Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.13 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
________
Chuyên đề triết học :
VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC VÀ CÁC
TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ

Giảng viên:
Nguyễn Cảnh Chắt
Sinh viên thực hiện:
Phan Đình Tương
Nhóm: 6
Huế, 04/2011
2
Bài làm:
Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại, giữa tâm và vật, giữa ý thức và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản
vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn
đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử
phát triển lâu dài và phức tạp của triết họ, mặt khác nó cũng là là
tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan của các triết gia và học
thuyết của họ. Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết
học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy
và tồn tại” Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất
phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào
có sau? Cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không?
Việc giải hai mặt cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các


trường phái triết học. Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết
học đã xuất hiện nhất nguyên luận khi lấy việc thừa nhận chỉ một
trong hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước và quyết
định cái kia, nghĩa là cho rằng thế giới chỉ có một nguồn gốc duy
nhất. Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm (chủ
nghĩa duy tâm, triết học duy tâm) và nhất nguyên luận duy vật
(chủ nghĩa duy vật, triết học duy vật). Chủ nghĩa duy tâm là
trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới
là ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có
trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc
nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt
đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá
trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Mặt khác, chủ nghĩa
duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật thiết với
nhau để cùng tồn tại và phát triển. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình
3
thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm
khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất
của ý thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là
phức hợp những cảm giác của cá nhân. Đại biểu là Gióocgiơ
Béccli ông là nhà triết học duy tâm chủ quan, vị linh mục người
Anh. Triết học của ông chứa đầy tư tưởng thần bí, đối lập với chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Ông dựa vào quan điểm của
các nhà duy danh luận thời trung cổ để khẳng định rằng, khái
niệm về vật chất không tồn tại khách quan, mà chỉ tồn tại những
vật thể cụ thể, riêng rẽ; sự tranh cãi về khái niệm vật chất là hoàn
toàn vô ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi thuần tuý mà thôi.
Vậy đối với triết học Béccli thì các vật thể cụ thể cảm tính được
hiểu như thế nào? Với tính cách một nhà triết học duy tâm chủ

quan, ông đưa ra một mệnh đề triết học nổi tiếng “vật thể trong
thế giới quanh ta là sự phức hợp của các cảm giác”. Thí dụ, cái
bàn, đó không phải là một vật thể hữu hình mà chỉ là do mắt ta
nhìn thấy nó có hình khối; màu sắc, hương vị của hoa quả cũng
chỉ do cảm giác của con người nhận biết. Chúng không tồn tại
thật. Nói tóm lại, theo Béccli, mọi vật thể chỉ tồn tại trong chừng
mực mà người ta cảm biết được chúng. Ông tuyên bố: tồn tại có
nghĩa là được cảm biết. Như vậy chủ nghĩa duy tâm chủ quan
cuối cùng đã đưa triết học của Béccli đến chủ nghĩa duy ngã, đến
chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan, tồn tại thật sự của sự vật, kể
cả con người, chỉ loại trừ chủ thể đang nhận thức (tức con người
có cảm giác), loại trừ cái “tôi” mà thôi. Để cố gắng tránh rơi vào
chủ nghĩa duy ngã đầy phi lí, Béccli đã chuyển từ chủ nghĩa chủ
nghĩa duy tâm chủ quan sang chủ nghĩa duy tâm khách quan. Ông
khẳng định rằng: chủ thể nhận thức thì không phải chỉ có một, khi
một vật nào đó khi không còn nhận thức bởi một chủ thể này thì
nó lại tiếp tục được nhận thức bởi các chủ thể khác. Và thậm chí
tất cả các chủ thể (con người) không còn nữa thì vật thể vẫn tồn
tại như là tổng số tư tưởng trong trí tuệ Thượng đế. Và Thượng đế
cũng là một chủ thể, nhưng tồn tại vĩnh cữu và luôn luôn đưa vào
trong ý thức những chủ thể riêng lẽ (con người) nội dung của cảm
giác.
4
Về bản chất giai cấp, triết học Béccli là phản ánh hệ tư tưởng
của giai cấp tư sản đã giành được chính quyền, rất sợ tư tưởng
tiến bộ, cách mạng. Vì vậy không phải ngẫu nhiên trong triết học
của mình, Béccli đã sử dụng phép siêu hình, chủ nghĩa cơ giới để
chống lại những tư tưởng tiến bộ trong khoa học, như chống lại
quan niệm của Niutơn về không gian như bể chứa những vật thể
trong tự nhiên; chống lại luận điểm của Lốccơ về nguồn gốc của

khái niệm vật chất và không gian.
Do vậy, triết học của Béccli là mẫu mực và là một trong những
nguồn gốc của các lí thuyết triết học tư sản duy tâm chủ quan cuối
thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan - thừa nhận tính thứ nhất của
tinh thần, ý thức những tinh thần, ý thức ấy được quan niệm là
tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và và tồn tại
độc lập với giới tự nhiên và con người. Thực thể tinh thần, ý thức
khách quan này thường được mang các tên gọi khác nhau như “ý
niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần tuyệt đối”, “lí tính thế giới”.
Đại biểu là Platôn (427- 347 TCN) ông là nhà triết học duy tâm
khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của
Platôn là “học thuyết về ý niệm”. Trong thuyết này, Platôn đưa ra
quan điểm về hai thế giới: thế giới các sự vật cảm biến là không
chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không ngừng sinh ra và
mất đi, luôn luôn thay đổi, vận động, trong chúng không có cái gì
bền vững, ổn định, hoàn thiện. Còn thế giới ý niệm là thế giới của
cái phi cảm tính, phi vật thể, là thế giới của đúng đắn, chân thực
sự cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người,
theo Platôn không phải là phản ánh các sự vật cảm biến của thế
giới khách quan, mà là nhận thức về ý niệm. Thế ý niệm có trước
thế giới các vật cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Ví dụ: cái cây,
con ngựa, nước sinh ra. Hoặc khi nhìn các sự vật thấy là bằng
nhau vì trong đầu ta đã có sẳn ý về sự bằng nhau. Từ quan niệm
trên, Platôn đưa ra khái niệm “tồn tại” và không “tồn tại”. “Tồn
tại” theo ông là cái phi vật chất, cái được nhận biết bằng trí tuệ
siêu nhiên, là cái có tính thứ nhất. Còn “không tồn tại” là vật chất,
cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Như vậy, học
5
thuyết về ý niệm và tồn tại của Platôn mang tính chất khách quan

