Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng học viên giỏi tại trung tâm GDTX huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.2 KB, 27 trang )

1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do, mục đích chọn đề tài
I. 1. Bồi dưỡng học viên giỏi là một trong những công tác mũi nhọn có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các
trung tâm GDTX.
Bồi dưỡng học viên giỏi là bồi dưỡng, phát huy nguồn tài năng sẵn có, khơi
dậy những tố chất tiềm ẩn trong mỗi con người, làm cho nó được bộc lộ ngày càng
rõ nét và đầy đủ, góp phần đem lại lợi ích cho bản thân và cộng đồng xã hội. Bồi
dưỡng học viên giỏi là góp phần bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đây là một việc
làm quan trọng đã được đặt lên vị trí quốc sách hàng đầu trong quá trình đấu tranh
dựng nước, giữ nước và trở thành tư tưởng quan trọng được ông cha ta lưu lại trên
sách vở, văn bia như lời nhắc nhở bất hủ đối với các thế hệ con cháu có trách
nhiệm gánh vác giang sơn đất nước những thế kỉ sau: “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước
yếu rồi xuống thấp. vì thế, thánh đế minh vương không ai không coi việc bồi
dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí là công việc hàng đầu…”
(Văn bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất) và “Đạo trị nước tất phải lấy việc gây dựng nhân
tài làm việc ưu tiên, mà phương pháp gây dựng thì trước hết phải nuôi dưỡng người
tài” (Chiếu vua Minh Mạng ban năm 1827).
Chính sách chú trọng bồi dưỡng người có tài ngày nay càng khẳng định được
tính đúng đắn ưu việt của nó. Vì vậy, trong xu thế đổi mới để hướng tới xây dựng
một nền giáo dục tiên tiến, Bộ GD&ĐT cũng đã đặt ra nhiệm vụ, mục tiêu chung
cho nền giáo dục quốc dân là phải nâng cao năng lực tự học, tính tích cực, năng
động, sáng tạo, phát huy tài năng của người học. Trong Nghị quyết về “Tiếp tục
đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo” tại Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương
khóa VII, Đảng ta đã chỉ đạo: mục tiêu, nhiệm vụ của nền giáo dục ngày nay là
phải “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, góp phần đào tạo nên
những thế hệ người lao động mới tài giỏi có năng lực chuyên môn vững vàng, năng
động, sáng tạo.
2


Để thực hiện được nhiệm vụ chiến lược chung của ngành giáo dục, một
trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Bộ GD&ĐT đề ra cho các trung tâm GDTX
trong việc nâng cao chất lượng của công tác giáo dục văn hóa phổ thông là phải
chú trọng tới công tác bồi dưỡng học viên giỏi, xem đây là một trong những hoạt
động mũi nhọn của đơn vị, phải xác định mục tiêu phấn đấu không ngừng nhằm
nâng cao chất lượng và thành tích trong công tác này.
2. Công tác bồi dưỡng học viên giỏi tại Trung tâm GDTX Văn Bàn trong
một số năm qua đã bộc lộ sự hạn chế ở nhiều khâu dẫn đến chất lượng, hiệu
quả bồi dưỡng chưa cao.
Từ tháng 9 năm 2004, theo quyết định của Bộ GD&ĐT, các Trường Bồi
dưỡng giáo dục đã được chuyển đổi thành các Trung tâm GDTX với chức năng,
nhiệm vụ mới. Thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao, Ban giám đốc, thày trò nhà
trường đã có nhiều cố gằng trong hoạt động bồi dưỡng học viên giỏi. Tuy nhiên,
trong một số năm liên tục, thành tích đạt được còn khá ít ỏi, mới chỉ dừng lại ở một
vài giải cấp trường, không có học viên giỏi cấp tỉnh.
Nhiệm vụ và những khó khăn hạn chế nêu trên đã đặt ra vấn đề cần nghiên
cứu, ứng dụng các phương pháp sư phạm, các cách thức làm việc mới để nâng cao
chất lượng của công tác bồi dưỡng học viên giỏi. Đề tài nghiên cứu khoa học sư
phạm ứng dụng mang tên “Biện pháp nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng
học viên giỏi tại trung tâm GDTX huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai” của chúng tôi
ra đời dựa trên cơ sở các lí do trên.
Đề tài được thực hiện nhằm tìm tòi, nghiên cứu, đưa các biện pháp mới vào
hoạt động quản lí và giảng dạy cho đối tượng học viên giỏi nhằm tìm ra các biện
pháp có hiệu quả để nâng cao chất lượng của công tác bồi dưỡng học viên giỏi tại
Trung tâm GDTX huyện văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
II. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu, đề xuất hệ thống các biện pháp phát hiện, bồi dưỡng học
sinh giỏi ở các bậc học phổ thông là vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều
thầy cô giáo quan tâm thực hiện từ rất lâu. Đã có không ít đề tài nghiên cứu khoa
3

