Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Các biện pháp tự vệ thương mại và việc áp dụng ở việt nam trong điều kiện hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.78 KB, 38 trang )

z
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI & KINH TẾ QUỐC TẾ


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
CHUYÊN NGÀNH : THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI : Các biện pháp tự vệ thương mại và việc
áp dụng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
GIẢNG VIÊN : TH.S NGUYỄN THỊ LIÊN HƯƠNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN : NGUYỄN QUỐC HUY
LỚP : THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
KHÓA : 49
MÃ SINH VIÊN : CQ491127



HÀ NỘI - 2010
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở tạo ra một sân chơi tự do và công bằng.
Tháng 12/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO. Đây là một cột mốc quan trọng trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ trước đến nay. Bên cạnh cơ hội mở
rộng quan hệ kinh tế, giao lưu với nhiều nước trên thế giới, Việt Nam cũng
phải đương đầu với rất nhiều thách thức. Có lẽ khó khăn lớn nhất mà Việt
Nam phải đối mặt đó là những tác động tiêu cực do cạnh tranh gây ra , nhất
là trong bối cảnh năng lực cạnh tranh của nhiều ngành sản xuất nội địa Việt
Nam còn rất yếu kém. Không riêng gì Việt Nam, đây cũng là bài toán hóc


búa đặt ra cho rất nhiều quốc gia. Do vây, tiền thân của tổ chức thương mại
thế giới là GATT đã đi tiên phong trong việc đề ra biện pháp tạo điều kiện
cho ngành sản xuất trong nước có cơ hội điều chỉnh để tồn tại và phát triển,
tránh những tồn tại nghiêm trọng khi tham gia vào tự do hoá thương mại. Đó
chính là cơ chế tự vệ thương mại đối với hàng nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong khi nhiều quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng
của các biện pháp tự vệ và có những cách vận dụng khác nhau thì tại Việt
Nam, việc áp dụng cơ chế này vẫn là một đề tài mới mẻ. Bởi vậy, để trả lời
câu hỏi làm sao Việt Nam có thể áp dụng một cách có hiệu quả các biện pháp
tự vệ thương mại, em xin được chọn đề tài “Các biện pháp tự vệ thương
mại và việc áp dụng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập”
I. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TỰ VỆ THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm về tự vệ thương mại
Tự vệ thương mại là hành động của chính phủ các nước nhập khẩu
dưới hình thức tăng mức thuế hiện hành, áp dụng hạn ngạch, các khoản phụ
thu hay các biện pháp thích hợp khác, áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu
trong trường hợp những hàng hoá này được nhập khẩu một cách quá mức,
gây thiệt hại ngiêm trọng đến ngành sản xuất nội địa.
“Thiệt hại nghiêm trọng” là sự giảm sút đáng kể về vị thế của ngành
công nghiệp trong nước. Để xác định có hay không thiệt hại nghiêm trọng
cần phải căn cứ vào các chỉ tiêu như : lượng hàng hoá nhập khẩu tăng tuyệt
đối cũng như tương đối, mức độ tăng thị phần nhập khẩu của thị trường trong
nước, hay sự giảm sút về doanh số, số lượng, hiệu suất, hệ số sử dụng, công
suất, lợi nhuận, lỗ lãi và việc làm của ngành sản xuất nội địa.
“Ngành công nghiệp trong nước” không chỉ giới hạn ở những hãng sản
xuất những mặt hàng giống hệt nhau mà còn mở rộng đối với những mặt
hàng tương tự, những hàng hoá có thể thay thế hàng hoá nhập khẩu, cạnh
tranh trực tiếp trên thị trường.
2. Các biện pháp tự vệ thương mại
Theo điều XIX và Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO, một

quốc gia có quyền lựa chọn 1 trong các biện pháp tự vệ sau:
-Tăng mức thuế đã cam kết vượt lên trên mức thuế trần(biện pháp thuế
quan)
-Áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng như hạn ngạch(biện pháp
phi thuế quan)
2.1 Biện pháp thuế quan:
Đây là biện pháp mà WTO cho phép để bảo hộ thị trường trong nước
và chủ yếu dưới dạng tăng thuế nhập khẩu, vì đây là công cụ đảm bảo tính
minh bạch và dễ dự đoán, được thực hiện bằng những con số rõ ràng, do vậy
người ta có thể thấy được mục đích bảo hộ dành cho 1 ngành sản xuất của
mỗi quốc gia. Ngoài ra, do biện pháp thuế quan chỉ làm tăng giá sản phẩm
nên cũng không làm cho thương mại bị bóp méo và đảm bảo cho “bàn tay vô
hình”của thị trường thực hiện được chức năng của mình. Tuy nhiên khi tham
gia vào quá trình hội nhập, các nước phải cam kết ràng buộc với một mức
thuế trần nhất định và phải có lịch trình cắt giảm cụ thể.
2.2 Các biện pháp phi thuế quan:
Trước kia các nước nhập khẩu thường sử dụng biện pháp hạn chế xuất
khẩu tự nguyện(VERs- Voluntary Export Restrains), qua đó lợi dụng ảnh
hưởng của mình để qua đó ép buộc các nước đối tác tự nguyện hạn chế xuất
khẩu, đồng thời cơ chế này cũng thể hiện sự phân biệt đối xử rất rõ. Vì vậy
trong hiệp định về các biện pháp tự vệ, WTO đã cấm sử dụng VERs mà thay
vào đó là các biện pháp hạn chế định lượng bao gồm:
a) Hạn ngạch:
Hạn ngạch là biện pháp dùng để hạn chế số lượng hay giá trị hàng hoá
xuất nhập khẩu từ một thị trường nào đó trong một khoảng thời gian nhất
định (thường là 1 năm).Có 2 loại hạn ngạch:
- Hạn ngạch tuyệt đối : là hạn ngạch mà khi áp dụng, nếu hàng hoá
nhập khẩu vượt quá một khối lượng đã qui định thì không được cấp giấy
phép nhập khẩu
- Hạn ngạch thuế suất thuế quan : là hạn ngạch mà khi áp dụng, nếu