rõ nét. Lí luận nhận thức của Platôn cũng có tính chất duy tâm.
Theo ông tri thức, là cái có trước sự vật cảm biết mà không phải
là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận các sự vật đó.
Nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính, vì linh hồn trước khi
nhập vào thể xác con người ở trần thế thì ở thế giới bên kia đã có
sẳn các tri thức. Do vậy nhận thức con người không phải phản
ánh các sự vật của thế giới khách quan, mà chỉ là quá trình nhớ
lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã lãng quên trong quá
khứ. Platôn cho rằng, những ý kiến xác thực được khơi dậy, được
hồi tưởng lại nhờ các câu hỏi đối thoại giữa loài người thì sẽ trở
thành tri thức; Platôn gọi cách thức đối thoại như vậy là phương
pháp biện chứng. Trên cơ sở đó, Platôn phân ra thành hai loại tri
thức: tri thức hoàn toàn đúng đắn, tin cậy và tri thức mờ nhạt.
Loại thứ nhất là tri niệm ý niệm, tri thức của linh hồn trước khi
nhập vào thể xác có được nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là tri thức
nhờ vào nhận thức cảm tính, ở đó lẫn lộn đúng sai và không có
chân lý.
Quan niệm lý tưởng của ông về xã hội thể hiện tập trung trong
quan niệm về nhà nước lý tưởng. Ông phê phán ba hình thức nhà
nước trong lịch sử. Một là, nhà nước của bọn vua chúa xây dựng
trên sự khát vọng giàu có ham danh vọng đưa tới sự cướp đoạt.
Hai là, nhà nước quân phiệt nhà nước của số ít kẻ giàu có áp bức
số đông, nhà nước đối lập giữa giàu và nghèo đưa tới các tội ác.
Ba là, nhà nước dân chủ là nhà nước tồi tệ, quyền lực thuộc về số
đông, sự đối lập giàu nghèo trong nhà nước này là hết sức gay
gắt. Còn nhà nước lí tưởng của mình, Platôn phân ra thành ba lớp
người làm các công việc khác nhau. Tầng lớp người thấp nhất
trong xã hội là người nông dân, thợ thủ công, thương nhân làm
các công việc đồng ruộng, thủ công và buôn bán. Tầng lớp vệ
quân làm công việc chiến tranh. Tầng lớp các nhà thông thái, các

nhà triết học thì làm chính trị gia, điều hành xã hội. Sự tồn tại và
phát triển của nhà nước lý tưởng dựa trên sự phát triển của sản
xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết
mâu thuẫn giữa các nhu cầu xã hội. Để khắc phục tình trạng phân
6
chia giàu nghèo, theo Platôn, cần xoá bỏ gia đình và sở hữu. Trẻ
em sinh ra cần được đưa vào các cơ sở giáo dục riêng, lựa chọn
những đứa trẻ khoẻ mạnh rèn luyện và nuôi dưỡng trở thành vệ
quân. Các nhà thông thái cầm quyền cũng được lựa chọn trong số
vệ quân. Sự vinh quang của nhà nước phụ thuộc vào các phẩm
chất: sự thông thái, sự dũng cảm, sự chính nghĩa và phong độ duy
trì chuẩn mục xã hội. Trong đó sự thông thái chính là tri thức cao
nhất và là niềm vinh quang của riêng nhà triết học.
Còn theo Hêgghen (1770 - 1831) cũng là một trong những nhà
biện chứng đồng thời nhà triết học duy tâm khách quan, triết học
của ông đầy mâu thuẩn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là
hạt nhân hợp lý, chứa đựng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống
triết học duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách quan của
những nguyên nhân bên trong, vốn có của sự phát triển của tự
nhiên và xã hội. Ông cho rằng khởi nguyên của thế giới không
phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”.
Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự
vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn
tại vĩnh viễn, “ý niệm tuyệt đối”, theo nhận xét của Lênin, chỉ là
một cách nói theo đường vòng, một cách nói khác về thượng đế
mà thôi. Cho nên triết học của Hêghen là sự biện hộ cho tôn giáo.
Ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử tư
duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi
và phát triển không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ
thống triết học duy tâm của mình Hêghen không chỉ trình bày các

phạm trù như chất, lượng, phủ định, mâu thuẩn…mà còn nói đến
cả các quy luật như “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”,
“phủ định của phủ định”, và quy luật mâu thuẩn. nhưng tất cả
những cái đó chỉ là quy luật vận động và phát triển của bản thân
tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong hệ thống triết học của của
Hêghen, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ
thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự
nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của ý
niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ
nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai, do ý niệm tuyệt đối và tinh thần
7
thế giới sinh ra và quyết định, là một “sự tồn tại khác” của tinh
thần sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy, ý niệm tuyệt đối
hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai
đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghen gọi là “tinh thần
tuyệt đối”.
Ngoài Gióocgiơ Béccli và Hêgghen còn nhiều nhà triết học
thuộc nhiều trường phái khác nhau nhưng họ đều là những nhà
triết học theo chủ nghĩa duy tâm như : Plato, George Berkeley,
Arthur Collier, Immanuel Kant, Fichte ….
Theo Palato một phạm trù là mọi thứ cùng có một tính chất cụ
thể nào đó. Ví dụ, bức tường, mặt trăng và một tờ giấy trắng đều
có màu trắng; "trắng" là phạm trù mà tất cả những thứ gì màu
trắng cùng chia sẻ. Plato lập luận rằng chính các phạm trù,
các hình thức hay các ý niệm Plato là có thật, chứ không phải
từng vật cụ thể. Do quan niệm này khẳng định rằng các thực thể
tinh thần đó là "có thực", nên nó được gọi là "chủ nghĩa hiện thực
Plato (điều này rất dễ gây nhầm lẫn); theo nghĩa này, "chủ nghĩa
hiện thực" đối lập với thuyết duy danh (nominalism) - quan niệm
rằng các trừu tượng hóa trong trí óc chỉ là những các tên không có