học, sáng kiến kinh nghiệm của các thầy cô giáo, các nhà khoa học thuộc lĩnh vực
giáo dục nghiên cứu về vấn đề này. Ví dụ:
- Đề tài: “Bồi dưỡng năng lực thẩm văn cho học sinh giỏi văn (trường
chuyên Vĩnh Phúc) khi học truyện ngắn Nguyễn Tuân” (Phan Hồng Hiệp, Luận
văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ).
- Đề tài: “Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi- toán 5” (Nguyễn Thúy
Hằng, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Vinh ).
- Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi: “Phương pháp tọa độ với bài toán hình
học phẳng” (Huỳnh Chí Hào, Trường THPT chuyên Nguyễn Quang Diệu).
- Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi phần hóa vô cơ (Trường THCS Long
Định huyện Châu Thành tỉnh Nghệ An)…
Các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều đã khẳng định tầm quan trọng to
lớn của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ
trọng tâm của nền giáo dục nước nhà là góp phần bồi dưỡng, đào tạo cho đất nước
những lớp công dân tương lai vừa có đức vừa có tài đủ sức gánh vác trọng trách
xây dựng và bảo vệ đất nước trong tương lai. Tuy nhiên, có thể nói ít có một
chuyên đề, một sáng kiến kinh nghiệm hay một bài nghiên cứu nào bàn về vấn đề
tìm kiếm các biện pháp bồi dưỡng đối tượng học viên giỏi tại các Trung tâm
GDTX- một trong những đối tượng là thế hệ những người lao động cũng có đóng
góp không nhỏ trong sự nghiệp xây dựng quê hương, đất nước mà trực tiếp nhất là
tại các địa phương nơi những học viên này đang sinh sống.
Đề tài này trên cơ sở kế thừa những kiến thức lí luận về công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi từ các công trình nêu trên đã xây dựng nền tảng về mặt lí luận cho
việc bồi dưỡng đối tượng học viên giỏi đồng thời đề xuất một số biện pháp góp
phần nâng cao chất lượng của công tác bồi dưỡng học viên giỏi tại Trung tâm
GDTX huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu những đặc điểm của học viên ở cả ba khối lớp 10, 11, 12 phục
vụ cho việc phát hiện, bồi dưỡng học viên giỏi ở các bộ môn.
- Nghiên cứu thực trạng của công tác bồi dưỡng học viên giỏi.

4
- Nghiên cứu hệ thống các biện pháp mới có thể áp dụng vào công tác bồi
dưỡng học viên giỏi.
IV. Giới hạn phạm vi, nội dung nghiên cứu
Để việc nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực nhằm góp phần thực hiện các
nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị, trong đề tài nghiên cứu này,chúng tôi đã xác định
phạm vi và đối tượng nghiên cứu ở mức độ tương đối hẹp. Cụ thế là:
- Về địa bàn nghiên cứu: Tất cả các đối tượng nghiên cứu của đề tài được
nghiên cứu trong phạm vi Trung tâm GDTX huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
- Về nội dung nghiên cứu: Mọi nghiên cứu chủ yếu hướng vào tìm hiểu các
biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc bồi dưỡng học viên giỏi hai bộ
môn toán và văn.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những đặc điểm về tâm, sinh lí, hoàn cảnh sống, hệ thống các
năng lực cần có trong mỗi học viên có ý nghĩa là những tiền đề để tiến hành công
tác bồi dưỡng học viên giỏi.
- Nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn ở cả phía học viên và nhà trường
trong việc tiến hành bồi dưỡng học viên giỏi qua các năm học 2004-2005, 2005-
2006, 2006-2007.
- Nghiên cứu các cách thức làm việc mới có thể áp dụng góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả của công tác bồi dưỡng học viên giỏi.
VI. Phương pháp nghiên cứu
VI.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
Dựa trên thông tin từ những tài liệu đã có, sử dụng các thao tác tư duy như
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa… để rút ra những kết luận khoa học. Phương
pháp này sử dụng để thu thập thông tin, tư liệu nhằm nghiên cứu, xây dựng cơ sở lí
thuyết của đề tài, tìm kiếm các biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học viên
giỏi.
VI.2. Phương pháp nghiên cứu, điều tra, khảo sát thực tiễn
Tiến hành điều tra, khảo sát bằng quan sát, phỏng vấn nhằm tìm hiểu đặc

điểm tâm lí, tư duy, những năng lực đặc biệt liên quan đến những vấn đề bồi
5
dưỡng học viên giỏi tại Trung tâm GDTX Văn Bàn. Phương pháp này được sử
dụng để tìm kiếm tư liệu phục vụ cho việc xác định mục đích, lí do chọn đề tài,
xây dựng cơ sở lí thuyết nền tảng vững chắc cho việc đề xuất hệ thống các biện
pháp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác bồi dưỡng học viên giỏi.
VI.3. Phương pháp thống kê, so sánh, phân loại.
Từ các số liệu thu thập được trong quá trình khảo sát, điều tra, chúng tôi tiến
hành so sánh để rút ra các kết luận khoa học làm tiền đề lí luận cho đề tài cũng như
so sánh kết quả đã đạt được với những hạn chế thực tế đã xảy ra trước đó nhằm
chứng minh cho tính khả thi của đề tài.
VII. Thời gian nghiên cứu
Thời gian tiến hành nghiên cứu cho đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng này kéo dài trong năm năm, từ tháng 9 năm 2007 đến tháng 12 năm 2012.
6
B. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Một số khái niệm có liên quan tới công tác bồi dưỡng học viên giỏi
1.1. Học viên giỏi
Khái niệm học viên giỏi liên qua tới đề tài nghiên cứu này chỉ hiểu ở phạm
vi hẹp. Đó là những học sinh đang học chương trình văn hóa phổ thông thuộc hệ
bổ túc văn hóa tại các Trung tâm GDTX trong cả nước có năng lực vượt trội hơn
các bạn học cùng học trong một môn học nào đó trong chương trình văn hóa đang
được học.
Học viên giỏi ở các bộ môn khác nhau có những năng lực riêng mang tính
đặc thù cho từng bộ môn khác nhau. Học viên giỏi môn toán cần có khả năng tư
duy nhạy bén, lô gíc, khoa học Học viên giỏi văn cần có năng lực cảm thụ tác
phẩm văn chương, tình yêu đối với cái Đẹp, Chân, Thiện, Mĩ; trí tưởng tượng
phong phú, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, nguồn cảm xúc dạt dào và khả năng hành
văn vừa đảm bảo tính lô gíc vừa giàu cảm xúc…

