tại Ba Vì có tuổi phối giống lần đầu
nhóm 3/4 HF là 16,53±0,21 tháng và nhóm 7/8 HF là 16,93±0,28 tháng,
tuổi đẻ lứa đầu tương ứng là 26,02±0,21 và 26,43±0,28 tháng. Nguyễn
Xuân Trạch (2004b), bò lai HF ≥75% HF ở khu vực Hà Nội và vùng phụ
cận có tuổi phối giống lần đầu 18,7±0,2 tháng, tuổi đẻ lứa đầu 29,3
tháng. Trần Thị Loan và cs. (2012) cho biết bò lai ≥75% HF tại Ba Vì có
tuổi phối giống lần đầu nhóm 75% HF

là 24,06±0,94 tháng, nhóm F
3

(87,5% HF) là 24,48±1,04 tháng và tuổi đẻ lứa đầu tương ứng ở nhóm F
2

là 33,61±0,98 tháng và nhóm F
3

là 33,93±1,11 tháng. Nguyễn Ngọc Tấn
và cs. (2014), bò lai ≥75% HF ở TP. Hồ Chí Minh có tuổi phối giống
lần đầu là 18,4 tháng và tuổi đẻ lứa đầu 28,2 tháng.
Bảng 3.1. Tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lần đầu
Chỉ số
Tuổi phối giống lần đầu
(tháng)
Tuổi đẻ lần đầu
(tháng)
n (con)
1006
2781
X



17,43
31,10
SD
21,57
13,6
Min
13,00
23,05
Max
35,5
46,30
Bò có máu lai càng cao, chăm sóc càng tốt, sinh trưởng càng
nhanh, nhưng bị ảnh hưởng bởi stress nhiệt mạnh hơn bò có máu HF


9
thấp (Vũ Chí Cương và cs., 2006). Kết quả của chúng tôi thấp hơn các
nghiên cứu khác trên cùng một địa điểm ở các thời gian khác nhau.
3.1.2. Khối lượng cơ thể khi đẻ lứa đầu
Trong nghiên cứu của Tăng Xuân Lưu và cs. (2001), KL cơ thể
khi đẻ lần đầu của nhóm bò F
1
là 334,47

6,3kg, nhóm F
2
355,35

5,16
kg và nhóm F
3
363,33

4,09 kg, trung bình nhóm bò lai 353,06

5,18 kg.
Đánh giá về KL đàn bò lai HF theo tháp giống ở phía Bắc, Phạm Văn
Giới và cs. (2007) cho biết KL biểu thị sự sai khác rõ rệt giữa các tầng
của tháp giống, cao nhất là tầng hạt nhân 426,99kg, tầng nhân giống
413,09kg và thấp nhất là tầng sản xuất 405,73kg.
Bảng 3.2. Khối lượng cơ thể bò cái khi đẻ lần đầu
Chỉ số
Khối lượng cơ thể khi đẻ lần đầu (kg)
n (con)
4.273

X

410,79
SD
49,68
Min
398
Max
620
Khối lượng ảnh hưởng bới tỉ lệ máu lai HF, bò máu lai HL cao sẽ có
KL cao hơn bò có máu lai HF thấp. KL cơ thể ảnh lớn bởi chế độ chăm
sóc nuôi dưỡng giai đoạn đầu cũng như khả năng sản xuất của chúng.
Kết quả này phù hợp với nhận xét của Nguyễn Văn Đức (2005) và Phạm
Văn Giới (2007b) là khối lượng cơ thể tăng tỷ lệ thuận với sự tăng mức độ
lai và năng suất sữa. Kết quả của chúng tôi ở thời điểm này có cao hơn so
với các nghiên cứu trên đàn bò vùng Ba Vì (bảng 3.2)
3.1.3. Thời gian mang thai của đàn bò sữa qua các lứa đẻ
Kết quả nghiên cứu theo dõi từ lứa đẻ 1 đến trên lứa đẻ 6 của 1.068
bò cái sinh sản (bảng 3.3).
Theo Nguyễn Văn Thưởng và Trần Doãn Hối (1982), thời gian
mang thai của nhóm bò lai 3/4 và 5/8 HF tại Nông trường Ba Vì là 278,3
và 280,1 ngày. Cù Xuân Dần và Lê Khắc Thận (1985), thời gian mang