sự tồn tại độc lập. Tuy nhiên, nó là một hình thức của chủ nghĩa
duy tâm vì nó đặt vị thế của ý niệm về các phạm trù lên cao hơn
so với những sự vật vật lý.
Còn với George Berkeley tri thức của ta phải được dựa trên
các nhận thức của ta. Điều đó dẫn ông tới kết luận rằng đằng sau
nhận thức của ta thật sự không có đối tượng thực "khả tri" nào,
rằng cái "có thực" là chính nhận thức. Tư tưởng đó được đặc tả
trong khẩu hiệu của Berkeley: "Esse est aut percipi aut percipere"
hay "Tồn tại nghĩa là nhận thức hay được nhận thức", có nghĩa là
một thứ gì đó chỉ tồn tại, theo cách cụ thể mà nó được xem là tồn
tại, khi nó đang được nhận thức (nhìn thấy, sờ thấy, ) bởi một
chủ thể. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan hay chủ nghĩa duy tâm giáo
điều này đã dẫn đến việc ông đặt toàn bộ sức nặng của sự minh
giải lên các tri giác của ta. Điều này để lại cho Berkeley một vấn
đề, tương tự như với các hình thức khác của chủ nghĩa duy tâm,
đó là giải thích tại sao mỗi người trong chúng ta đều có vẻ có các
8
tri giác ít nhiều giống nhau về một đối tượng. Ông đã giải quyết
vấn đề này bằng cách đưa Chúa trời vào can thiệp với vai trò
nguyên nhân trực tiếp của mọi tri giác của ta.
Cũng như George Berkeley nhà triết học Arthur Collier cho
rằng vật chất, vì chỉ là nguyên nhân cho tấm hình đại diện đó, là
không thể tưởng tượng được và do đó không là gì đối với chúng
ta. Một thế giới bên ngoài không có liên hệ gì với một người quan
sát, trong vai trò chủ đề tuyệt đối, không tồn tại trong các nhận
thức của con người. Vì chỉ là một biểu lộ của tâm trí, vũ trụ
không thể nào tồn tại dưới dạng chúng ta đang thấy nếu không có
tâm trí để lãnh hội nó. Như vậy Arthur Collier cũng là một trong
những nhà triết học duy tam chủ quan.
Còn Immanuel Kant thì cho rằng khi ta nhận thức thế giới, tâm

thức ta định hình thế giới theo không gian và thời gian. Kant chú
trọng vào quan niệm rút từ chủ nghĩa kinh nghiệm Anh (và các
triết gia của trường phái đó như Locke, Berkeley và Hume) cho
rằng tất cả những gì ta có thể biết là các ấn tượng trí óc, hoặc
các hiện tượng, mà thế giới bên ngoài (có thể tồn tại hoặc không
tồn tại) tạo ra một cách độc lập trong tâm thức ta; tâm thức ta
không bao giờ có thể nhận thức thế giới bên ngoài một cách trực
tiếp. Kant bổ sung rằng tâm thức không phải là một tấm bảng
trống trơn (ngược lại với John Lock) mà nó được trang bị các
phạm trù để sắp xếp tổ chức các ấn tượng giác quan. Kiểu chủ
nghĩa duy tâm này của Kant mở ra một thế giới của các trừu
tượng hóa (nghĩa là, các phạm trù phổ quát mà tâm thức sử dụng
để hiểu về các hiện tượng) để cho lý tính khám phá, nhưng trái
ngược với chủ nghĩa duy tâm Plato ở chỗ nó khẳng định sự không
chắc chắn về một thế giới không thể biết được ở bên ngoài tâm
thức của chính ta. Ta không thể tiếp cận vật tự thân (tiếng
Đức: Ding an Sich) nằm ngoài thế giới tâm thức của ta. (Chủ
nghĩa duy tâm của Kant được gọi là chủ nghĩa duy tâm siêu
nghiệm.)
Với Johann Fichte phủ nhận vật tự thân của Kant, ông cho rằng
ý thức tự xây dựng cơ sở cho mình, rằng cái tôi tinh thần của bản
thân không dựa vào thế giới bên ngoài, và rằng giả thiết về một
9
vật bên ngoài thuộc bất cứ kiểu nào cũng giống như thừa nhận về
một vật chất có thực. Ông là người đầu tiên thử xây dựng một lý
thuyết về tri thức mà không dựa trên bất cứ một phỏng đoán nào,
trong đó không có cái gì bên ngoài tư duy được giả thiết là tồn tại
bên ngoài phân tích khởi đầu về khái niệm. Nhờ đó nhận thức có
thể đặt nền móng chỉ trên chính nó, và không giả định bất cứ điều
gì mà không suy dẫn từ đó trước nhất. (Quan điểm này khá tương

tự với chủ nghĩa duy tâm thực tế (actual idealism) của Giovanni
Gentile, chỉ khác ở chỗ lý thuyết của Gentile tiến xa hơn, đến chỗ
thậm chí phủ nhận cả cơ sở cho một bản ngã hay cái tôi được tạo
ra từ tư duy.)

Ngược lại, chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất
phát từ quan điểm bản chất của thế giới là vật chất, vật chất là
tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và
quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát
triển của khoa học và thực tiễn, thường gắn với lợi ích của giai
cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Nó là kết quả của quá trình
đúc kết khái quát kinh nghiệm đề vừa phản ánh những thành tựu
mà con người đã đạt được trong từng giai đoạn lịch sử, vừa định
hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ hoạt động trên nền tảng
của những thành tựu ấy.
Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của thực hữu luận với
quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn
tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật
chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất.
Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự
nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát
được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân
tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại
của cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật
thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các
học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa
nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ
nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy
10
tâm. Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa duy vật đã trải qua 3 giai

đoạn cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật chất
phác ra đời vào thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp.
Hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật thể hiện khá rõ ở
các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Tuy những quan
điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình có tính chất kế thừa từ
những quan điểm của chủ nghĩa duy vật chất phác nhưng nó có sự
phát triển hơn do cơ học cổ điển thời kỳ này đạt được những
thành tựu rực rỡ. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa
duy vật biện chứng đã ra đời mà C.Mác và Ăngghen là những
người xây dựng và Lênin là người hoàn thiện và bổ sung.
Trước hết ta xét hình thức thứ nhất của chủ nghĩa duy vật là
Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác,
ngây thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ như ở Ấn Độ,
Trung Hoa, Hylạp. Về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống
lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo;
nhưng về mặt phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa học, bởi
nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh
nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái
quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Vì, quan niệm về thế
giới là vũ trụ, là vạn vật, vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính
của vật thể cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác
nhưng nó phụ thuộc vào vật chất.
Ănghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy,
ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà
triết học Hy lạp thời cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng
quan niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại
không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng
thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng

đắn nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa vào quan
sát trực tiếp, chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa
học chuyên ngành vì lúc đó chưa phát triển.
11
Tiêu biểu cho chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa
duy vật chất phác, ngây thơ là Đêmôcrít (460 – 370 TCN). Ông là
nhà Triết học duy vật cổ đại nhất trong thế giới cổ đại. Ông là
người hiểu biết sâu rộng rất nhiều lĩnh vực: Triết học, toán học,
đạo đức học, sinh vật học… là học trò và người kế tục phát triển
quan điểm của Lơxip. Nổi bật trong triết học duy vật của ông là
học thuyết về nguyên tử. Đêmôcrit cho rằng nguyên tử không
nhìn thấy được, không âm thanh, màu sắc và mùi vị. Chúng đồng
nhất với nhau về chất nhưng khác nhau về hình thức, thứ tự và tư
thế. Ông quan niệm nguyên tử là vô hạn về lượng và hình thức.
Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi những nguyên tử do sự kết hợp
giữa chúng với nhau theo một trật tự và thế nhất định. Sự biến
đổi vật chất là do sự thay đổi trình tự sắp xếp của những nguyên
tử tạo thành còn bản thân nguyên tử thì không thay đổi. Nguyên
tử luôn vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt chẽ
giữa vật chất và vận động. Vận động là vốn có của nguyên tử chứ
không phải được đưa từ ngoài vào. Nhưng ông chưa thấy được
nguồn gốc của vận động và vận động không chỉ là sự di chuyển
trong chân không của các nguyên tử. Dựa vào thuyết nguyên tử,
Đêmôcrit thừa nhận sự ràng buộc lẫn nhau theo quy luật nhân quả
tính khách qan trong tính tất yếu của sự vật, hiện tượng tự nhiên.
Đó là đóng góp quan trọng của Đêmôcrit vào triết học duy vật.
Song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi ngẫu nhiên là một
hiện tượng không có nguyên nhân. Đêmôcrit bác bỏ quan nhiệm
về sự sản sinh ra sự sống và con người của thần thánh. Theo ông
sự sống là kết quả của quá trình biến đổi dần đần từ thấp đến cao

cảu tự nhiên. Sinh vật đầu tiên sống ở dưới nước, sau đó chuyển
lên cạn, cuối cùng con người được ra đời. Ông coi cái chết là sự
phân tích của các nguyên tử tạo nên xác và của những nguyên tử
cấu tạo lên tinh hồn chứ không phải linh hồn rời khởi thể xác.
Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang tính mộc mạc song nó giữ
vai trò rất quan trọng trong việc chống các quan điểm duy tâm và
tôn giáo về tính bất tử của linh hồn người. Đêmôcrit đã có công
lao to lớn trong xây dựng lý luận nhận thức giải quyết một cách
duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác là
12
điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong việc nhận thức thế
giới.
Ông cho rằng đối tượng của nhận thức là vật chất, là thế giới
xung quanh con người và nhờ sự tác động của đối tượng nhận
thức vào con người nên con người mới nhận thức được. Đêmôcrit
phân chia nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý.
Nhận thức mờ tối do các giác quan đem lại còn nhận thức chân lý
là do sự phân tích sâu sắc về sự vật để nắm bắt bản chất bên trong
của nó.Triết học duy vật của Đêmôcrit đã đóng vai trò quan trọng
trong chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng sự tồn tại của thần chẳng
qua là sự cách hoá những hiện tượng của tự nhiên hay những
thuộc tính của con người chẳng hạn thần Dớt là sự nhân cách hoá
mặt trời, thần ATêna là sự nhân cách hoá thuộc tính của con
người.
Khái niệm nguyên tử được xây dựng trên cở sở các khái niệm
về “tồn tại” và “không tồn tại”. Theo ông “tồn tại” là cái được xác
định, cái đa dạng, cái có ngoại hình. Độc lập với cái “tồn tại” là
cái “không tồn tại” hay cái “trống rỗng”. Cái trống rỗng là cái
không xác định, cái vô hình, bất động vô hạn. Nó không ảnh
hưởng gì đến cái vật thể nằm trong nó, nhờ nó mà các vật thể có

thể vận động được. Cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không
chứa đựng trong nó một sự trống rỗng nào để cho phép phân chia
nó nhỏ hơn nữa, được gọi là nguyên tử. Vì vậy, nguyên tử là hạt
vật chất không thể phân chia được nữa, hoàn toàn nhỏ bé và
không thể cảm nhận bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu không
thay đổi, trong lòng nó không có cái gì xảy ra nữa. Nguyên tử có
vô vàn hình dạng. Theo quan niệm của Đêmôcrít các sự vật là do
các nguyên tử liên kết lại với nhau tạo nên. Tính đa dạng của
nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự vật. Nguyên
tử tự thân, không vận động, nhưng khi kết hợp với nhau thành vật
thể thì làm cho vật thể và thế giới vận động không ngừng. Trong
lý luận nhận thức, khái niệm linh hồn được Đêmôcrít cũng như
các nhà duy vật cổ đại hiểu như là hoạt động tâm linh. Linh hồn là
tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt thế giới hữu sinh và thế giới vô
13
sinh. Linh hồn, theo ông cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo
từ các nguyên tử đặc biệt có hình cầu, linh động như ngọn lửa, có
vận tốc lớn, luôn luôn động và sinh ra nhiệt làm cho cơ thể hưng
phấn và vận động. Do đó linh hồn có một chức năng quan trọng
đem lại cho cơ thể sự khởi đầu vận động. Trao đổi chất với môi
trường bên ngoài cũng là một chức năng của linh hồn và được
thực hiện thông qua hiện tượng thở của con người. Như vậy linh
hồn là không bất tử, nó chết cùng thể xác. Về các dạng nhận thức
của con người, Đêmôcrít phân thành nhận thức do các cơ quan
cảm giác đem lại và nhận thức nhờ lý tính. Nhận thức đem lại do
cơ quan cảm giác là loại nhận thức mờ tối, chưa đem lại chân lý.
Còn nhận thức lý tính là nhận thức thông qua phán đoán và cho
phép đạt chân lý, vì nó chỉ ra cái khởi nguyên của thế giới là
nguyên tử, tính đa dạng của thế giới là do sự sắp xếp khác nhau
của các nguyên tử. Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít

trình bày các quan điểm của mình trên lập trường tư tưởng của
giai cấp chủ nô dân chủ. Ông coi chế độ nô lệ là hợp đạo lý, cần
sử dụng nô lệ như các bộ phận của thân thể. Đêmôcrít đã có
những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người,
theo ông không phải ở lời nói mà việc làm. Con người cần hành
động có đạo đức. Còn hạnh phúc của con người là ở khả năng trí
tuệ, khả năng tinh thần nói chung. Đỉnh cao của hạnh phúc là trở
thành nhà thông thái, thở thành công dân của thế giới.