khối lượng hàng hoá nhập khẩu không vượt quá mức độ qui định thì sẽ đánh
thuế suất thông thường, ngược lại sẽ đánh thuế suất bổ sung hay đánh thuế
tăng theo từng phần tăng tương ứng của số lượng hàng hoá NK
b) Các công cụ khác:
Một số biện pháp phi thuế quan khác mà các quốc gia có thể áp dụng
là cấm NK, cấp giấp phép nhập khẩu hay phụ thu đối với hàng NK v v Các
biện pháp này thường mang tính chủ quan của nước NK với mục đích bảo hộ
nền sản xuất nội địa nên WTO coi những biện pháp này làm hạn chế rõ rệt
tác dụng của tự do thương mại và yêu cầu xoá bỏ thay vào đó là các biện
pháp hạn ngạch hoặc hạn ngạch thuế quan
3.Điều kiện chung để áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại
theo qui định WTO?
WTO trong các văn bản của mình đã đề ra những điều kiện áp dụng
các biện pháp tự vệ thương mại mà theo đó, một quốc gia chỉ được quyền áp
dụng biện pháp này nếu xét thấy đã hội đủ các điều kiện sau
3.1 Phải có sự gia tăng đột biến về lượng hàng hoá nhập khẩu vào
thị trường nội địa.
Sự gia tăng hàng hoá nhập khẩu dẫn đến áp dụng các biện pháp tự vệ
thương mại được xác định dựa vào một số tiêu chí cụ thể : đó là sự gia tăng
một cách tương đối hay tuyệt đối về sản lượng,số lượng hay giá trị của loại
hàng hoá đó so với số lượng, khối lượng hay giá trị của hàng hoá tương tự
hay hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước. Mục 1(a) điều
XIX hiệp định GATT 1994 đưa ra khái niệm “sự thay đổi không lường trước
- unforeseen development” theo đó sự gia tăng về số lượng hàng hoá nhập
khẩu phải không lường trước được, nghĩa là sự biến đổi đó xảy ra sau khi các
bên đã đàm phán và không có gì để khẳng định rằng các nhà đàm phán,
những người đã đưa ra nhượng bộ thuế quan, có thể hay lẽ ra phải dự đoán
được sự biến đổi đó. Thực tiễn xét xử các vụ kiện liên quan đến tự vệ thương
mại cho thấy sự gia tăng nhập khẩu để dẫn đến quyền áp dụng các biện pháp
tự vệ thương mại phải đáp ứng được các tiêu chí cả về định lượng cũng như

định tính. Sự gia tăng này phải vừa mới diễn ra, phải mang tính bất ngờ, phải
ở mức độ đủ lớn và phải gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng.
3.2 Việc gia tăng hàng hoá nhập khẩu đó phải gây thiệt hại hay đe
doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa.
Việc xác định tổn hại dựa trên kết quả điều tra theo đó cơ quan chức
năng đánh giá những yếu tố kinh tế có liên quan dến tình hình sản xuất của
ngành này gồm:
- Tốc độ và sản lượng gia tăng nhập khẩu của sản phẩm liên quan một
cách tuyệt đối hay tương đối
- Lượng gia tăng nhập khẩu lấy đi bao nhiêu%thị phần trong nước.
- Sự giảm sút thực tế về sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng
suất, tỉ suất đầu tư
- Tác động đến thị trường lao động.
Việc điều tra sẽ do một cơ quan chuyên trách ở mỗi quốc gia đảm
nhiệm.Tuy nhiên, nếu như xét thấy bất kì một sự trì hoãn nào có thể làm cho
tình hình trở nên trầm trọng hơn và khó phục hồi, các quốc gia có thể áp dụng
biện pháp tự vệ tạm thời mà chỉ dựa vào những dấu hiệu ban đầu cho thấy có
thiệt hại nghiêm trọng bắt nguồn từ gia tăng nhập khẩu, không cần đợi kết quả
điều tra biện pháp này chỉ kéo dài tối đa 200 ngày và được áp dụng dưới hình
thức tăng thuế suất. Khoảng thời gian áp dụng tự vệ tạm thời cũng sẽ được
tính vào tổng thời gian áp dụng tự vệ thương mại. Nếu sau này kết quả cho
thấy không đủ điều kiện áp dụng tự vệ thương mại thì các bên sẽ phải hoàn trả
cho nhau ngay lập tức khoản thuế gia tăng đã thu được.
3.3 Sự gia tăng về số lượng hàng hoá nhập khẩu đó phải là nguyên
nhân trực tiếp gây ra những thiệt hại nói trên.
Một quốc gia sẽ không thể áp dụng được các biện pháp tự vệ thương
mại nếu như không chứng minh được rằng có tồn tại bằng chứng rõ ràng về
mối quan hệ nhân quả giữa lượng nhập khẩu gia tăng đột biến của loại hàng
hoá có liên quan với thiệt hại nghiêm trọng gây ra. Việc chứng minh mối quan
hệ này có thể dựa trên sự tương quan về thời gian xảy ra việc gia tăng lượng