10
thai của bò dao động trong khoảng 278 - 290 ngày. Nguyễn Quốc Đạt
và Nguyễn Thanh Bình (2006), thời gian mang thai của bò HF nhập nội
TP. Hồ Chí Minh là 276,57 ngày. Theo Sato et al. (1992a) thời gian
mang thai của bò HF là 281 ngày. Kết quả của chúng tôi thấp hơn các
nghiên cứu trên từ 5-7 ngày, sự sai khác này đều nằm trong ngưỡng dao
động chung, tuy nhiên chúng tôi không loại trừ yếu tố stress nhiệt do

phương pháp nuôi nhốt tại chuồng gây ra.
Bảng 3.3. Thời gian mang thai qua các lứa đẻ
Chỉ tiêu
Lứa 1 - 2
Lứa 3 - 5
Lứa ≥ 6
n (con)
432
492
144

X
(ngày)

277,24
277,65
276,63
SD
23,69
21,74
16,56
Min
275
275
275
Max
287
290
290


3.1.4. Thời gian động dục lại sau khi đẻ
Trong nghiên cứu của Tăng Xuân Lưu và cs. (1999) bò lai F
1
HF
tại Ba Vì động dục lại sau 91,88±4,2 ngày đẻ; F
2
là 106,17±5,45 ngày.
Chung Anh Dũng (2001), đàn bò lai HF ở TP. Hồ Chí Minh có điểm thể
trạng 3,0-3,5 thì thời gian động dục lại sau khi đẻ là 62,81 ngày, trung
bình là 88 ngày. Đinh Văn Cải và cs. (2005), bò lai HF phía Nam có thời
gian động dục lại sau đẻ vào mùa khô 76,72 ngày, mùa mưa 76,62 ngày,
bò HF thuần mùa khô 130,1 ngày và mùa mưa 154,4 ngày.
Bảng 3.4. Thời gian động dục lại sau khi đẻ
Chỉ số
Thời gian động dục lại sau khi đẻ
n (con)
746

X
(ngày)
117,69
SD
97,23
Min
35
Max
180

11
Trần Thị Loan và cs. (2012), bò F

2
động dục sau đẻ 102,13 ± 4,46
ngày, F
3
: 118,11 ± 4,52 ngày. Nguyễn Ngọc Tấn và cs. (2014), bò lai HF
ở TP. Hồ Chí Minh động dục sau 95,9 ngày (78,4-136,4 ngày), khoảng
cách từ sau đẻ đến phối giống có chửa là 209,9 ngày. Bò vùng Ba Vì có
thời gian động dục lại sau đẻ cao là do thay đổi tỷ lệ máu lai cao, bò
chuyển vùng nhiều, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng không đồng đều giữa
các nơi (bảng 3.4).
3.1.5. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ
TheoTrần Trọng Thêm (1986), bò sữa ở Phù Đổng có khoảng
cách lứa đẻ là 503±37,8 ngày; Vũ Chí Cương và cs. (2004), khoảng cách
lứa đẻ bò lai F
2
và F
3
tại Phù Đổng 440,6±7,2 và 442,8±10,9 ngày; ở Ba
Vì 443,12±10,12 và 461,58±19,24 ngày. Nguyễn Văn Đức (2005), bò lai
HF Bắc bộ và Nam bộ có khoảng cách lứa đẻ 419,6 ngày. Nguyễn Quốc
Đạt và Nguyễn Thanh Bình (2006), đàn bò HF nhập nội nuôi tại TP. Hồ
Chí Minh và Lâm Đồng có khoảng cách lứa đẻ 1-2 là 15,3 ± 2,1 tháng.
.

Trần Thị Loan và cs. (2012), nhóm bò lai F
1
ở Ba Vì có khoảng cách lứa
đẻ 432,2±7,16 ngày, F
3
là 441,01 ± 7,86 ngày.

Như vậy khoảng cách giữa hai lứa đẻ của bò Ba Vì là khá dài so
với một số nơi khác (bảng 3.5). Đây là do tỷ lệ máu lai HF tăng cao trên
87,5%. Bảng 3.5. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ
Chỉ số
Khoảng cách giữa hai lứa đẻ (ngày)
n (con)
746
X

437,43
SD
258,65
Min
400
Max
540
3.1.6. Tỷ lệ đẻ, sảy thai đẻ non, sát nhau trên đàn bò sữa
Tác giả Phan Văn Kiểm (1998) cho biết tỷ lệ đẻ toàn đàn bò lai HF
Hà Nội là 60 – 65%, đẻ non, sảy thai là 5,86%, sát nhau là 4,34% và có
chiều hướng gia tăng ở bò có tỷ lệ máu lai HF cao và bò HF thuần. Trịnh
Quang Phong và cs. (2012), tỷ lệ đẻ của bò lai HF tại Ba Vì và Gia Lâm