Mặt khác đối với Sam Khuya : vào thời gian đầu, triết lý
Samkhuya không thừa nhận "tinh thần vũ trụ tối cao" phủ nhận sự
tồn tại của thần. Ngược lại nó khẳng định thế giới này là thế giới
vật chất. Đã giải thích mọi vật của thế giới là kết quả của sự thống
nhất ba yếu tố. Đó là Sativa (sự trong sáng; Tamas (tính ỳ thụ
động) và Rajas (kích thích động). Khi 3 yếu tố này ở trạng thái
cân bằng thì vật chất đầu tiên chưa biểu hiện nhưng khi cân bằng
bị phá vỡ thì sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Tuy nhiên quan niệm về vật chất của phái Samkhuya còn có
nhiều hạn chế. Họ cho ràng dạng vật chất đầu tiên là không nhận
14
biết được và giải thích về hình thành vạn vật còn chưa đúng đắn
đó là quan niệm về sự hình thành thế giới hữu hình đa dạng từ thế
giới vô hình, đồng nhất.
Còn với Nyaya: ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất
rất phong phú đa dạng bao gồm nhiều sự vật, hiện tượng. Thế giới
này tồn tại trong không gian do các hạt nhỏ cấu tạo nên và được
gọi là nguyên tử. Nguyên tử của thực thể này khác nguyên tử của
thực thể kia ở chất lượng, hình dạng và cách kết hợp. Các vật thể
chỉ tồn tại nhất thời, thường xuyên thay đổi và chuyển hoá. Đây
quả là một quan niệm thiên tài hết sức đúng đắn trong điều kiện

khoa học tự nhiên thời bấy giờ chưa phát triển. Đã để lại một tư
tưởng quý báu cho nhân loại mà các nhà duy vật sau này tiếp tục
kế thừa và phát huy.
Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của phái Nyaya còn hạn chế ở
chỗ coi thế giới vật chất tạo nên bởi 4 yếu tố đất, nước, lửa,
không khí, cho rằng nguyên tử không biến đổi, không chia cắt
được. Âu cũng là do hạ chế về khoa học tự nhiên lúc bấy giờ.
Đối với Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh
lớn của Phương Đông cổ - trung đại. Cùng với những phát minh
có tính chất vạch đường trên mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, y
học, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều hệ thống triết học
lớn. Nhìn một cách tổng thể, các trường phái triết học cổ đại
Trung Quốc đa phần theo khuynh hướng duy tâm, tuy nhiên vẫn
có một số tư tưởng duy vật tiến bộ có ý nghĩa to lớn mà điển hình
là Mạc Gia. Mạc Gia đầu tiên đề xuất quan hệ giữa thực và danh
như một phạm trù triết học. Chủ trương "lấy thực đặt tên để nêu
ra cái thực", "cái dùng để gọi tên, cái được gọi lên là thực". Điều
đó có nghĩa khách quan là tồn tại thực. Đồng thời, Mạc Gia cho
rằng để đánh giá đúng sai trong thực tế khách quan phải dựa vào
3 tiêu chuẩn: trước hết lập luận phải có căn cứ, thứ hai phải được
chứng minh và thứ ba lập luận cần có hiệu quả. Thuyết "tam
biểu" này của Mạc Gia thể hiện thuyết phản ánh của chủ nghĩa
duy vật chất phác, các học thuyết cùng thời khó sánh kịp. Về sau
thời Hậu Mạc đã phát triển khía cạnh duy vật lên một tầm cao
15
mới. Họ cho rằng sự tồn tại của vật chất là bất diệt, hình thái tồn
tại của sự vật thì có thay đổi, thời gian, không gian liên hệ mật
thiết với sự vận động của sự vật. Vật thể vận động trong không
gian và thời gian và muốn nhận thức được thế giới, trước hết nhờ
các khí quan cảm giác (tai, mũi, miệng, mắt, thân) đồng thời để

nhận thức sâu sắc sự vật, con người phải nhờ tâm, tức là hoạt
động tư duy là quá trình phân tích so sánh, tổng hợp trừu tượng
hoá để đạt đến ý nghĩa của nó. Vì vậy họ đã làm rõ mối quan hệ
giữa cảm giác và tư duy. Các triết gia hậu Mạc còn phân ra tri
thức thành 3 loại: "Văn tử" là sự hiểu biết nhờ sự truyền thụ của
người khác, "Thuyết trị" là kết quả do sự hoạt động suy luận đem
lại, "Thân trị" là kết quả do sự quan sát, đúc kết kinh nghiệm đem
lại.
Những quan điểm duy vật của phái Mạc Gia đã hơn hẳn
những phái khác về nhận thức lý luận. Hệ thống lôgic của họ đã
tấn công vào thuyết hoài nghi và bất khả thi của phái Trang - Chu.
Đồng thời phê phán khía cạnh duy tâm trong học thuyết của phái
Công Tôn Long.
Tuy vậy, học thuyết của Mạc Gia vẫn không tránh khỏi một
số sai lầm như xem trời là đấng anh minh có quyền lực tối cao,
trời tạo ra muôn loài. Mạc Tử còn tin có cả quỉ thần giám sát hành
vi con người. Dù vậy, những tư tưởng của Mạc Gia đã khiến cho
thế hệ sau này phải ngưỡng mộ bởi tính đúng đắn tiến bộ của nó
trong điều kiện hết sức lạc hậu như vậy. Cũng có lẽ vì thế mà học
phái Mạc Gia đã không có chỗ đứng trong tư tưởng của giai cấp
phong kiến và bị tuyệt diệt vào đời Tần hán. Đó là Chủ nghĩa duy
vật Trung Hoa cổ đại.
Với phương tây cũng xuất hiện Chủ nghĩa duy vật Phương
Tây cổ đại và được chia thành nhiều trường phái khác nhau trong
đó triết học Hy Lạp cổ đại là một đại diện tiêu biểu.
Thời cổ đại, các ngành khoa học của Hy Lạp đã rất phát triển,
đặc biệt thiên văn, toán học, y học… Triết học duy vật nhờ đó
phát triển rực rỡ, chứa đựng hầu hết các nội dung cơ bản của nó.
Trường phái tiêu biểu cho triết học Hy lạp là Hêraclit .
16