hàng hóa nhập khẩu gia tăng và thời gian xảy ra thiệt hại nghiêm trọng. Tuy
nhiên, nếu có những yếu tố khác không phải là gia tăng nhập khẩu, cùng trong
thời gian đó gây ra tổn hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây ra tổn hại thì không
thể suy diễn là thiệt hại đó là do việc hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh. Điều này
đồng nghĩa là các nhân tố gây thiệt hại cần phải được phân biệt và làm rõ, từ
đó tạo nên giới hạn cho việc áp dụng tự vệ thương mại.
4. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại của WTO
4.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử là nguyên tắc cơ bản của WTO. Tự
vệ thương mại cũng cần tuân thủ nguyên tắc này; theo đó các biện pháp tự vệ
sẽ được áp dụng với mọi sản phẩm nhập khẩu không phân biệt nguồn gốc
xuất xứ hàng hóa. Đối tượng điều tra để áp dụng tự vệ thương mại cũng phải
là toàn bộ hàng nhập khẩu chứ không phải hàng hóa từ một nước cụ thể.
Hiệp định về tự vệ thương mại của WTO đưa ra một ngoại lệ yêu
cầu:Nước nhập khẩu khi áp dụng biện pháp tự vệ dưới hình thức hạn chế số
lượng thì phải tham khảo ý kiến của các nước thành viên khác có lợi ích đáng
kể liên quan đến hàng hóa bị áp dụng tự vệ thương mại để đưa ra tỷ lệ phân
bổ hạn ngạch.
4.2 Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại trong phạm
vi và mức độ cần thiết:
Mục đích chính của tự vệ thương mại là để giúp nền công nghiệp trong
nước có thời gian để điều chỉnh cơ cấu, khắc phục thiệt hại và đứng vững
trong cuộc cạnh tranh gay gắt với hàng hóa nước ngoài. Do vậy nước nhập
khẩu chỉ được áp dụng tự vệ thương mại ở giới hạn cần thiết và chỉ nhằm để
ngăn cản hay khắc phục những thiệt hại do lượng nhập khẩu tăng đột biến
gây ra và nhằm tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nội địa chứ
không phải nhằm bất kỳ mục đích nào khác.
Áp dụng tự vệ thương mại không phải để hạn chế cạnh tranh, do vậy
nó chỉ được áp dụng trong một thời gian nhất định. Theo WTO, thời hạn áp
dụng tối đa là 4 năm. Trong trường hợp cần thiết, có thể được gia hạn thêm

một lần nhưng không quá 4 năm tiếp theo. Đối với các nước đang phát triển,
có thể được ưu đãi gia hạn với thời gian không quá 6 năm tiếp theo. Tuy
nhiên, ngay cả trong thời hạn áp dụng, nếu những điều kiện cho sự tồn tại
của nó không còn nữa thì nước áp dụng tự vệ thương mại phải dỡ bỏ ngay
hoặc đình chỉ biện pháp tự vệ đang được áp dụng với hàng hóa đó.
Trong thời gian áp dụng tự vệ thương mại nước nhập khẩu phải tiến
hành rà soát các biện pháp tự vệ để đảm bảo quyền lợi cho nước bị áp dụng
đồng thời cũng để cho việc luân chuyển hàng hóa diễn ra bình thường.
4.3 Nguyên tắc đảm bảo bồi thường tổn thất thương mại
Khác với các biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành
mạh do hành động bán phá giá hay trợ cấp của Chính phủ, một nước thành
viên khi áp dụng biện pháp tự vệ phải đảm bảo đền bù thỏa đáng cho nước bị
áp dụng tự vệ thương mại. Việc đền bù này thường thông qua việc giảm thuế
cho một số mặt hàng có lợi ích xuất khẩu cho nước bị áp dụng tự vệ thương
mại. Mức độ đền bù phải tương đương đáng kể.
Nếu các bên không thể thỏa thuận được mức độ bồi thường tương
xứng thì các nước bị áp dụng tự vệ thương mại có thể áp dụng các biện pháp
trả đũa. Tuy nhiên, quyền thực hiện trả đũa thương mại chỉ có thể tiến hành
sau 3 năm kể từ khi biện pháp tự vệ thương mại thực hiện.
4.4 Nguyên tắc ưu tiên cho các nước đang phát triển
WTO thừa nhận cần phải có sự cần thiết phải dành cho những nước
đang và chậm phát triển những điều kiện thuật lợi hơn trong thương mại
quốc tế, dành cho các nước này những chế độ đãi ngộ đặc biệt và khác biệt
trong thương mại quốc tế mà không yêu cầu có đi có lại trong các cam kết.
Điều 9 Hiệp định về tự vệ thương mại của WTO quy định: Các biệ
pháp tự vệ thương mại không được áp dụng với hàng hóa có nguồn gốc từ
một nước thành viên đang phát triển nếu như thị phần xuất khẩu hàng hóa
của nước này tại nước nhập khẩu không vượt quá 3 %. Hoặc nếu có nhiều
nước thành viên đang phát triển có thị phần từng nước dưới 3% và tổng thị
phần của các nước này không lớn hơn 9 % thì không bị áp dụng tự vệ thương

mại.
Về phần mình, một nước thành viên đang phát triển lại có quyền mở
rộng thời hạn áp dụng tự vệ thương mại với nước khác thêm 2 năm nữa so
với thời hạn tối đa được áp dụng tự vệ thương mại thông thường là 8 năm.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TỰ VỆ
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
1. Tình hình nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây:
Trong những năm vừa qua, nước ta đã tham gia sâu rộng vào nền kinh
tế quốc tế. Nhưng đi cùng với sự phát triển đó cũng là khá nhiều trở ngại, đặc
biệt là vấn đề nhập siêu. Ta có thể thấy được sự biến động đó qua biểu đồ
sau:
Nguồn Thống kê nhập khẩu của Tổng cục thống kê từ năm 2001 đến năm
2009
Bảng 1: Kim ngạch nhập khẩu 10 mặt hàng chủ yếu từ năm 2001 đến
năm 2008
Đơn vị: triệu USD
STT Tên hàng 2004 2005 2006 2007 2008
1
Máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện
1349 1706 2055 2944 11901
2
Máy móc, thiết bị, dụng
cụ và phụ tùng
5249 5281 6555 10376 12119
3
Nguyên phụ liệu dệt
may, da giày
2253 4680 5760 6750 7163
4 Ô tô nguyên chiếc 234 280 208 523 985