12
Hà Nội là 61,22%, 62,31%. Sato et al. (1992a) nhận xét, trên đàn bò sinh
sản Nhật Bản, tỷ lệ sót nhau 5-15%, đẻ non ở 270-275 ngày.
Bảng 3.6. Tỷ lệ đẻ, sẩy thai, đẻ non và sát nhau
Chỉ tiêu
Số con theo dõi
Số con đẻ
Tỷ lệ (%)

Tỷ lệ đẻ toàn đàn
815
569
69,82
Tỷ lệ sẩy thai, đẻ non
619
29
4,68
Tỷ lệ sát nhau
569
25
4,39
Kết quả của chúng tôi tỉ lệ đẻ toàn đàn cao (69,82%), đẻ non, xẩy
thai và sát nhau thấp hơn các nghiên cứu trước đây (bảng 3.6)
3.1.7. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai
Nhóm tác giả Nguyễn Quốc Đạt và cs. (1998), HS bò lai HF TP. Hồ
Chí Minh nhóm bò F2 là 1,68 và F3 là 2,07 lần. Tăng Xuân Lưu và cs.
(2001): tỷ lệ TT bò lai HF tại Ba Vì là 51,36 % (F
1
: 56.84%, F
2
:54,54%,
F
3
: 45,70%). Nguyễn Xuân Trạch (2004b), bò lai khu vực Hà Nội F
2
, F
3

tương ứng là 2,2 và 2,4 lần. Đinh Văn Cải, (2005), HF thuần nhập nội TP

Hồ Chí Minh 2,93 lần. Phạm Văn Giới và cs. (2007b), phối có chửa tinh bò
lai HF 3/4 và 7/8 ở miền Bắc 58,6% và miền Nam là 61,6%. Nguyễn Ngọc
Tấn và cs. (2014), TP. Hồ Chí Minh là 3,4 lần Kết quả phối giống của bò
Ba Vì thấp hơn các nơi khác (bảng 3.7).
Bảng 3.7. Hệ số phối giống (HS) và tỷ lệ thụ thai (TT)
Chỉ tiêu
Hệ số phối giống (liều)
Tỷ lệ thụ thai (%)
Tổng số lần phối
1.793
1.793
Số con có chửa
812
812
Kết quả
2,21
45,29
3.1.8.
Hiện tượng chậm sinh (rối loạn sinh sản)

Khám lâm sàng qua trực tràng kết hợp với việc định lượng P
4
để
đánh giá khả năng hoạt động của buồng trứng bò chậm sinh chúng tôi
thu được kết quả ở bảng 3.8.
Theo Trịnh Quang Phong và cs. (2012), bò sữa Ba Vì và Gia Lâm
Hà Nội: bệnh u nang buồng trứng bò F2 16,70%, F3 là 3,12%, HF là

13
7,14%, thể vàng tồn lưu F2 20,80%, F3 25,0% và HF 21,43%, buồng

trứng kém hoạt động là: F2 62,5%, F3 71,88% và HF thuần 71,43%.
Bảng 3.8. Kết quả phân loại hiện tượng rối loạn sinh sản
Bò cái
Cái sinh sản
Cái tơ
Tổng
Tổng
số
n (con)
746
69
815
Số chậm sinh
141
12
153
%
18,90
a