Hêraclit (530-470 TCN)Ông cho rằng thế giới muôn vật không
do thần thánh nào tạo nên, cũng không phải con người tạo ra mà
là do ngọn lửa vĩnh viễn, linh động nhen nhóm lên. Mọi sự vật
luôn ở trạng thái vận động, biến đổi và chuyển hoá qua lại. Ông
nêu lên tư tưởng hiện vật đều trôi đi, hiện vật đều biến đổi "người
ta không thể tắm 2 lần trên 1 dòng sông". "Mặt trời luôn luôn
luôn đổi mới và vĩnh viễn đổi mới"
Theo ông nguồn gốc của mọi sự vật thay đổi là sự thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật. Mọi vật đều nảy
nở trong quá trình đấu tranh và sự vận động, phát triển liên tục
của sự vật tuân theo các yếu tố khách quan, qui luật quyết định.
Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhận thức là phản ánh
hiện tượng khách quan. Ông chia quá trình nhận thức ra làm 2
giai đoạn cảm tính và lí tính. Hai giai đoạn này có quan hệ chặt
chẽ với nhau, không thể chỉ có một giai đoạn tồn tại độc lập.
Về hạn chế: Hêraclit đã quan niệm lửa là nguồn gốc tạo ra vạn
vật. Mọi vật trao đổi với lửa và lửa trao đổi với tất cả. Mọi sự
biến hoá của sự vật dựa trên sự chuyển hoá của chúng thành
những dạng vật chất đối lập với bản thân chúng. "Nước sinh ra từ
cái chết của đất, không khí sinh ra từ cái chết của nước, lửa sinh
ra từ cái chết của không khí.
Đến thời Trung Cổ Phục Hưng và cận đại: đây là những thời
kỳ mà chủ nghĩa duy vât Tây âu có nhiều thắng lợi rực rỡ.
Đối với Franxi Bêcơn (1561 - 1621): Là người sáng lập triết
học duy vật Anh. Becơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của Thế
giới vật chất khoa học không biết cái gì khác ngoài thế giới vật
chất, ngoài giới tựnhiên ông cho rằng con người cần phải thống
trị làm chủ tựnhiên. Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc
vào hiểu biết của con người.
Theo BêCơn, nhận thức tốt nhất là đi từ cái riêng lẻ đến cái

chung, cái trừu tượng. Tri thức chỉ có thể đạt được bằng cách giải
17
quyết những quan hệ nhân quả hiểu biết đúng là hiểu biết bằng
nguyên nhân.
Song chủ nghĩa duy vật của Bêcơn là duy vật siêu hình. Ông
quy sự vận động của vật chất thất thành sự lặp lại vĩnh viễn
những hình thức bất biến. Ông cũng chưa vượt qua được bức
tường tôn giáo và nhà thờ để hoàn toàn tự do với những tư tưởng
khoa học và biết học đặc sắc của mình.
Đối với hình thức cơ bản thứ hai là chủ nghĩa duy vật siêu hình
đại biểu là Lútvích Phoiơbắc (1804 – 1872) ông là một nhà nhân
vật kiệt suất trước Mác, là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân
chủ. Ông đã có công lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm
của Hêgghen cũng như chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung,
khôi phục vị trí xứng đáng của triết học duy vật. Khi chống lại
luận điểm duy tâm của Hêgghen coi giới tự nhiên là “tồn tại
khác” của tinh thần, Phoiơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất,
giới tự nhiên tồn tại ngoài con người không phụ thuộc vào ý thức
của con người, là cơ sở sinh sống của con người. Giới tự nhiên
không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại và vận động nhờ những cơ sở
bên trong nó.Triết học của ông mang tính chất nhân bản. Nó
chống lại nhị nguyên luận về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác,
ông coi ý thức tinh thần cũng là một thuộc tính đặc biệt của vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người. Từ đó cho phép khẳng định
mối quan hệ khăng khít giữa tồn tại và tư duy. Phoiơbắc không
chỉ chống lại chủ nghĩa duy tâm, mà với triết học nhân bản của
mình ông còn đấu tranh chống những quan niệm duy vật tầm
thường quy các hiện tượng tâm lý, tinh thần về các quá trình lý
hóa, không thấy sự khác nhau về chất giữa chúng, chẳng hạn như
coi óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật. Phoi-ơ-bắc đấu

tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên
chúa, đặc biệt quan niệm về thượng đế. Trái với các quan niệm
truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng thượng đế tạo ra
con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra thượng
đế. Khác với Hê-ghen nói đến sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối,
18
Phoi-ơ-bắc nói đến sự tha hóa của bản chất con người vào
thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con người là
muốn hướng tới cái chân, cái thiện, nghĩa là hướng tới những cái
gì đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con
người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình
vào hình tượng thượng đế; từ đó Phoi-ơ-bắc phủ nhận mọi thứ tôn
giáo thần học về một vị thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo
ra con người, chi phối cuộc sống của con người. Ông nói rằng bản
tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy,
thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên
cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con
người. Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thương giữa con
người thành mối quan hệ chi phối mọi mối quan hệ xã hội khác,
thành lý tưởng xã hội. Ông còn khuyên mọi người rằng : “Hãy
yêu nhau đi, hãy ôm lấy nhau mà hôn đi”.
Hình thức cơ bản thứ ba và cũng được xem là hình thức cơ
bản cuối cùng của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện
chứng đại biểu là Mác, Ăngghen, Lênin. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác –
Anghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó
được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết
triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học
đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời
đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất

phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và
nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa
học và phương pháp nhận thức khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một
công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo
hiện thực đó.
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu
quan trọng nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy
vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã
hội và tư duy con người.
19
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và ph-
ương pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự
thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép
biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác -
Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà
còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định hướng cho hoạt
động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất
phát điểm của phương pháp luận.
Triết học Mác – Lênin còn được coi là hệ thống các nguyên lý,
phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó
trong việc nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu con người. Cho nên
triết học Mác – Lênin còn được gọi là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nghiên cứu triết học Mác –
Lênin thực chất là việc khẳng định ý nghĩa bước ngoặc cách
mạng do Mác thực hiện trong lịch sử triết học và được Lênin bổ
sung phát triển thêm. Triết học Mác – Lênin không chỉ giải thích
về thế giới vật chất và vai trò con người về mặt lí luận mà chủ yếu

là sự vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn xã hội để khẳng định
vai trò của triết học đối với đời sống xã hội. Sự hình thành và phát
triển của phép biện chứng duy vật Mác – Lênin đã bao hàm sự
thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa
học. Sự hình thành những quan điểm duy vật lịch sử của triết học
Mác – Lênin được coi là cơ sở lí luận về mặt thế giới quan duy
vật và phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử, nghiên
cứu con người. Đó cũng là việc khẳng định sản xuất vật chất được
coi là cơ sở đối với sự tồn tại, vận động phát triển của xã hội,
khẳng định con người là chủ thể của lịch sử, khẳng định quần
chúng nhân dân là lực lượng sang tạo chân chính của lịch sử,
đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định tồn tại của xã hội, ý thức
xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Triết học Mác – Lênin giải quyết mối quan hệ triết học và khoa
học hiện đại trên cơ sở nghiên cứu của triết học. Song, nó cũng là
20
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho
sự hoạt động của đảng cộng sản trong quá trình đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân thế giới, và quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phư-
ơng pháp luận thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác
trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ
đại". Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết
học và khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự
phát triển của triết học. Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem lại
thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển
khoa học.
Chủ nghĩa duy vật tầm thường đại biểu là Buykhơnơ,
Môletsốt, phôgtơ, không tìm thấy được sự khác biệt giữa vật chất