1.2. Bồi dưỡng học viên giỏi
Bồi dưỡng học viên giỏi là khả năng vận dụng tri thức chuyên môn, nghiệp
vụ của giáo viên để trang bị kiến thức khoa học, rèn luyện kĩ năng, phát triển trí
tuệ và kích thích, tạo niềm say mê và hứng thú học tập cho học sinh có năng lực
cao nhằm bồi dưỡng, phát huy nguồn tài năng sẵn có, khơi dậy những tố chất tiềm
ẩn trong học viên, làm cho nó được bộc lộ ngày càng rõ nét và đầy đủ.
1.3. Biện pháp bồi dưỡng học viên giỏi
Biện pháp bồi dưỡng học viên giỏi là cách thức tổ chức dạy học, cách thức
tác động của nhà trường và của người giáo viên đến học sinh nhằm phát hiện ra
những học viên có năng lực nổi bật trong các môn học và làm cho những học viên
này tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập để chiếm lĩnh tri thức, rèn
luyện các kĩ năng ở mức độ cao theo yêu cầu của quá trình bồi dưỡng học viên
giỏi ở các bộ môn.
2. Tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng học viên giỏi tại Trung tâm
GDTX huyện Văn Bàn
7
Bồi dưỡng học viên giỏi thực sự là một trong những nhiệm vụ có tầm quan
trọng không nhỏ đối với tập thể lãnh đạo và cán bộ giáo viên của Trung tâm GDTX
Văn Bàn.
Công tác này trước hết nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đơn
vị theo quy định tại điều 3- nhiệm vụ của Trung tâm GDTX trong quyết định số
01/2007/QĐ-BGDDT về Quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm GDTX được
Bộ GD&ĐT ban hành ngày 02 tháng 01 năm 2007.
Công tác bồi dưỡng học viên giỏi được đặt ra còn là một trong những yêu
cầu quan trọng trong mục tiêu giáo dục đã được nêu lên trong luật Giáo dục Việt
Nam. Yêu cầu của nền giáo dục đất nước hiện nay là phải phát huy được năng lực
tự học, thắp lên trong học trò ngọn lửa của niềm say mê, hứng thú học tập và khơi
dậy mọi năng lực tiềm ẩn, đặc biệt là năng lực tư duy trong học trò.
Hoạt động bồi dưỡng học viên giỏi được quan tâm còn là nòng cốt để thúc
đẩy phong trào học tập của Trung tâm. Những học viên có năng lực học tập tốt sẽ

là những tấm gương sáng cho các học viên khác noi theo. Đồng thời những học
viên này còn là nhân tố quan trọng để tạo nên các nhóm bạn, các đôi bạn cùng tiến
giúp đỡ nhau trong học tập ở các bộ môn cơ bản.
Với mục tiêu, nhiệm vụ mà ngành Giáo dục đã đặt ra như trên, việc tìm kiếm
các biện pháp để nâng cao chất lượng học viên giỏi tại Trung tâm GDTX Văn Bàn
là một trong những bài toán thực sự cần giải quyết đối với tập thể cán bộ giáo viên
của nhà trường.
8
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Thực trạng bồi dưỡng học viên giỏi của Trung tâm GDTX Văn Bàn trong
một số năm qua đã tồn tại nhiều hạn chế thể hiện ở cả phía thầy và trò.
1. Những hạn chế về phía nhà trường trong công tác bồi dưỡng học viên
giỏi
1.1. Những hạn chế trong công tác lãnh chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng học
viên giỏi.
Tháng 9 năm 2004, sau khi được chuyển đổi từ Trường Bồi dưỡng giáo dục
lên mô hình trung tâm GDTX, Trung tâm GDTX Văn Bàn đã chính thức bước vào
hoạt động với những chức năng, nhiệm vụ mới. Đội ngũ lãnh đạo đơn vị có sự thay
đổi. Việc tiếp cận để nắm bắt tình hình tại đơn vị, việc nghiên cứu, xây dựng các kế
hoạch hoạt động nhằm hoàn thành nhiều nhiệm vụ mới mẻ được giao đã khiến cho
Ban giám đốc Trung tâm chưa thực sự có nhiều thời gian quan tâm đến việc đầu tư
cho công tác bồi dưỡng học viên giỏi. Công tác bồi dưỡng thường được tổ chức
trong một thời gian ngắn (khoảng hai tháng trước khi kì thi học viên giỏi cấp tỉnh
bắt đầu) chứ chưa có sự chỉ đạo để bồi dưỡng, rèn luyện các kĩ năng cho học viên
từ trước. Việc dạy dồn ép trong một khoảng thời gian ngắn mà không có thời gian
rèn các kĩ năng làm bài đã khiến cho chất lượng các bài thi thường không cao.
1.2. Những hạn chế trong công tác giảng dạy, bồi dưỡng học viên giỏi của
giáo viên.
Đặc thù của các Trung tâm GDTX là số lượng giáo viên giảng dạy cho từng
bộ môn rất ít, thường chỉ có 1 đến 2 giáo viên. Lực lượng tham gia bồi dưỡng