5 Phân bón 819 648 673 996 1188
6 Sắt thép 2509 2984 2905 4881 5473
7 Tân dược 510 502 547 700 539
8
Linh kiện và phụ tùng xe
máy
452 476 490 578 424
9 Linh kiện ô tô 647 795 500 921 1111
10 Xăng dầu 3571 4969 5848 7501 9118
Nguồn: Thống kê hàng năm của tổng cục thống kê
Trước tiên, nhìn vào biểu đồ 1 ta thấy nhập khẩu liên tục tăng qua các
năm(trừ năm 2009) mặc dù tốc độ tăng không đồng đều. Đây là hiện tượng
mà chúng ta cần chú ý bởi vì xuất phát điểm để áp dụng các biện pháp tự vệ
là tình trạng nhập khẩu tăng mạnh. Tình hình nhập siêu cũng biến động tăng
theo từng năm năm 2008, nhập siêu đã lên đến 16 tỷ USD, bằng 36.8% tổng
kim ngạch xuất khẩu, gấp 2 lần mức nhập siêu cùng kì năm 2007. Trong tình
hình nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam, có 2 đặc điểm cần chú ý.
Thứ nhất, theo như bảng số liệu 1, ta có thể thấy, trong số 10 mặt hàng nhập
khẩu chủ yếu của Việt Nam trong giai đoạn 2004 - 2008, hầu hết là mặt hàng
nguyên, phụ liệu thuộc nhóm ngành công nghiệp phụ trợ. Đây là nhóm ngành
hàng có vai trò hỗ trợ và là trung gian đầu vào cho việc sản xuất các sản
phẩm chính, cụ thể là nhóm ngành linh kiện điện tử, máy móc thiết bị phụ
tùng, linh kiện phụ tùng xe máy, linh kiện phụ tùng ô tô hay nguyên phụ liệu
dệt may da giày… Bên cạnh đó, các mặt hàng quan trọng đối với nền kinh tế
cũng nằm trong mười mặt hàng luôn có kim ngạch nhập khẩu cao là sắt thép
và phân bón. Thị trường thép đặc biệt trong thời gian gần đây luôn trong tình
trạng khủng hoảng khi một lượng lớn các sản phẩm thép giá rẻ của Trung
Quốc tràn vào Việt Nam. Trong khi đó, giá phôi thép nhập khẩu lại liên tục
biến động, cùng với các chi phí vận chuyển lưu kho cao và năng lực sản xuât
thấp kém của chính các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đã làm đội

giá thép thành phẩm lên cao, trong tương lai không xa có nguy cơ thị trường
Việt Nam sẽ tràn ngập thép nhập khẩu giá rẻ. Còn về phân bón, năm lức sản
xuất trong nước cũng mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu thị trường nội địa,
phần còn lại phải dựa vào nguồn phân urê nhập khẩu, do đó thị trường phân
bón Việt Nam rất dễ rơi vào tình trạng bị lũng đoạn bởi nguồn phân nhập
khẩu. Về lâu về dài, vẫn cần phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản
xuất thép và sản xuất phân bón cải tiến công nghệ và nâng cao năng lực cạnh
tranh, mà một trong các biện pháp là áp dụng tự vệ thương mại.
Một đặc điểm thứ 2 cũng rất đáng quan tâm là nhập siêu quá lớn từ
khu vực châu Á, đặc biệt là từ một số nước trong khu vực ASEAN và Trung
Quốc, Hàn Quốc. Đây thực sự là các đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt
Nam mà chúng ta khó có thể loại bỏ bằng các biện pháp bảo hộ thông thường
do bị ràng buộc bởi những cam kết và ràng buộc về thuế quan và phi thuế
quan, đặc biệt là Thái Lan và Malaysia vốn nằm trong khối thị trường chung
ASEAN.
2. Năng lực cạnh tranh yếu kém của các ngành sản xuất trong nước
Trong hơn hai thập kỷ qua Việt Nam đã mở cửa nền kinh tế, nhanh chóng
tìm các cơ hội để nâng cao vị thế kinh tế của nước nhà. Tuy nhiên, sự phát
triển của một nền kinh tế quốc gia dựa vào hàng loạt những yếu tố kèm theo.
Đồng thời, với nhiều chủ trương kinh tế thương mại trong nước và quốc tế
cũng phải phát triển đồng bộ. Để tìm hiểu thêm vấn đề liên quan đến sự tăng
trưởng phát triển kinh tế trong thời kỳ mới, em xin đề cập đến góc cạnh kinh
tế tổng hợp trong thời kỳ mới với các yếu tố cần thiết để nâng cao vị trí cạnh
tranh của Việt Nam, đó là: “Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp”. Nó được
xây dựng trên cơ sở đo lường các yếu tố có tác động lớn tới năng suất và
năng lực cạnh tranh quốc gia với 12 tiêu chí như thể chế, cơ sở hạ tầng ổn
định kinh tế vĩ mô, giáo dục và y tế cơ bản, giáo dục bậc cao, hiệu quả thị
trường lao động, trình độ thị trường tài chính, sẵn sàng công nghệ, quy mô
thị trường, trình độ kinh doanh và đổi mới. Xếp hạng của mỗi tiêu chí được
xác định thông qua hàng loạt những tiêu chí nhỏ, rất chi tiết và cụ thể. Do đó,

Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp phản ánh một cách khá tổng hợp về
“diện mạo” và “hiện trạng” của các nền kinh tế và được trích dẫn rất rộng rãi
cũng như được sử dụng trong nhiều tài liệu nhiều nghiên cứu hàn lâm cũng
như nhiều bài báo trên các tạp chí uy tín. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới -
Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2009. Thứ hạng Việt Nam xếp theo
chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp là 75 trên 133 quốc gia, giảm 5 bậc so
với 2008. Thứ hạng năm 2008, 2007 lần lượt là 70/134 và 68/131. Bảng thứ
hạng năng lực cạnh tranh tổng hợp của Việt Nam một số năm gần đây:
2005 2006 2007 2008 2009
GIC 74/111 77/122 68/131 70/134 75/133
Bảng thống kê cho thấy thứ hạng của Việt Nam theo các chỉ số nâng lực
cạnh tranh tổng hợp năm 2009 tiếp tục đà suy giảm từ 2007 và đã tụt bậc so
với năm 2008. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, năm 2009, Việt
Nam có cải thiện ở nhiều tiêu chí, đặc biệt là quy mô thị trường (hạng 38),
hiệu quả thị trường lao động (hạng 38), trong đó nhiều tiêu chí cụ thể có thứ
hạng rất cao. Tuy nhiên, chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp 2009 của Việt
Nam chưa được cải thiện và giảm 5 bậc so với 2008, chủ yếu do chỉ số ổn
định kinh tế vĩ mô bị đánh tụt từ hạng 70 xuống 112 làm tác động mạnh tới
nền kinh tế và khả năng cạnh tranh.
Vấn đề thiếu ổn định kinh tế vĩ mô là thâm hụt thương mại tăng, nền kinh tế
phát triển quá nóng là một biểu hiện rõ nét nhất; rồi đến việc đồng tiền mất
giá làm giảm niềm tin của giới đầu tư. Điều đáng suy nghĩ ở đây là trong khi
nhiều quốc gia đang phát triển, có mức tăng trưởng duơng (Trung Quốc, Ấn
Độ, Braxin…) đều cải thiện năng lực cạnh tranh của mình thì Việt Nam lại
tụt hạng 5 bậc. Điều này có nghĩa là Việt Nam đang tự đánh mất cơ hội làn
sóng tăng trưởng hậu khủng hoảng.
Chỉ tiêu 2008 2009
Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp 70/134 75/133
Thể chế 71 63
Cơ sở hạ tầng 93 94

Ổn định kinh tế vĩ mô 70 112
Y tế và giáo dục cơ bản 84 76
Giáo dục bậc cao 98 92
Hiệu quả thị trường hàng hóa 70 67
Hiệu quả thị trường lao động 47 38
Trình độ thị trường tài chính 80 82
Sẵn sàng công nghệ 79 73
Quy mô thị trường 40 38
Trình độ kinh doanh 84 70
Đổi mới 57 44
Bên cạnh đó còn những yếu kém chậm khắc phục như cơ sở hạ tầng (hạng
94), trình độ thị truờng tài chính (hạng 82), giáo dục bậc cao (hạng 92), sẵn
sàng công nghệ (hạng 73). So sánh thứ hạng một số chỉ tiêu năng lực cạnh
tranh của Việt Nam năm 2008 với 2009.
Về cơ sở hạ tầng, Việt Nam có tiến bộ lớn về viễn thông (hạng 37), nhưng
yếu kém về chất lượng hạ tầng điện, đường bộ, cảng biển (đề xếp hạng trên
100). Về giáo dục, Việt Nam còn yếu hầu hết chỉ số cơ bản như chất lượng
giáo dục (hạng 120), số lượng sinh viên (hạng 106) và chi phí giáo dục (hạng
100). Đáng lưu ý, Diễn đàn Kinh tế đánh giá khá cao về chỉ số đổi mới của
Việt Nam, trong đó có nhiều chỉ tiêu được xếp hạng tương đối cao như năng
lực đổi mới (hạng 41), chỉ tiêu của Chính phủ cho khoa học công nghệ (hạng
21)… Tóm lại dù các chỉ số đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới có thể
chưa phản ánh hết được năng lực cạnh tranh của Việt Nam, nhất là tiềm năng
phát triển trung và dài hạn, song phần nào phản ánh được thực tế chất lượng
tăng trưởng của kinh tế Việt Nam còn hạn chế.
3. Xu thế tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu
thực hiện những cam kết quốc tế - giảm thuế nhập khẩu đồng thời xoá
bỏ hàng rào phi thuế quan
Việt Nam đang trở thành thành viên của nhiều tổ chức thương mại quốc tế và
khu vực như ASEAN, AFTA, APEC và đặc biệt là WTO, có quan hệ kinh tế

với trên 170 nước. Chương trình cắt giảm thuế nhập khẩu và dỡ bỏ các hàng
rào phi thuế quan để thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư là không thể
tránh khỏi trong quá trình hội nhập. Trong cam kết WTO về thuế quan , Việt
Nam đã có kết quả đàm phán cho toàn bộ biểu thuế nhập khẩu (10.600 dòng
thuế), và cam kết cắt giảm 22% thuế nhập khẩu so với mức hiện hành, thực
hiện chủ yếu trong 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Trong số 10.600 dòng
thuế nhập khẩu sẽ có 36% phải cắt giảm, lộ tình cắt giảm kéo dài bình quân
5-7 năm. Mức thuế bình quân cho nông nghiệp là 21%, công nghiệp là
12.6%, so với mức bình quân hiện hành là 23,5% và 16.6% … Ngoài ra
trong các cơ chế hợp tác, tự do hoá ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Ấn Độ,
ASEAN-Nhật, ASEAN-Hàn Quốc…. mà Việt Nam tham gia cũng quy định
tiến trình cụ thể về cắt giảm thuế và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan.
Tất cả những điều này sẽ khiến cho môi trường kinh doanh ở nước ta
ngày càng cạnh tranh do sức ép mạnh mẽ từ luồng hàng hoá nhập khẩu chủ
yếu là từ Trung Quốc và ASEAN, đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh phải nỗ lực để vượt qua thách thức.
Trong bối cảnh ấy, việc đặt ra nhu cầu bảo hộ nói chung và tự vệ nói
riêng nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước có điều kiện điều chỉnh cơ
cấu và nâng cao sức cạnh tranh là cần thiết. Đã đến lúc chúng ta đứng lên
bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, các doanh nghiệp Việt Nam cần kiện
ngược lại chứ không chỉ loay hoay bị động với các vụ khởi kiện từ nước
ngoài. Lâu nay, chúng ta chỉ lo lắng đối phó với việc nước ngoài kiện sản
phẩm của mình bán phá giá vào thị trường họ hoặc sản phẩm của mình đựơc
nhập khẩu tràn lan đe doạ đến ngành sản xuất trong nước họ. Đã đến lúc
doanh nghiệp Việt Nam khởi kiện hàng hoá của nước ngoài được trợ cấp,
bán phá giá hay nhập khẩu quá mức đang đe doạ nhiều ngành công nghiệp
non yếu của mình.
III. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TỰ VỆ
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
1 Môi trường pháp lý về tự vệ thương mại tại Việt Nam