17,39
b

18,78
Các
trạng
thái
bệnh

trên

buồng
trứng
Buồng trứng
không hoạt động
n (con)
68
8
76
%
48,22
a

66,66
b

49,68
Thể vàng tồng
lưu
n (con)
22
3
25
%
15,60
a

25,00
b

16,34

U nang
n (con)
35
1
36
%
24,83
a

8,34
b

23,53
Viêm thân sừng
tử cung, âm đạo
n (con)
9
0
9
%
6,39
a

0,0
b

5,88
Chai noãn nang
n (con)
7

0
7
%
4,96
a

0,0
b

4,57
Ghi chú: Trong cùng hàng, những giá trị trung bình có mang chữ cái khác nhau là
sai khác có nghĩa thông kê với P<0,05.
Chung Anh Dũng và cs. (2013), bệnh sinh sản trên bò sữa trong cả
nước có 41,7% đàn cái bị bệnh sinh sản (các tỉnh phía Bắc 32,2%, đồng
bằng sông Cửu Long 48,9%), trong đó chậm sinh 59,2%, phối giống
nhiều lần 12%, sót nhau 11,7%, động dục không theo chu kỳ 4,25%,
trong đó bò chậm sinh sản là bò vắt sữa 5 tháng mà vẫn chưa thụ thai.
Tỷ lệ bò chậm sinh vùng Ba Vì cao tương đương với một số nơi khác.
3.2. Đánh giá tình trạng hoạt động của buồng trứng bò sau khi đẻ
3.2.1. Động dục trở lại của bò sữa đến 120 ngày sau đẻ
Phân loại, đánh giá hoạt động của buồng trứng trên những bò
“chậm sinh” sau đẻ 120 ngày được thể hiện qua bảng 3.9.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Tấn (2014), đàn bò TP. Hồ Chí
Minh không động dục sau đẻ 60 ngày là 11,7%, phối giống trên 80 ngày là

14
27,4% và khoảng cách từ sau đẻ đến phối giống có chửa là 209,9 ngày. Sự
thiếu dinh dưỡng, stress nhiệt và vắt sữa là những nguyên nhân thứ phát
dẫn đến sự rối loạn sinh sản là rối loạn hormone dẫn đến chậm động dục
lại sau khi đẻ (Sato et al., 1992). Đàn bò sữa Vùng Ba Vì cũng như vậy

bảng 3.9).
Bảng 3.9. Tình trạng động dục trở lại sau đẻ đến 120 ngày
Chỉ tiêu
Số lượng (con)
Tổng số bò theo dõi
n (con)
764
Động dục
Số bò (con)
621
Tỷ lệ (%)
83,25
Không động dục
Số bò (con)
125
Tỷ lệ (%)
16,75
3.2.2. Nguyên nhân gây chậm động dục sau 120 ngày ở buồng trứng
Theo dõi 125 bò sữa sau đẻ 120 ngày không có biểu hiện động
dục, động dục không rõ ràng. Kết quả thể hiện bảng 3.10.
Bảng 3.10. Các nguyên nhân trên buồng trứng gây chậm động dục
Tổng bò
n (con)
125
Các trạng
thái buồng
trứng
Không hoạt
động
Số bò (n)

68
Tỷ lệ (%)
54,40
U nang
Số bò (n)
35
Tỷ lệ (%)
28,00
Thể vàng tồn
lưu
Số bò (n)
22
Tỷ lệ (%)
17,60
Buồng trứng không hoạt động tập trung cao ở những bò không động
dục 54,40% (68 bò). Khi khám, chúng tôi nhận thấy thông thường thể
vàng chỉ xuất hiện trên một buồng trứng nhưng cũng có trường hợp trên
một buồng trứng có mặt cả thể vàng và nang trứng
3.2.3. Ảnh hưởng của mùa vụ đến chức năng buồng trứng sau đẻ
Có sự ảnh hưởng của thời tiết, mùa vụ tại thời điểm bò đẻ tới chức
năng của buồng trứng. Thể vàng tồn lưu, cao vào mùa hè (36,6%), thấp

15
vào mùa đông (13,63%). Bệnh ở buồng trứng xảy ra ở cả bốn mùa. Tuy
nhiên, ở mùa xuân và mùa hè cao hơn mùa thu và mùa đông (bảng 3.11).
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của mùa vụ đến chức năng hoạt động
của buồng trứng sau đẻ
Mùa vụ
Các trạng thái buồng trứng
Không hoạt động

U nang
Thể vàng tồn lưu
Số bò (n)
Tỷ lệ (%)
Số bò
(n)
Tỷ lệ
(%)
Số bò
(n)
Tỷ lệ
(%)
Xuân
20
29,41
a
13
37,14
c
7
31,81
e

23
33,82
a
10
28,57
8
36,36

e
Thu
9
13,23
b
7
20,00
4
18,18
f
Đông
16
23,52
b
5
14,28
d
3
13,63
f
Tổng số
68
100
35
100
22
100
Ghi chú: - Trong cùng cột, các giá trị trung bình có mang những chữ cái khác
nhau là sai khác ở mức P<0,05. Mùa xuân từ tháng 2-4, mùa hè từ tháng 5-9, mùa
thu từ tháng 10-11 và mùa đông từ tháng 12-1 năm sau