mỏng, lại thêm tuổi đời, tuổi nghề còn non trẻ, nhiều giáo viên nữ thay nhau nghỉ
chế độ thai sản hoặc có con nhỏ nên thường xuyên bận rộn, ít có thời gian đầu tư
cho công việc chuyên môn. Hơn nữa, đội ngũ giáo viên còn phải thường xuyên
kiêm nhiệm nhiều mảng công việc như làm tổ trưởng chuyên môn, công tác đoàn
thể hoặc chủ nhiệm… tất cả dẫn tới công tác bồi dưỡng học viên giỏi thường không
được đầu tư đúng mức. Giáo viên chưa có ý thức phát hiện và bồi dưỡng nguồn
học viên giỏi, cũng chưa có thời gian đầu tư cho việc giảng dạy, chấm chữa bài kĩ
9
lưỡng. Đây là một trong những hạn chế căn bản nhất dẫn đến chất lượng công tác
bồi dưỡng học viên giỏi không được nâng cao.
2. Hạn chế của những học viên tham gia bồi dưỡng học viên giỏi
Học viên tham gia bồi dưỡng học viên giỏi có nhiều em có khả năng nhưng
lại chưa được rèn rũa nhiều về kĩ năng. Hơn nữa, điều kiện của một huyện miền núi
vùng cao còn nhiều khó khăn thiếu thốn khiến các em không có nhiều cơ hội tiếp
xúc với nguồn tài liệu dồi dào, phong phú phục vụ cho việc mở rộng, đào sâu vốn
tri thức liên quan tới bộ môn học các em được bồi dưỡng. Nhiều em có năng lực,
có khả năng tham gia và đạt giải trong các kì thi học viên giỏi thì lại có điều kiện
kinh tế khó khăn, không có thời gian đầu tư cho hoạt động học tập, rèn luyện. Một
số em khác có điều kiện để học tập thì suy nghĩ còn non nớt, còn ham chơi hơn
ham học, chưa có ý thức nỗ lực, cố gắng vươn lên.
Tất cả những hạn chế cả về phía thầy và trò nêu trên là những khó khăn, hạn
chế rất lớn làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của công tác bồi dưỡng học
viên giỏi, làm cho kết quả của hoạt động này nhiều năm không cao. Bảng thống kê
sau sẽ cho thấy rõ điều này.
Năm học Thi học viên giỏi cấp trường Thi học viên giỏi cấp trường
Số
dự
thi
Kết quả Số
dự

thi
Kết quả
Hỏng Đỗ Hỏng Đỗ
Nhì Ba KK Nhì Ba KK
2004-2005 06 03 0 01 02 05 05 0 0 0
2005-2006 06 04 0 0 02 03 03 0 0 0
2006-2007 08 05 0 0 03 03 03 0 0 0
Những con số biết nói trong bảng số liệu trên đã cho thấy những tồn tại lớn
trong công tác bồi dưỡng học viên giỏi. Nó đặt ra vấn đề cần có sự nghiên cứu, ứng
dụng những biện pháp, cách thức làm việc mới thì mới có thể nâng cao chất lượng
công tác bồi dưỡng học viên giỏi tại Trung tâm GDTX Văn Bàn. Bài toán đó đã
được tập thể cán bộ giáo viên trong nhà trường từ Ban giám đốc đến tổ chuyên
môn, các giáo viên giảng dạy cùng trăn trở, suy nghĩ, nghiên cứu và ứng dụng các
biện pháp mới nhằm nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng học viên giỏi tại đơn
vị.
10
Chương 3. BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG CÔNG
TÁC BỒI DƯỠNG HỌC VIÊN GIỎI TẠI TRUNG TÂM GDTX
VĂN BÀN.
I. Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng học viên giỏi
Như chúng ta đều biết bồi dưỡng học sinh giỏi hoạt động chuyên môn được
coi là “Mũi nhọn” được diễn ra thường xuyên tại các nhà trường. Tuy nhiên không
phải đơn vị giáo dục nào cũng luôn giữ vững được những thành tích trong một
khoảng thời gian dài. Có rất nhiều nguyên nhân được chỉ ra nhưng trong đó phải
chăng là chưa có một cách thức tổ chức, phương pháp phù hợp đối với hoạt động
này. Đó cũng chính là nội dung mà đề tài đang bài tới.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một hoạt động khoa học, hoạt động đòi hỏi phải
mọi tổ chức đoàn thể, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn đều cần có sự phối
hợp nhịp nhàng và chặt chẽ theo một “quy trình” đã được hoạch định theo từng
năm học, chứ không phải việc làm “ăn sổi” mà nhiều người vẫn nghĩ và vẫn làm.

Bởi hoạt động này không phải việc “nhồi nhét”, cung cấp kiến thức cho học sinh
hay nóng vội mà “đốt cháy giai đoạn’’… mà đó là quá trình “ngấm”, tư duy và
sáng tạo của người học. Vì vậy muốn có kết quả tốt trong việc bồi dưỡng học sinh
giỏi công việc đầu tiên là bị xây dựng kế hoạch.
I.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học viên giỏi
I.1.1. Mục đích, yêu cầu:
a. Mục đích:
- Để quá trình bồi dưỡng học viên giỏi được thực hiện một cách khoa học,
theo một tiến trình đã được xây dựng từ trước.
- Tạo sự chủ động, tích cực đối với các tổ chức đoàn, giáo viên, học sinh
tham gia công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
b. Yêu cầu :
* Đối với lãnh đạo nhà trường( Ban giám đốc, Ban chuyên môn nhà
trường):
- Xây dựng, kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi từ đầu năm.
11
- Chỉ đạo tổ chức tuyển chọn qua kết quả học tập từ đầu năm học lớp 10.
- Trang bị đầy đủ sách nâng cao, tài liệu tham khảo cho giáo viên được phân
công .
- Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc hàng tháng, đánh giá tình hình bồi dưỡng học
sinh giỏi của giáo viên.
- Có chế độ động viên, khuyến khích, khen thưởng đối với giáo viên và học
sinh tham gia bồi dưỡng.
* Đối với Tổ chuyên môn:
- Xây dựng và cụ thể hóa kế hoạch của nhà trường
- Phát hiện và xây dựng nguồn từ năm lớp 10, phân công giáo viên có năng
lực, có kinh nghiệm dạy bồi dưỡng.
- Thường xuyên kiểm tra, có đánh giá rút kinh nghiệm về công tác bồi dưỡng
trong sinh hoạt tổ .
* Đối với giáo viên tham gia bồi dưỡng :

- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng dưới sự phân công của Ban chuyên chuyên
môn và Tổ chuyên môn nhà trường.
- Tích cực nghiên cứu tài liệu và trực tiếp giảng dạy ôn thi học sinh giỏi.
I.1. 2. Tiêu chí đối với giáo viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi:
Ông cha ta từ xưa đã có câu “ Không thầy đố mày làm nên”, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng cũng đã từng khẳng định: “ Muốn có trò giỏi trước hết phải có thầy
giỏi”. đều đó muốn nói giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và thực
tế đã chứng minh, trường nào có nhiều giáo viên giỏi , ở đó có nhiều học sinh giỏi
và đạt được nhiều thành tích trong các kì thi học sinh giỏi.
Bồi dưỡng học sinh giỏi không chỉ là nhiệm vụ của lãnh đạo giao phó của
nhà trường mà còn là sự tin tưởng của tập thể nhà trường dành cho giáo viên tham
là niềm tự hào mỗi giáo viên của không chi và thách thức không phải bất kì người
giáo viên nào cũng là được. Để có được hiệu quả trong công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi, người giáo viên cần phải đạt được các tiêu chí cơ bản sau:
Trước hết, yêu cầu đối với Giáo viên ôn thi học sinh giỏi phải có kiến thức
chuyên môn vững vàng: Đây là điều kiện vô cùng quan trọng bởi nếu như giáo
12
viên không có kiến thức chuyên sâu không thể tham gia ôn luyện, bồi dưỡng học
sinh giỏi.
Chúng ta đều biết đối tượng học sinh giỏi không giống như các hoạt động
phụ đạo học sinh yếu kém và ôn thi tốt nghiệp chỉ cần đến những kiến thức, kĩ
năng cơ bản. Thì hoạt động ôn thi học sinh giỏi không dừng lại ở đó mà cần lượng
kiến thức lớn và nâng cao, độ khó hơn nhiều đòi hỏi cả người dạy phải có kiến
thức chuyên môn vững vàng, có kiến thức chuyên môn tốt thì mới có thể đáp ứng
được yêu cầu cao của hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi. Từ đó giáo viên mới có
thể giải đáp một cách thỏa đáng, có tính thuyết phục cao những thắc mắc của
những học sinh giỏi.
Giáo viên có sức khỏe, lòng nhiệt huyết, yêu nghề, chấp hành tốt chấp nội
quy chuyên môn là điều kiện thứ hai mà giáo viên rất cần có để có thể bồi dưỡng
học sinh giỏi. Chúng ta điều hiểu bồi dưỡng học sinh giỏi là hoạt động rất đặc biệt.

Điều này có thể lí giải hoạt động này diễn ra thường xuyên nhưng đòi hỏi sự tìm
tòi, nghiên cứu say sưa, miệt mài của người dạy trong suốt quá trình ôn luyện với
lượng kiến thức “khổng lồ”, chuyên sâu và được nâng cao mà đòi hỏi người dạy
phải “thức khuya dạy sớm” “ăn ngủ” với nó thì mới có những bài soạn, bài giảng
chất lượng và hiệu quả được. Mà để làm được điều đó thì chỉ có sức khỏe lòng yêu
nghề, lòng đam mê, nhiết huyết mới có thể làm được, nếu không sẽ rơi vào tình
trạng đại khái, đối phó dẫn đến hậu quả bài dạy không sâu thậm chí còn phản tác
dụng. Mặt khác khi bài giảng không được đầu tư thì bài học sẽ học sinh dễ nhàm
chán không gây được hứng thú cho học sinh.
Thứ ba Giáo viên phải được công nhận giáo viên dạy giỏi (từ cấp trường trở
lên). Đây sẽ là yêu cầu nhằm khẳng định năng lực chuyên môn của giáo viên
không chỉ trước đồng nghiệp mà còn thể hiện uy tín trước học sinh. Và điều này có
chi phối tới tâm lí, độ tin cậy của học sinh được bồi dưỡng khi được học một thầy
giáo, cô giáo là công nhận giáo viên dạy giỏi thì học sinh sẽ được yên tâm về
những đơn vị kiến thức mà mình được tiếp cận khi giáo viên dạy định hướng.
Và yêu cầu giáo viên tham gia bồi dưỡng học viên giỏi là giáo viên có năng
lực hiểu học sinh có kiến thức về tâm lí học lứa tuổi. Điều này không thể xem nhẹ,
13
thực tế cho thấy không phải bất kì giáo viên nào cũng có khả năng hiểu hết được
những suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng của học sinh mình đang dạy và đặc biệt là với
học sinh giỏi vốn là những em học sinh thông minh, nhạy cảm với mọi tác động
của các yếu tố bên ngoài. Có em rất học giỏi gia đình lại khó khăn nên không thể
theo được lớp bồi dưỡng này thậm chí có nguy cơ phải nghỉ học vì không có điều
kiện về kinh tế, hoặc có những em là lao động chính trong gia đình khi bố mẹ tuổi
đã cao, già yếu…và còn rất nhiều các hoàn cảnh, tâm lí khác mà khi được dạy lớp
học này giáo viên có thể có thể được gặp. Kinh nghiệm cho thấy chỉ có sự nhạy
cảm, tinh tế của giáo viên khéo léo tìm hiểu chia sẻ, giúp đỡ, đồng cảm thực sự,
động viện khích lệ học sinh là “phương thuốc” tối ưu để học sinh sẽ tiếp tục tham
gia lớp bồi dưỡng học sinh giỏi mà bộ môn, và đội tuyển nhà trường không “đánh
rơi hạt bụi vàng” mà trải qua một quá trình chọn lọc và rèn rũa mới có được. Và