Cho đến thời điểm này,Việt Nam có hai văn bản pháp luật trực tiếp
điều chỉnh vấn đề tự vệ thương mại là Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10
của Uỷ ban thường vụ quốc hội ngày 25 tháng 5 năm 2002 về tự vệ trong
nhập khẩu hàng nước ngoài vào Việt Nam và nghị định số 150/2003/NĐ-CP
ngày 08 tháng 12 năm 2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh nói trên.
Trước đó, Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào quy định hay giải
thích về các biện pháp tự vệ; bởi vậy sự hiểu biết về các vấn đề liên quan đến
vấn đề này ngay trong các cơ quan và công chức hoạch định chính sách
thương mại còn rất hạn chế.
Về cơ bản, nội dung của hai văn bản pháp luật này được xây dựng trên
cơ sở tuân thủ các quy định của Điều XI GATT năm 1947 về tự vệ khẩn cấp
đối với hàng nhập khẩu và hiệp định tự vệ của WTO nhưng được chuyển
hoá, điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 về tự vệ trong nhập khẩu hàng
hoá nước ngoài vào Việt Nam gồm 8 chương, 33 điều quy định về các biện
pháp tự vệ, điều kiện và thủ tục áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp
hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt
hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất troaing nước. Nghị định 150/2003/NĐ-
CP hướng dẫn thi hành gồm 4 chương, 17 điều, quy định chi tiết hơn về các
biện pháp tự vệ, thủ tục điều tra áp dụng các biện pháp này.
Ngoài ra, Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11
ngày 14 tháng 06 năm 2005 và nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng
12 năm 2005 nêu rõ nếu hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam thì bị
áp dụng biện pháp tăng mức thuế nhập khẩu theo quy định của Pháp lệnh về
tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam. Hai nghị định
04/NĐ-CP và 06/NĐ-CP cùng ban hành ngày 09/01/2006 quy định cụ thể
các nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán
phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
1.1 Tác động của việc ban hành Pháp lệnh và nghị định về tự vệ
1.1.1 Những tác động tích cực

- Nước ta có một công cụ bảo hộ hợp pháp, ngăn chặn hoặc hạn chế
những diễn biến bất lợi do việc nhập khẩu hàng hoá gia tăng thất thường gây
ra.
- Sản xuất trong nước được bảo vệ, tránh khỏi nguy cơ bị đảo lộn,
thậm chí phá sản do nhập khẩu hàng hoá quá mức gây ra.
- Góp phần xây dựng một hệ thống chính sách quản lý thương mại rõ
ràng và ổn định hơn, cũng như nâng cao kiến thức của các doanh nghiệp về
vấn đề tự vệ thương mại.
- Là một bước chủ động chế định hoá các định chế của WTO vào luật
pháp Việt Nam và điều chỉnh luật pháp của ta phù hợp với các chuẩn mức
của thế giới, tạo điều kiện cho việc gia nhập WTO.
1.1.2 Những tác động tiêu cực
- Việc áp dụng các biện pháp tự vệ cũng có thể làm giảm cơ hội của
các ngành sản xuất sử dụng hàng hoá nhập khẩu đầu vào cho sản xuất với giá
thấp hoặc chất lượng tốt hơn, hạn chế người tiêu dùng có được những hàng
hoá tương tự với giá rẻ hơn.
- Trong một số trường hợp, việc áp dụng các biện pháp tự vệ có thể
làm thay đổi đáng kể các cơ hội thị trường mà các đối tác nước ngoài có
được và do vậy có thể dẫn đến sự khiếu nại từ phía chính phủ nước ngoài,
thậm chí khi tham vấn liên chính phủ không thành công có thể bị trả đũa.
- Nếu lạm dụng các biện pháp tự về sẽ làm nảy sinh sự ỷ lại của các
doanh nghiệp vào sự bảo hộ quá mức của Nhà nước.
2.Thực trạng áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Việt nam
trong thời gian qua
Trong trong cuộc chiến phòng vệ thương mại, DN Việt Nam đang bị dẫn bàn
với tỷ số 42 – 1. Thua quá đậm nhưng có vẻ như không nhiều người nghĩ
cách để lật ngược tỷ số. Đây là cách so sánh được nhiều chuyên gia kinh tế
đưa ra để nói về câu chuyện phòng vệ thương mại. Từ năm 1994 đến nay,
Việt Nam phải đối mặt với 42 vụ tranh chấp thương mại ở thị trường nước
ngoài, gồm có 35 vụ kiện chống bán phá giá, 6 vụ kiện tự vệ và 1 vụ kiện