3.2.4. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến chức năng buồng trứng
Thường bò cái tơ hoặc bò mới đẻ lứa 1-2 động dục rõ và tỷ lệ phối
giống có chửa cao. Bò đã đẻ nhiều lứa thì khả năng có chửa thấp.Từ lứa đẻ
2 đến lứa 6, bò mắc bệnh thể vàng tồn lưu tăng từ 13,63% đến 18,18%,
sau đó giảm dần ở sau lứa đẻ 6 (9,09%).
Bảng 3.12. Yếu tố lứa đẻ ảnh hưởng đến hoạt động của buồng trứng
Lứa
đẻ
Các trạng thái buồng trứng
Không hoạt động
U nang
Thể vàng tồn lưu
Số bò (n)
Tỷ lệ (%)
Số bò (n)
Tỷ lệ (%)
Số bò (n)
Tỷ lệ (%)
1
5
7,35
2
5,71
2
9,09
2
5
7,35
4
11,42

4
18,18
3
11
16,17
4
11,42
3
13,63
4
11
16,17
7
20,00
4
18,18
5
10
14,70
6
17,14
3
13,63
6
12
17,64
7
20,00
4
18,18

>6
14
20,58
5
14,28
2
9,09
Tổng
68
100
35
100
22
100

16
Buồng trứng không hoạt động cũng tăng theo lứa đẻ của bò, lứa đẻ
thứ nhất chỉ có 5,35% sau đó tăng dần đến 20,58% ở sau lứa đẻ 6. Bệnh
u nang buồng trứng cũng có chiều hướng gia tăng từ lứa đẻ 2 đến lứa đẻ
6 (11,42 đến 14,28% ) (bảng 3.12).
3.2.5. Ảnh hưởng của thể trạng đến chức năng buồng trứng sau đẻ
Qua kết quả (bảng 3.13) cho thấy thể trạng bò béo hay quá béo thì
dễ mắc bệnh buồng trứng không hoạt động, u nang và thể vàng tồn lưu.
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của thể trạng bò đến chức năng hoạt động
buồng trứng
Thể trạng bò
Các trạng thái buồng trứng
Không hoạt
động
U nang

Thể vàng
tồn lưu
Số bò
(n)
Tỷ lệ
(%)
Số bò
(n)
Tỷ lệ
(%)
Số bò
(n)
Tỷ lệ
(%)
Gầy, quá gầy
(BCS:2,00-2,50)
16
23,52
13
37,14
1
4,54
Bình thường
(BCS:2,75-3,25)
9
13,23
2
5,71
8
36,36

Béo, quá béo
(BCS:3,50-4,50)
43
63,23
20
57,14
13
59,09

68
100
35
100
22
100
Bò gầy hay quá gầy thì mắc bệnh buồng trứng không hoạt động
(23,52%); u nang buồng trứng (37,14%), thể vàng tồn lưu tỷ lệ thấp ở bò
gầy hay quá gầy. Ngược lại đối với bò thể trạng bình thường thì bệnh thể
vàng tồn lưu (36,36%) cao hơn hẳn đối với nhóm bò có thể trạng gầy
hay quá gầy và thấp hơn hẳn đối với bò có thể trạng béo hay quá béo.
Theo Nguyễn Ngọc Tân và cs.,(2014) bò có điểm thể trạng 2,7 là
bò có buồng trứng kém hoạt động, thể trạng 2.9 có thể vàng là 56,25%.

17
3.3. Định lượng P4 phát hiện bệnh buồng trứng và chẩn đoán thai
sớm nhằm nâng cao khả năng sinh sản ở bò sữa
3.3.1. Kết quả chẩn đoán nguyên nhân chậm sinh bằng khám qua trực
tràng
Đánh giá phân loại hoạt động của buồng trứng bằng khám lâm
sàng qua trực tràng với hai lần khám liên tiếp cách nhau 7-10 ngày, kết

quả thể hiện bảng 3.14.
Bảng 3.14. Chẩn đoán lâm sàng bệnh buồng trứng qua trực tràng
Trạng thái buồng trứng
Số bò (con)
Tỷ lệ (%)
Thể vàng tồn lưu
20
37,74
U nang
5
9,43
Buồng trứng kém hoạt động
28
52,83
Tổng số
53
100
Buồng trứng không hoạt động chiếm tỷ lệ cao nhất: 52,83%. Sau đó
thể vàng tồn lưu 37,74% và thấp nhất u nang chiếm 9,43%.
3.3.2. Kết quả chẩn đoán bệnh buồng trứng bằng định lượng P4
trong sữa
Xác định chính xác bệnh của buồng trứng bằng định lượng
hormone P
4
, thể hiện qua bảng 3.15.
Bảng 3.15. Kết quả định lượng P
4
trong sữa
Định lượng P
4