khi hiểu đã được “lòng người” thì mọi việc định hướng, “khơi nguồn”, “truyền
lửa” cho các em là điều sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Và để làm được và làm
tốt việc này đòi hỏi giáo viên cần có kiến thức về tâm lí học sư phạm, có năng lực
hiểu về học sinh.
I.1 2. Nội dung kế hoạch :
a. Thời gian bồi dưỡng: Được chia ra thành 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Từ lớp 10 đến hết lớp 11.
- Giai đoạn 2: Từ đầu lớp 12 đến khi thi học sinh giỏi cấp Tỉnh (Đối với học
viên GDTX).
b. Nội dung bồi dưỡng và phân công giảng dạy.
- Biên soạn chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho
từng môn, về từng mảng kiến thức rèn luyện các kỹ năng theo số tiết quy định nhất
định và nhất thiết phải bồi dưỡng theo quy trình từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để
các em học sinh bắt nhịp dần.
- Xác định rõ trọng tâm kiến thức giảng dạy cho từng môn để tránh trùng
lập. Chương trình bồi dưỡng cần có sự liên thông trong suốt 3 năm liền (từ lớp10
đến lớp 12)
14
- GV Sưu tầm các bộ đề thi các cấp trong tỉnh nhà và các tỉnh khác thông
qua công nghệ thông tin nhằm giúp các em tiếp xúc làm quen với các dạng đề ,
luôn tìm đọc, tham khảo các tài liệu hay để hướng cho học sinh.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh các tài liệutin cậy, phù hợp với trình độ của
các em để tự rèn luyện thêm ở nhà. Đồng thời cung cấp hoặc giới thiệu các địa chỉ
trên mạng để học sinh có thể tự học, tự nghiên cứu, bổ sung kiến thức.
Sau khi đã cân nhắc, lựa chọn được các giáo viên đạt được những yêu cầu
tham gia ôn luyện cho học sinh giỏi, các giáo viên này sẽ tập hợp cử một nhóm
trưởng - cần lựa chọn tín nhiệm một giáo viên có chuyên môn vững và có nhiều
kinh nghiệm nhất.Và ngay sau đó là đi đến thống nhất nội dung bồi dưỡng cho
học sinh giỏi, đây cũng là “bộ khung” mà mỗi giáo viên cần tuân thủ thực hiện có
thể theo bài, chủ đề cụ thể….

Ví dụ: Đối với môn Ngữ văn:
- Giáo viên A dạy phần: Văn xuôi hiện đại lớp 11.
- Giáo viên B dạy phần: Thơ lớp 12….
Đối với môn Toán:
- Giáo viên A dạy chuyên đề: Bài toán khảo sát ham số
- Giáo viên B dạy chuyên đề: Hệ phương trình đối xứng loại 1
Phân công giảng dạy là việc làm được cụ thể trong cuộc trao đổi chuyên môn
này. Khi đã thống nhất được nội dung kiến thức, kĩ năng ôn luyện việc phân công
có thể theo hướng như sau:
- Giáo viên nào có “sở trường ” về phần nào thì sẽ ôn luyện về mảng đó cho học
sinh. Chẳng hạn môn Toán: Giáo viên A có ưu thế bồi dưỡng phần: Phương trình
vô tỉ hay phần: Giới hạn dãy số, hàm số thì sẽ dạy phần đó và tương tự đối với các
giáo viên khác
- Cần đảm bảo cân đối về nội dung công việc với từng giáo viên tham gia dạy,
tránh tình trạng có giáo viên thì dạy ít, giáo viên lại quá tải về công việc hoặc có
người thì dạy toàn phần có ưu thế có người lại toàn phần khó…. Vì thế cân đối,
đồng đều là chúng ta cần tính đến trong phân công giảng dạy cho giáo viên bồi
dưỡng học sinh giỏi.
15
- Ngoài ra để hỗ trợ cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, các bộ phận
gián tiếp như: chi bộ, tổ chức công đoàn, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm…
cũng cần quan tâm đặc biệt và có những biện pháp hỗ trợ đúng mức như: tạo điều
kiện cho giáo viên và học sinh tham gia bồi dưỡng. Ví dụ: giảm tiết dạy, công tác
kiêm nghiệm, có chế độ học bổng cho học sinh; tuyên dương khen thưởng kịp thời
đối với các giáo viên và học sinh đạt thành tích. Về phía lãnh đạo nhà trường
không chỉ quan tâm, theo dõi được hoạt động chuyên môn rất quan trọng, mang
tính “mũi nhọn” này mà còn cần động viên, khích lệ kịp thời tinh thần của hăng say
dạy và học của thầy trò trong suốt thời gian bồi dưỡng học viên giỏi này. Có được
sự quan tâm đúng mức hoạt động bồi dưỡng học viên giỏi chắc chắn sẽ có được
hiệu quả tích cực.