và ý thức, xem ý thức cũng là một dạng vật chất, coi tư tưởng đối
với óc giống như mật đối với gan hay là nước tiểu đối với thận,
chủ nghĩa duy vật kinh tế, coi kinh tế là cái duy nhất quyết định
sự phát triển của xã hội, trong khi đó thực ra kinh tế chỉ quyết
định sự phát triển của xã hội khi xét đến cùng và cũng không phải
là một nhân tố quyết định duy nhất.
Ngoài ra còn có Chủ nghĩa duy vật Kitô giáo, Chủ nghĩa duy
vật văn hóa, Chủ nghĩa duy vật biện chứng , Chủ nghĩa duy
vật lịch sử, Chủ nghĩa duy vật tiêu trừ , Chủ nghĩa duy vật
cách mạng, Chủ nghĩa duy vật Pháp, chủ nghĩa duy vật hoàn
nguyên / Thuyết hoàn nguyên hay Chủ nghĩa duy vật
Descartes tất cả đều có quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được
thực sự coi là tồn tại là vật chất.
Trả lời mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học cũng đã
xuất hiện nhị nguyên luận khi lấy việc thừa nhận vật chất và ý
thức là hai nguyên thể song song tồn tại, không có cái nào trước,
chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới, mà Đêcáctơ (1596-1650)
là một nhà khoa học, đồng thời là một nhà triết học lớn của Pháp
và châu âu. Ông được đánh giá là một trong những người sáng lập
21
nên nền triêt học của thời đại mới chống lại tôn giáo, chống lại
chủ nghĩa kinh viện và cũng xây dựng tư duy mới giúp cho việc
nhgiên cứu khoa học-đề ra phương pháp mới trong vấn đề nhận
thức:”phương pháp thực nghiệm”(emperism).Học thuyết triết học
của ông toát lên tinh thần duy lý.Có thể chia triết học của ông
thành hai bộ phận là siêu hình học và khoa học (vật lý học).Trong
siêu hình học, Đêcác tơ là nhà nhị nguyên luận ngã về phía duy
tâm; nhưng trong khoa học ông lại là nhà duy vật siêu hình máy
móc nổi tiếng.
Siêuhìnhhọc;

Trong siêu hình học của Đêcáctơ nổi bật bởi những tư tưởng sau:
“Nghi ngờ phổ biến”:
Theo Đêcáctơ, triết học phải bàn về khả năng và phương pháp
đạt dược tri thức đúng đắng, vì vậy, nhiệm vụ trước mắt của nó là
khắc phục chủ nghĩa hoài nghi,và sau đó là xây dựng các nguyên
tắc, phương pháp nền tảng để giúp cho các nghành khoa học
khám phá ra các qui luật của giới tự nhiên, xây dựng các chân lý
khoa học nhằm chinh phục giới tự nhiên. Xây dựng các chân lý
khoa học nhằm chinh phục giới tự nhiên, phục vụ lợi ích con
người. Như vậy, Đêcáctơ đã tự đặt cho mình nhiệm vụ là phải xây
dựng một triết học mới - triết học gắn liền với khoa học nhằm làm
chủ tư duy, nâng cao trình độ lý luận cho con người. Nếu Bêcơn
cho rằng, cơ sở của chân lý là cảm tính, và để nhận thức đúng đắn
cần phải tẩy rửa các ảo tưởng thì Đêcáctơ chủ trương rằng cơ sở
của chân lý là lý tính, và để nhận thức đúng cần phải nghi ngờ
phổ biến, tức nghi ngở mang tinh phương pháp luận đễ không
mắc sai lầm vàcó được niềm tin chắc chắn trong nhận thức thi
Đêcáctơ cho rằng, để đạt được chân lý chúng ta cần phải nghi ngờ
mọi cái, kể cả cái mà người ta cho là chân lý.Với nguyen tắc nhgi
ngờ trên, Đêcáctơ đề cao tư duy lý tính và coi thường kinh
nghiệm, cảm tính trong hoạt động nhận thức; vì vậy, ông đã đặt
nền móng cho chủ nghĩa duy lý thời cận đại. Theo ông, mọi cái
tồn tai chỉ có thể trở thành chân lý khi chúng đuợc đưa ra phán
xét dưới ”toà án” của lý tính nhằm tự bào chữa cho sự tồn tại của
mình. Nhgi ngờ phổ biến, vì vậy là cơ sờ phương pháp luận của
22
triết học Đêcáctơ.
“Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”:Dù dựa trên nguyên tắc nghi ngờ
phổ biến, nhưng Đêcáctơ không đi đến chủ nghĩa hoài nghi mà
bác bỏ nó và xây dựng nguyên lý cơ bản của toàn bộ hệ thống

siêu hình học duy lý của mình – nguyên lý “tôi suy nghĩ, vậy tôi
tồn tại”. Tư tưởng này bộc lộ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của
Đêcáctơ vì ông đã lấy tư tưởng, lấy suy nhgĩ của chủ thể làm khởi
điểm của sự tồn tại, nó đề cao vai trò tích cực của con người đối
với thế giới , xem con người là trung tâm của các vấn đề triết
học.Dựa vào nguyên lý trên, Đêcáctơ đã xây dựng toàn bộ hệ
thống siêu hình học của mình. Đối với ông, siêu hình học phải là
học thuyết chặt chẽ về Thượng đế, về giới tự nhiên và con người,
để từ đó rút ra các nguyên tắc giúp chỉ đạo hoạt động của con
người - hoạt động nhận thức của linh hồn lý tính.Lý luận về
Thượng đế, giới tự nhiên và con người: Nội dung chủ yếu trong
lý luận về Thượng đế là các chứng minh của ông về sự tồn tại của
Thượng đế.Theo ông, Thượng đế thực sự tồn tại, bởi vì mọi dân
tộc, mọi con người đều nhgĩ về Thượng đế.Hơn nữa, sự tồn tại
của Thượng đế là cái đảm bảo sự tòn tại chắc chắn của giới tự
nhiên cũng như sự tồn tại của vạn vật sinh tồn trong nó.Giới tự
nhiên chỉ có thể được tạo thành từ hai thực thể tồn tại độc lập
nhau: thực thể tinh thần phi vật chất và thực thể vật chất phi tinh
thần.Riêng con người là một thực thể đặc biệt được tạo thành từ
hai thưc thể trên, là bậc thang trung gian giữa Thượng đế và hư
vô.Lý luận về linh hồn,nhận thức và phương pháp luận nhận thức:
Theo Đêcáctơ: Linh hồn con người không chỉ bao gồm lý trí mà
còn có cà ý chí nữa.Lý trí mang lại khả năngnhận thức sáng suốt,
đúng đắn. Ý chí mang lại khả năng chọn lựa, phán quyết.Chính
do khả năng lớn của mình mà ý chí có khả năng dẫn dắt linh hồn
sa vào sai lầm. Hoạt động bản chât của linh hồn là nhận thức,
nhận thức, theo Đêcáctơ,là quá trình linh hồn lý tính xâm nhập
vào chính mình để khám phá ra tư tưởng bẩm sinh chứa đựng
trong mình và sử dụng chúng để tiếp cận hế giới. Trực giác –
năng lực linh cảm của linh hồn lý tính mang lại những linh cảm rõ