Con (n)
Tỷ lệ (%)
Hàm lượng P
4

(ng/ml)
Thể vàng tồn lưu
16
30,19
a
Liên tục ≥ 5,0
U noãn nang
7
13,20
b
Lên xuống
Buồng trứng kém
hoạt động
30
56,60
c
Liên tục < 5,0
Tổng số
53
100
-
(P

< 0,05)

Định lượng progesterone xác định bệnh buồng trứng kém hoạt động
chiếm 56,60%, thể vàng tồn lưu 30,10% và u nang buồng trứng là
13,20%. Đối với bò có buồng trứng nhỏ và có hàm lượng P
4
< 0,2 ng/ml

18
được xác định là buồng trứng kém hoạt động (Tăng Xuân Lưu và cs.
2003b).
Qua kết quả (bảng 3.14) ở trên chúng tôi thấy kết quả giữa hai
phương pháp (định lượng P
4
và khám lâm sàng) không có sự sai khác
nhau rõ rệt ở các bệnh thể vàng tồn lưu, buồng trứng không hoạt động và
bệnh u nang buồng trứng. Kết quả so sánh được thể hiện bằng hình 3.1.

Hình 3.1. So sánh kết quả chẩn đoán bệnh buồng trứng bằng khám
lâm sàng và định lượng progesterone
3.3.3. Chẩn đoán có thai sớm bằng định lượng P4 trong sữa
Để chẩn đoán thai sớm ở bò chúng tôi đã dẫn tinh cho 26 bò có
biểu hiện động dục rõ, lấy mẫu sữa ở ngày 0 (ngày phối), ngày 7, 14, 21,
28, 35 sau phối. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.16.
Bằng phương pháp định lượng P
4
trong sữa ở bò không động dục
có thể vàng tồn lưu là 30,10%, u nang buồng trứng 13,2% và buồng
trứng không hoạt động là 56,6%. Theo Phan Văn Kiểm và cs. (2006),
định lượng P
4
xác định có thai sớm qua 21 ngày chính xác 84,78% và

sau 60-90 ngày khám thai có chửa 69,56%. T. Nakao et al. (1982b), độ
chính xác của phương pháp P
4
là 75-85% và không có chửa 100% sau 21
ngày phối.

19
Bảng 3.16. Chẩn đoán thai sớm bằng định lượng P
4

Thời điểm theo dõi
Số bò
(n)
Hàm lượng
P
4

(ng/ml)
Bò động dục và thụ tinh nhân tạo
26

Bò động dục lại sau 21±3 ngày
8
3,68±0,21
Bò có hàm lượng P
4
cao liện tục đến 35 ngày sau phối
18
5,68±0,27
Bò có chửa, khám thai ở 60 ngày sau phối

15
-
Bò không có chửa, khám thai ở 60 ngày sau phối
3
-
Việc xác định có thai sớm cũng là một trong những biện pháp để
nâng cao khả năng sinh sản của bò sữa. Hai phương pháp chẩn đoán
bệnh buồng trứng qua trực tràng và P
4
không có sự khác biệt nhiều ở
vùng Ba Vì.
3.4. Sử dụng hormone nhằm nâng cao khả năng sinh sản ở bò sữa
3.4.1. Kết quả điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động
Đối với bò có buồng trứng không hoạt động, chúng tôi sử dụng
vòng CIDR đặt âm đạo 12 ngày, ngày thứ 11 tiêm PGF
2
, ngày 12 rút
vòng và tiêm GnRH sau đó theo dõi bò động dục và phối giống. Kết quả
bảng 3.17.
Bảng 3.17. Kết quả điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động
Chỉ tiêu
Kết quả điều trị
Tổng số bò có buồng trứng
không hoạt động
n (con)
68
Bò động dục
n (con)
57
Tỷ lệ (%)

83,82
Có chửa
n (con)
42
Tỷ lệ (%)
73,68
Theo Lưu Công Khánh và cs. (2004), sử dụng CIDR và PGF
2
,
để gây động dục, tỷ lệ động dục ở bò Lai Sind là 85,71% và ở bò lai HF