Bất cứ hoạt động khoa học nào muốn có thành quả đều cần phải lên kế hoạch
ngay từ đầu. Và công tac bồi dưỡng học
Như vậy có thấy rằng, tưởng chừng như đơn giản không mấy quan trọng như
nhiều người vẫn nhầm tưởng, mà hoàn toàn ngược lại xây dựng
I.2. Thực hiện kế hoạch
Sau khi các kế hoạch đã được kí duyệt trong nhà trường, Ban chuyên môn
và Tổ giáo viên tham gia bồi dưỡng họp bàn và đi đến thống nhất sau đó sẽ
được đi vào triển khai thực hiện nghiêm túc theo kế hoạch đó.
I.2. 1. Phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi.
Thực tế cho thấy, việc phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi là thao tác vừa
khó khăn vừa vô cùng quan trọng là công việc bắt buộc trong công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi. Bởi đây là không chỉ việc phát hiện được những học sinh có năng
khiếu thực sự, đi tìm được những “hạt giống” đang cần được “ươm mầm” mà còn
là yếu tố quyết định độ “mạnh” của đội tuyển học sinh giỏi của một nhà trường.
Kinh nghiệm cho thấy một học sinh giỏi thường đặc điểm có những là:
- Có kiến thức cơ bản:
- “Cãi thầy” - Có cá tính mạnh: Dám tranh luận thẳng thắn để tìm ra chân lí kiến
thức.
- Thông minh, sáng tạo: Đưa ra được cách lí giải hay, độc đáo, mới lạ.
16
- Đam mê, yêu thích môn học.
Để tìm được những học sinh có đủ những phẩm chất không phải là dễ dàng,
không phải một sớm một chiểu là có thể phát hiện ngay được. Bởi năng khiếu của
một học sinh không phải lúc nào cũng được biểu hiện rõ ràng ngay khi các em mới
bước vào trường hay qua những bài học đầu tiên. Mà ngược lại người dạy phải trải
qua một cuộc kiếm tìm vừa khoa học vừa tinh tế mới có thể thấy “hạt cát vàng”
đang tiềm ẩn đâu đó. Mà nhiều khi người dạy chưa để ý dẫn đến việc nhiều khi
những “hạt cát vàng” sẽ mãi không tìm thấy, như vậy đồng nghĩa với việc chúng ta
đã lãng phí những nhân tài mà không được bồi dưỡng và khẳng định mình.
Chính vì vậy, việc phát hiện và tuyển chọn đòi hỏi không chỉ là có kế hoạch

mà việc thực hiện kế hoạch đó không thể một cách qua loa, chiếu lệ, thậm chí tệ
hại hơn là “làm cho có” hay là “nhặt” vài em sao cho danh sách là điều vô cùng
nguy hại … Công việc này cần có sự “vào cuộc” của các tổ chức đoàn thể, giáo
viên đặc biệt là giáo viên dạy bộ môn bồi dưỡng, việc cùng nhau phát hiện này sẽ
giúp cho việc lựa chọn và phát hiện chính xác và tìm được đúng học sinh có năng
lực và đang cần được bồi dưỡng. Bởi dưới nhiều góc nhìn sẽ giúp cho việc tìm
thấy được những học sinh xứng đáng trong đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi của
từng môn học. Để lựa chọn được đội tuyển tốt, thiết nghĩ cần tiến hành qua các
bước như sau:
Bước 1: Kiểm tra khảo sát chất lượng học tập của học sinh:
Bài khảo sát này được tiến hành ngay từ đầu năm học lớp 10 (Có thể kiểm tra
khảo sát đại trà cùng với học sinh toàn trường hoặc khảo sát đề riêng sau khi
kiểm tra học bạ của học sinh). Tuy nhiên để việc thi khảo sát này cần chú đến
những yếu tố cơ bản:
Trước hết là phân công giáo viên ra đề: Ban giám đốc, Ban chuyên môn nhà
trường cần chỉ đạo phân công cho những giáo viên có chuyên môn và kinh nghiệm
trong ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi ra đề thi khảo sát nhằm đảm bảo cho đề thi
có độ chính xác tuyệt đối và đạt được mục đích tìm kiếm học sinh giỏi. Mỗi giáo
viên sẽ ra một hoặc hai đề thi nộp cho Ban chuyên môn và chú ý tính bảo mật đề
17
thi nộp vào “ngân hàng” đề thi cùng với đáp án. Sau đó Ban chuyên môn chọn một
đề trong số đề thi đó.
Thứ hai là: Đề thi phải phù hợp với đối tượng và có thể phân loại được khả
năng nhận thức, tư duy sáng tạo của người học. Trong đề cần có kiến thức cũ đã
học ở THCS và có cả kiến thức vừa được tìm hiểu ở chương trình THPT, đồng
thời các câu trong đề thi cần được phân chia theo các mức tư duy: Nhận biết –
Vận dụng – Thông hiểu. Hay nói cách khác là làm sao đề kiểm tra cần tạo ra
“khoảng trống” trong đó, tạo cơ hội cho học sinh được khai thác và khám phá, qua
đó người học bộc lộ tối đa khả năng của mình. Tức là đề thi làm sao đảm bảo được
mục đích là phát hiện, lựa chọn được những học sinh có năng khiếu cho bộ môn