ràng, rành mạch, hiển nhiên là hình thức nhận thức tối cao khám
23
phá ra các tư tưỏng bẩm sinh đó. Ông coi lý trí khúc chiết chỉ
nhận thức được chân lý khi nó dựa vào trực giác như là điểm khởi
đầu và hình thức hoạt động trí tuệ cao nhất của mình để suy nghĩ
một cách rõ ràng, rành mạch những tưởng trong nó và do nó sinh
ra, hay nắm lấy tư tưởngvề các sự vật có thể khẳng định hay phủ
địng.Bản thân lý trí khúc chiết tự nó không khẳng đinh hay phủ
định điều gì cả nên nó không bao giờ mắc sai lầm. Các nguyên
tắc phương pháp luận nhận thức: có bốn nguyên tắc phương pháp
luận nhận thức là:Một là, chỉ coi chân lý những gì rõ ràng, rành
mạch, không gợn một chút nghi ngờ nào cả (nhờ vào trực giác).
Hai là, phải phân chia đối tượng phức tạp thành các bộ phận đơn
giản cấu thành để tiện lợi trong việc nghiên cứu. Ba là, quá trình
nhận thức phải xuất phát từ những điều đơn giản, sơ đẳng nhất
dần dần đến những điều phức tạp hơn.Bốn là, phải xem xét toàn
diện mọi dữ kiện, tài liệu để không bỏ sót một cái gì trong quá
trình nhận thức.Tóm lại, quá trình nhận thức đúng đắn phải dựa
vào năng lực trực giác của linh hồn lý tính để khám phá ra những
tri thức bẩm sinh chứa sẵn trong nó. Sau đó, linh hồn lý tính sử
dụng hiệu quả tư duy phân tích một cách toàn diẹn và phép suy
diễn hợp lý (diễn dịch toán học) để xây dựng mọi tri thức khoa
học lý thuyết; đồng thời, qua đó mà hoàn chỉnh lý trí khúc chiết
để phát triển chủ nghĩa duy lý, khoa học.
Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học cũng đã xuất
hiện đa nguyên luận. thuyết đa nguyên lại chỉ thừa nhận sự tồn
tại của nhiều nguyên thể khác biệt, độc lập với nhau trong thế
giới, thế giới được hợp thành bởi nhiều bản nguyên mà Lépnít
người đức là một đại biểu. Ông đã dựa vào toán học để đưa ra học
thuyết của mình. Ông phát biểu rằng: Chúng ta đều biết rằng,

nhiều nhà triết học duy tâm thường khẳng định tư duy của con
người không có khả năng đưa ra các chân lý khách quan. Song,
trên thực tế họ lại luôn minh chứng cho nhận thức luận duy tâm
của mình bằng cách sử dụng hệ thống ký hiệu vàcông thức toán
học do các nhà toán học đưa ra. Giải thích việc sử dụng hệ thống
24
này, các nhà triết học duy tâm cho rằng, đối tượng của toán học
mang tính trừu tượng cao, trong khi quy luật phát triển của toán
học lại rất phức tạp, ngôn ngữ ký hiệu thì ngày càng được sử
dụng nhiều trong toán học, nên các chân lý toán học không có
tính khách quan. Từ đó,họ coi toán học chỉ là một hệ thống ký
hiệu đã được lựa chọn từ trước một cách thích hợpvà căn cứ vào
đó để minh chứng cho học thuyết của mình. Bác bỏ quan niệm
đó, các nhà triết học duy vật đã dựa vào toàn bộ quá trình phát
triển của tri thức khoa học để chỉ ra sai.
Trả lời mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học đã xuất hiện
khả tri luận, cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế
giới. Khả tri luận bao gồm khả tri luận duy vật và khả tri luận duy
tâm. Tuyệt đại đa số các nhà triết học trong lịch sử (cả các nhà
duy vật và các nhà duy tâm) trả lời một cách khẳng định rằng, con
người có khả năng nhận thức nhận được thế giới. Đó là tính đồng
nhất của tư duy và tồn tại, nếu như các nhà duy vật tìm cơ sở của
sự đồng nhất đó ở vật chất vì tư duy ý thức con người cũng do vật
chất tư duy thì trái lại những nhà duy tâm lại tìm cơ sở đó ở ý
thức, tinh thần. Chẳng hạn, Hêgghen là người thể hiện một cách
nhất quán và rõ ràng quan điểm về tính đồng nhất của tư duy và
tồn tại trong hệ thống triết học của ông. Hêgghen cho rằng có một
thực thể tinh thần được gọi là ý niệm tuyệt đối đã tồn tại trước cả
thế giới tự nhiên, sau đó, trong quá trình phát triển của mình, thực
thể tinh thần ấy tha hoá thành giới tự nhiên và con người có tư

duy, quá trình nhận thức của con người chẳng qua là quá trình ý
niệm tuyệt đối tự nhận thức bản thân mình mà thôi. Trả lời mặt
thứ hai vấn đề cơ bản của triết học cũng xuất hiện bất khả tri luận
(thuyết không thể biết) cho rằng con người không thể hiểu biết
được thế giới mà Hium (1711-1766) nhà triết học Anh. Lí luận
nhận thức của Hium xây dưng trên cơ sở kết quả cải biến chủ
nghĩ duy tâm chủ quan của Béccli theo tinh thần của thuyết không
thể biết và hiện tượng luận. Nhưng tri giác đầu tiên, theo Hium là
những ấn tượng trực tiếp của kinh nghiệm bên ngoài, tri giác thứ
hai – đó là hình ảnh cảm tính của trí nhớ và các đối tượng kinh
25

×