20
là 87,30%. Phan Văn Kiểm và cs. (2006) sử dụng CIRD với PGF
2
điều
trị bệnh buồng trứng không hoạt động cho kết quả 78,95%, sau khi chẩn
đoán bằng phương pháp progesterone. Trịnh Quang Phong và cs. (2012)
điều trị bệnh buồng trứng không hoạt động trên đàn bò Hà Nội cho kết
quả 79,16-84,2% bò động dục và có 71,2-81,2% bò có chửa ở 2 kỳ phối
giống trên công thức sử dụng kết hợp giữa CIRD, HCG, estrogen và
PGF
2
. Kết quả của chúng tôi tương đương với kết quả của các tác giả
đã nghiên cứu trên bò lai.
3.4.2. Kết quả điều trị bệnh u nang buồng trứng
Kết quả điều trị bệnh u nang buồng trứng bằng GnRH với liều
100µg và 25 mg PGF
2
sau 7 ngày. Kết quả thể hiện qua bảng 3.18.
Bảng 3.18. Kết quả điều trị bệnh u nang buồng trứng

Chỉ tiêu
Kết quả điều trị
Tổng số bò bị u nang buồng trứng
n (con)
35
Bò động dục
n (con)
31
Tỷ lệ (%)
88,57
Có chửa
n (con)
25
Tỷ lệ (%)
71,42
Sau khi tiêm GnRH, ngày thứ 5 có 2 bò động dục, 33 bò tiêm PGF
2
vào ngày thứ 7, có 29 bò động dục. Tổng số bò động dục và phối giống là
31 con chiếm tỷ lệ 88,57% và sau 45-60 ngày khám thai có 25 bò có chửa
chiếm 71,42%. Kết quả nghiên cứu của Phan Văn Kiểm và cs. (2006) sử
dụng GnRH điều trị bệnh u nang buồng trứng có 57,14% bò có chửa
chẩn đoán bằng phương pháp P
4
. Trần Thị Loan và cs. (2012), sử dụng
GnRH, PGF
2
và sử dụng vòng CIDR

điều trị bò u nang buồng trứng có
83,33% bò động dục và 80% bò có chửa ở hai kỳ phối giống. Kết quả

của chúng tôi cao hơn các nghiên cứu trước đây.
3.4.3. Kết quả điều trị bệnh thể vàng tồn lưu
Điều trị bệnh thể vàng tồn lưu bằng PGF
2
kết hợp thụt rửa thân,
sừng tử cung. Kết quả bảng 3.19.

21
Kết quả sau hai lần tiêm PGF
2
có 90,9% bò động dục với 80,0%
bò có chửa. Nguyễn Tấn Anh và cs. (1995), sử dụng PGF
2
trên bò Lai
Sind tỷ lệ động dục 85,18%, thụ thai đạt 65,21%. Hoàng Kim Giao và
cs. (1997), ở bò Lai Sind động dục 71,43%, bò lai hướng sữa 78,87%.
Bảng 3.19. Kết quả điều trị thể vàng tồn lưu
Lần điều trị
PGF


Số bò
xử lý
Biểu hiện động dục
Có chửa
Số bò
(con)
Tỷ lệ
(%)
Số bò

(con)
Tỷ lệ
(%)
Lần 1
22
16
72,72
13
81,25
Lần 2
6
4
66,66
3
75,00
Tổng số
22
20
90,90
16
80,00
Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương. (1997), sử dụng PGF
2

trên bò lai hướng sữa tại Hà Nội tỷ lệ động dục 82,0%, tỷ lệ thụ thai
64,0%. Phan Văn Kiểm và cs. (2006), sử dụng PGF
2
điều trị bệnh thể
vàng tồn lưu đạt kết quả 76,92% sau khi chẩn đoán bằng phương pháp
progesterone. Kết quả thụ thai của chúng tôi cao hơn khi kết hợp với thụt

rửa thân sừng tử cung.
3.4.4. Điều trị bò chậm sinh không rõ nguyên nhân bằng phác đồ tổng
hợp (GnRH- PGF2α- PGF2α- GnRH)
Trong thực tế việc xác định rõ nguyên nhân chậm sinh trên bò ở
buồng trứng không phải thú y nào cũng biết, điều đó phụ thuộc vào sự
hiểu biết về lâm sàng, hormone, tay nghề khi chẩn đoán. Để phục vụ sản
xuất tốt hơn, chúng tôi thử nghiệm điều trị phác đồ tổng hợp để đánh giá.
Khi tiêm GnRH (ngày 1), có 4 bò động dục ở ngày thứ 2 chiếm
10,81%. Ngày thứ 3 tiêm PGF

có 11 bò động dục vào ngày thứ 6-7
chiếm 24,32%; số còn lại 22 bò được tiêm PGF

(lần 2) và sáng ngày
thứ 8 tiêm GnRH thì chiều có 4 bò xuất hiện động dục chiếm 10,81%,
theo dõi 18 bò còn lại ngày thứ 9 có 13/18 bò có biểu hiện động dục và 5
bò không thấy biểu hiện động dục. Tất cả 18 bò đều được phối giống vào
chiều tối cùng ngày. Tổng số bò có biểu hiện động dục trong liệu trình