chống trợ cấp. Thế nhưng, trên sân nhà, tính đến thời điểm hiện nay, chỉ mới
có duy nhất 1 trường hợp DN trong nước sử dụng biện pháp phòng vệ
thương mại.Đó là “vụ kính nổi Viglacera” – cách mà người ta gọi việc TCty
Thủy tinh và Gốm xây dựng Viglacera (được Cty kính nổi Viglacera và Cty
TNHH Kính nổi Việt Nam ủy quyền) - gửi đơn tới Bộ Công Thương yêu cầu
áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng kính nổi nhập khẩu vào Việt
Nam.Dựa trên những căn cứ cho rằng có sự gia tăng đột biến về nhập khẩu
đối với mặt hàng kính nổi, dẫn đến sụt giảm về sản lượng, công suất, thị
phận, lợi nhuận và nguy cơ cắt giảm lao động trong khu vực ngành sản xuất
trong nước, ngày 5/5/52009 Công ty kính nổi Viglacera (VIFG) và Công ty
Kính nổi Việt Nam (VFG) là 2 doanh nghiệp đại diện cho hơn 90% tổng sản
lượng nội địa của loại mặt hàng này (sau đây gọi là “Nguyên đơn”) đã nộp
Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng kính nổi nhập khẩu
vào Việt Nam với mã HS 7005 29 90 00 và 7005 21 90 00. Trong đơn yêu
cầu, Nguyên đơn đề nghị áp dụng mức thuế tự vệ tương đương
0,6USD/m2QTC đối với hàng hóa thuộc đối tượng điều tra. Trước khi có
quyết định chính thức áp dụng biện pháp tự vệ, Nguyên đơn yêu cầu Bộ
Công Thương áp dụng mức thuế tự vệ tạm thời 40% đối với hàng hóa thuộc
đối tượng điều tra.Đơn yêu cầu của Nguyên đơn đã được kiểm tra về tính
hợp lệ theo qui định tại điều 10 Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQT do
UBTVQH ban hành ngày 25/05/2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa vào
Việt Nam (Pháp lệnh 42).[2] Ngày 01.07.2009, Thứ trưởng Bộ công thương
Lê Danh Vĩnh đã thay mặt Bộ trưởng ký Quyết định số 3329/QĐ-BCT v/v
tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với hai nhóm hàng nhập khẩu
này (Quyết định 3329). Theo thủ tục qui định tại Hiệp định WTO về các
biện pháp phòng vệ thương mại 1994 (WTO Agreement on Safeguard
Measures – Hiệp định SA) và Pháp lệnh 42, ngày 20.11.2009, Cục quản lý
cạnh tranh – Bộ Công thương đã tiến hành Phiên tham vấn vụ điều tra áp
dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm kính nổi nhập khẩu vào Việt Nam với
thành phần tham dự bao gồm đại diện của cơ quan điều tra là Cục quản lý

cạnh tranh, các bên Nguyên đơn, đại diện các nhà xuất khẩu (Công ty Mulia
Glass của Indonesia, Công ty Guardian Industrie của Thái Lan), Hiệp hội
gốm sứ thủy tinh Việt Nam và các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam có
liên quan.Sau thủ tục tham vấn và các kết quả điều tra ban đầu, ngày
30/10/2009, VCAD đã công bố báo cáo sơ bộ về vụ điều tra này. Theo kết
quả điều tra sơ bộ, Cơ quan điều tra kết luận (i) hàng hóa sản xuất trong nước
với hàng hóa thuộc đối tượng điều tra thuộc nhóm hàng hóa tương tự; (ii) có
sự gia tăng cả về tuyệt đối lẫn tương đối của nhóm hàng hóa liên quan trong
giai đoạn điều tra ; (iii) thiệt hại xảy ra đối với sản xuất trong nước; và (iv)
việc gia tăng nhập khẩu là nguyên nhân cơ bản gây ra thiệt hại đối với sản
xuất trong nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra, Bộ công thương không
tiến hành áp thuế phòng vệ tạm thời đối với hai nhóm hàng thuộc đối tượng
điều tra theo nhu yêu cầu của nguyên đơn. Sau 7 tháng tiến hành điều tra,
ngày 08/02/2010, Cục quản lý cạnh tranh, Bộ công thương đã công bố Báo
cáo cuối cùng về kết quả điều tra. Trong Báo cáo điều tra cuối cùng, cơ quan
điều tra kết luận (i) tuy có sự gia tăng nhập khẩu và thiệt hại đối với sản xuất
trong nước, song từ Quí II 2009, thị phần của các nhà sản xuất trong nước đã
có dấu hiệu phục hồi, cụ thể lượng bán hàng nội địa tăng lên, cùng với chiều
hướng bắt đầu suy giảm của lượng hàng hóa nội địa tồn kho; (ii) trong bối
cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu giai đoạn 2008-2009 cùng với những biến
động trái chiều của giá dầu F.O tại thị trường Việt Nam so với thị trường thế
giới, sự gia tăng nhập khẩu không phải là nguyên nhân chính gây ra thiệt hại
đối với ngành sản xuất trong nước. Từ những kết quả điều tra cơ bản trên,
cùng với thực tế là thị phần của hàng nội địa đối với hàng hóa thuộc nhóm
đối tượng bị điều tra, cho dù có suy giảm vẫn ở mức khá cao, hơn 80% tổng
thị phần tiêu thụ nội địa, cơ quan điều tra đi đến kết luận cuối cùng là việc áp
dụng các biện pháp tự vệ đối với sản phẩm kính nổi nhập khẩu là không còn
phù hợp.Ngày 23/2/2010, Bộ trưởng Bộ công thương ký Quyết định số
0809/QĐ-BCT về việc không áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại đối
với mặt hàng kính nổi nhập khẩu có mã số HS 7005 29 90 00 và 7005 21 90