22
điều trị (32/37 bò) chiếm 86,49% và tỷ lệ phối có chửa là 67,56% ở hai
kỳ phối giống (bảng 3.20).
Bảng 3.20. Kết quả điều trị bò chậm sinh không rõ nguyên nhân
Chỉ tiêu
Số lượng
Bò tổng số
n (con)
37
Thuốc điều trị
GnRH (ngày 1)

n (con)
4
%
10,81
PGF2α (ngày 3)
n (con)
11
%
24,32
GnRH (ngày 8)
n (con)
4
%
10,81
Phối giống (ngày 9)
Động dục
n (con)
13
%
35,14
Không động dục
n (con)
5
%
13,51
Có thai
n (con)
2
%
40,00

Có thai
n (con)
25
%
67,56
Khi sử dụng công thức hỗn hợp GnRH–PGF
2
–hCG (công thức 1)
và GnRH–SMB–PGF

–GnRH (công thức 2), Quản Xuân Hữu và cs.
(2003), cho kết quả: Công thức 1: bò Lai Sind có 60% động dục rõ, tập
trung sau mũi tiêm PGF

cuối trong vòng 71-96 giờ (30%), công thức 2:
bò lai Sind động dục 100%, sau mũi tiêm PGF

cuối cùng trong thời gian
40-49 giờ có 68,75% bò động dục, kết quả khám thể vàng sau 7 ngày là
87,5%. Martiner và cs. (2001), sử dụng GnRH-PGF
2
-GnRH và estradiol
- PGF

- GnRH cho kết quả tỷ lệ thụ thai không khác nhau. Kết quả của
chúng tôi cao hơn các nghiên cứu và chúng tôi không sử dụng estrogen
trong điều trị.

23
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận
1) Khả năng sinh sản của đàn bò sữa có tỉ lệ máu lai ≥ 75% HF Ba
Vì, Hà Nội:
- Tuổi phối giống lần đầu (17,43 tháng), tuổi đẻ lần đầu (31,10
tháng), cao hơn một số vùng nuôi bò sữa lai trong cả nước.
- Khoảng cách giữa hai lứa đẻ dài (437,43 ngày).
- Tỷ lệ đẻ thấp (69,82%), tỷ lệ sảy thai, đẻ non còn cao (4,68%).
- Tỷ lệ sát nhau thấp (4,39%) và hệ số phối giống thụ thai (2,21 liều
tinh) tốt hơn so với nhiều nơi trong cả nước.
- Tỷ lệ chậm sinh cao (18,78%) ở cả hai nhóm bò tơ và bò sinh sản
thể hiện ở tình trạng buồng trứng không hoạt động, thể vàng tồn lưu và u
nang, trong đó buồng trứng không hoạt động chiếm tỉ lệ lớn (49,68%) và
tập trung ở đàn bò tơ (66,66%).
- Thời gian động dục lại sau khi đẻ trước 120 ngày dài 83,25%, số
bò động dục sau 120 ngày chỉ có 16,75%. Nguyên nhân là do buồng trứng
không hoạt động (54,40%), u nang buồng trứng (28,0%) và thể vàng tồn
lưu (17,6%).
2) Mùa vụ ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của buồng trứng ở
bò sữa khá rõ :
Mùa xuân tỉ lệ u nang (37,14%), thể vàng (31,81%), mùa hè
buồng trứng không hoạt động(33,82%), thể vàng tồn lưu (36,36%), mùa
thu và mùa đông các bệnh thấp hơn (13,23-23,52%).
3) Số lứa đẻ có ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của buồng
trứng của bò sữa :
Buồng trứng kém hoạt động tăng từ lứa 1 đến lứa 6 (7,35 – 20,58
%), thể vàng tồn lưu tăng từ lứa 1 đến lứa đẻ 6 (9,09-18,18%) và u nang
cũng tăng từ lứa 1 đến lứa đẻ 6 (5,71% -20,0%).
4) Thể trạng của bò sữa sau khi đẻ ảnh hưởng đến chức năng hoạt
động buồng trứng bò sữa :
- Thể trạng bò gầy (2,0-2,5) và bò béo, quá béo (3,5-4,5) đều ảnh

hưởng xấu đến sinh sản của bò sữa: bò gầy, buồng trứng không hoạt

×