000. Sau 7 tháng, vụ điều tra áp dụng các biện pháp tự vệ đầu tiên của Việt
Nam theo qui định của pháp luật WTO đã chấm dứt với kết quả không áp
dụng các biện pháp tự vệ.Rõ ràng, công tác điều tra đã ít nhiều tác động vào
thị trường kính nổi, làm giảm nhập khẩu mặt hàng này, gián tiếp giúp DN
trong nước tăng lượng hàng bán ra.
Dù kết quả không được như “bên nguyên” mong muốn, nhưng vụ việc này
cũng đã mở đầu một tiền lệ, khởi động tư duy phòng vệ thương mại chủ
động.
Nhìn vào thực tế tình hình xuất nhập khẩu của nước ta những năm gần
đây có thể thấy trong những năm gần đây hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu
ra nước ngoài cũng như hàng hoá sản xuất trong nước phải chịu sức ép cạnh
tranh rất lớn từ phía hàng hoá nước ngoài việc nhập siêu không chỉ tác động
cán cân tài chính, mà còn ảnh hưởng không nhỏ tới nền sản xuất trong nước.
Thậm chí, trong quá trình xâm nhập thị trường, nhiều khi DN nước ngoài ồ
ạt tràn vào Việt Nam, có thể gây hại hoặc tác động tiêu cực tới sự tồn tại của
các DN sản xuất trong nước. Hàng hoá Việt Nam ở nước ngoài liên tục phải
đối mặt với các vụ kiện của các công ty nước ngoài về bán phá giá như vụ
kiện về bán phá giá bật lửa ga trên thị trường Hàn quốc và EU, vụ kiện về
giầy dép với Canada và nổi bật nhất là vụ kiện bán phá giá cá da trơn trên thị
trường Mỹ vào năm 2002. Những vụ kiện và tranh chấp thương mại trên mà
hệ quả là hàng hoá xuất khẩu của chúng ta bị áp dụng các biện pháp trừng
phạt như chịu thuế suất bổ sung và áp đặt hạn ngạch từ phía các đối tác nước
ngoài đã gây ra không ít khó khăn về tiếp cận thị trường và chiến lược xuất
khẩu của Việt Nam. Ở trong nước, hàng hoá của chúng ta tuy được thi đấu
trên sân nhà nhưng cũng không tránh khỏi nguy cơ bị mất thị trường trước sự
gia tăng của hàng hoá nước ngoài. Tại thị trường Việt Nam hiện đang diễn ra
sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty đa quốc gia lớn mạnh hơn chúng ta về
mọi mặt. Một số doanh nghiệp một thời hàng đầu của chúng ta bị dồn vào
chân tường với thị phần nhỏ hẹp. Chính sách mở cửa hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới đã tạo điều kiện cho hàng hoá nước ngoài tràn vào thị trường

Việt Nam. Hàng hoá Việt Nam không còn là sự lựa chọn như trước nữa với
tâm lý “sính ngoại” của người tiêu dùng không chỉ vì hàng ngoại có chất
lượng tốt hơn hàng nội mà giá của các sản phẩm, mặt hàng do Việt Nam sản
xuất cũng không thể cạnh tranh được với hàng nước ngoài, nhất là hàng
nhập khẩu từ Trung Quốc.
Không chỉ có ưu thế về chất lượng và giá cả, hàng hoá nước ngoài
cũng tham gia vào các chiến dịch xúc tiến thương mại tốt hơn chúng ta như
tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại với những ưu đãi đặc biệt hấp dẫn đánh vào
tâm lý người tiêu dùng trong khi các doanh nghiệp trong nước lại không đủ
tiềm lực để chạy theo các doanh nghiệp nước ngoài trong cuộc chiến dành
giật khách hàng chiếm lĩnh thị trường. Như vậy, dù là ở thị trường nước
ngoài hay thị trường trong nước hàng hoá của Việt Nam đều gặp khó khăn
trong việc tiêu thụ. Trong bối cảnh chúng ta bị tấn công từ hai phía thì việc
đặt ra nhu cầu bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng cho các ngành sản xuất
trong nước bị tác động bởi chính sách mở của tự do hoá thương mại và dỡ bỏ
hàng rào thuế quan là rất cần thiết.Tuy nhiên thực trạng đang diễn ra cho
thấy doanh nghiệp Viêt nam chưa thực sự quan tâm tới các biện pháp tự vệ
thương mại.Sở dĩ chúng ta chậm trễ trong việc ban hành các văn bản pháp
luật về tự vệ thương mại một phần chính là do nhận thức của chúng ta về vấn
đề này còn chưa đầy đủ và hạn chế. Việc soạn thảo Pháp lệnh về tự vệ trong
nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam được Bộ Thương mại phối
hợp với một số Bộ khác bắt đầu tiến hành từ năm 1999 và chính thức được
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua vào tháng 5 năm 2002. Đây thực sự
là cố gắng lớn của nước ta trong một nỗ lực hoàn thiện, bổ sung hệ thống
pháp luật cho phù hợp với các quy định của quốc tế về kinh tế thương mại,
thể hiện tính tích cực chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế
của Việt Nam. Việc Pháp lệnh ra đời đã góp một phần không nhỏ trong việc
phổ biến những kiến thức chung nhất về tự vệ thương mại cho các cấp nhà
nước nói chung và các cấp doanh nghiệp nói riêng. Bởi trước đây, khi Pháp
lệnh này chưa ra đời thì những hiểu biết về vấn đề tự vệ thương mại của

chúng ta còn rất mơ hồ và hạn chế. Các thuật ngữ như: “tự vệ thương mại”,
“biện pháp tự vệ”… đối với chúng ta còn rất xa lạ và khó hiểu. Đã đôi lần
chúng ta nghe hay xem trên các phương tiện thông tin đại chúng các vụ việc
về áp dụng biện pháp tự vệ của một số nước trên thế giới nhưng chúng ta
thường cố gắng hiểu vấn đề một cách đơn giản hoá, chung chung và đôi khi
còn nhầm lẫn với các hình thức bảo hộ khác.Để sử dụng hiệu quả các biện
pháp phòng vệ thương mại, ngoài việc “có tình”, DN còn phải biết trình bày
“có lý”. Mà, để làm được điều đó, phải có hiểu biết sâu sắc về các quy định
phòng vệ thương mại trong WTO. Thế nhưng, một con số thống kê sơ bộ cho
thấy có tới 66% DN được hỏi thừa nhận không hiểu rõ về các nội dung cơ
bản của các Hiệp định trong khuôn khổ WTO và gần 50% DN không biết về
các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam liên quan đến ngành hàng của
mình.
Một nguyên nhân khác khiến các DN Việt Nam “ngại” các biện pháp
phòng vệ thương mại là “có vẻ liên quan đến tranh chấp”, “không muốn khơi
ra việc kiện tụng”, và điều kiện để áp dụng công cụ phòng vệ thương mại của
Việt Nam còn khá phức tạp, dường như nằm ngoài sức của DN Việt Nam
trong việc thu thập số liệu ở trong nước cũng như điều tra thông tin ở nước
ngoài.

×