yêu cầu.
Bước 2: Chấm bài, đánh giá kết quả làm bài thi của học sinh:
Các thao tác này cần đảm bảo tính trung thực, công bằng, khách quan của
giáo viên chấm, tránh việc chấm bài đại khái, hoặc tình cảm cá nhân vào đánh giá
học sinh nói chung. Nếu làm như vậy thì việc xây dựng kế hoạch và quá trình tổ
chức thực hiện đến đây đã “phá sản” . Vì khi việc đó xảy ra đồng nghĩa với việc
người chúng ta cần tìm thi lại không thấy, chúng ta lại tập hợp một lớp học với
nhiều “tầng lớp” với nhau, hoàn toàn không hiệu quả . Khi được phân công giáo
viên chấm bài cần chú ý đến điều nàylà trong quá trình phát hiện học sinh giỏi,
đồng thời cần thống nhất đáp án và phân công chấm chéo các bài của học sinh.
Tuy nhiên thực tế ôn luyện, bồi dưỡng cho thấy không phải mọi học sinh có
xếp loại học lực khá, giỏi đều là học sinh có năng khiếu. Ngược lại những học
sinh có năng khiếu chưa hẳn là học sinh có xếp loại học lực giỏi. Điểm này có thể
lí giải là có nhiều học sinh thông minh, có tư duy lôgic, nhận thức tốt nên khi làm
bài có điểm số cao nhưng lại không yêu thích môn học đó. Nhưng ngược lại vẫn
có trường hợp học sinh yêu thích môn học có “tố chất” khi chưa được ôn luyện,
rèn rũa thì kết quả cũng chỉ dừng ở một điểm khá nhất định nào đó.
Vấn đề đặt ra là nên ứng xử như thế nào với hai đối tượng này để có thể tập
hợp một đội tuyển mạnh nhất. Đối với trường hợp thứ hai khá là thuận lợi cho
việc lựa chọn vào đội tuyển ôn thi học sinh giỏi của bộ môn vì các em đã có sẵn
18
lòng yêu thích và sự đam mê. Nhưng với trường hợp một, đòi hỏi giáo viên cần
động viên, khích lệ, gieo vào các em tình yêu đối với môn học và “đánh” vào tâm
lí của các em, giáo viên cần phân tích cho học sinh thấy niềm vinh dự được vào
đội tuyển học sinh giỏi của nhà trường. Với việc nay nếu không cố gắng làm
việc này có thể vô tình chúng ta sẽ “đánh rơi” những “hạt giống” có sức vươn lên
mãnh liệt.
Bước 3: Thành lập đội tuyển.
Sau khi đã thống nhất được kết quả và đánh giá bài thi cần được công bố
danh sách đội tuyển học sinh giỏi theo từng môn tới học sinh và toàn thể nhà

trường. Qua đó thành lập được đội tuyển học sinh giỏi của từng bộ môn.
Như vậy là đã hoàn thiện được khâu có ý nghĩa quan trọng trong công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi đó là phát hiện, tuyển chon học sinh giỏi.
Song việc phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi không phải chỉ dừng lại ở đó,
không phải lạ danh sách đó đã niêm yết, không thay đổi cho đến khi học sinh được
tham gia thi học sinh các cấp. Mà đội tuyển này có thể được sàng lọc thường xuyên
trong suốt quá trình ôn luyện sau này. Nhằm một mặt loại những học sinh có biểu
hiện hạn chế về năng lực và không theo kịp, mặt khác vừa củng cố, bổ sung số học
sinh trong đội tuyển khi phát hiện được những nhân tố mới cho bộ môn. Số học
sinh mới được phát hiện và bổ sung này không phải trải qua kì thi khảo sát lần nữa
mà chủ yếu được tuyển chọn qua sự nỗ lực của bản thân học sinh và cảm quan tinh
tế của chính các giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy ở các lớp có học viên đó.
I. 2.2. Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi.
Sau khi các kế hoạch đã được họp bàn và đi đến thống nhất sau đó sẽ được
đi vào triển khai thực hiện nghiêm túc theo kế hoạch đó.
Ôn thi học sinh giỏi là một quá trình tìm kiếm, “đãi cát tìm vàng” đây là hoạt
động đòi hỏi phải mọi tổ chức đoàn thể, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn
đều cần có sự phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ theo một “quy trình” đã được hoạch
được hoạch định theo từng năm học, chứ không phải việc làm “ăn sổi” mà nhiều
người vẫn nghĩ và vẫn làm. Bởi việc bồi dưỡng này không phải việc “nhồi nhét”,
cung cấp kiến thức cho học sinh là được và nó cần có quá trình “ngấm”, tư duy và
19
sáng tạo của người học, cho nên không thể nóng vội hay “đốt cháy giai đoạn’’
trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi được. Vậy vấn đề đặt ra phương pháp,
cách thức bồi dưỡng ôn thi học sinh giỏi như thế nào sao vừa phát huy được tính
sáng tạo cho học sinh vừa có có thành tích tốt là vấn đề tài nghiên cứu đang bàn
tới.
Sau khi đã có được “đội quân tinh nhuệ” bước tiếp theo là tiến hành tổ chức
bồi dưỡng cho đội tuyển vừa phát hiện. Đây là bước tạo “bệ phóng ” thật tốt cho
học sinh được thể hiện năng khiếu và khẳng định chính mình, hơn nữa đây cũng là

hoạt động quyết định để học sinh có thể đủ tự tin “mang chuông đi đánh xứ
người”. Chính vì tầm quan trọng như vậy, hoạt động này lại càng không thể thực
hiện tùy tiện, ngẫu hứng mà cần tuân theo các yêu cầu và trình tự nhất định.
Như đã trình bày, bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những hoạt động rất
quan trọng trong các hoạt động chuyên môn của tất cả các nhà trường, vì thế hoạt
động này không thể như một “món ăn nhanh”hoặc có thể “ăn sổi” như nhiều người
vẫn nghĩ. Mà công tác này cần cả một quá trình cần trải qua một “hành trình” đòi
hỏi sự bền bỉ, say sưa của cả người dạy và người học trong suốt chặng đường đó.
Khi tiến hành bồi dưỡng học sinh giỏi có thể chia theo giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Rèn luyện kĩ năng:
Giai đoạn được cần được tiến hành ngay từ khi học sinh vào lớp 10 đến hết lớp
11. Ở thời điểm này, sau khi đã có được đội tuyển, giáo viên không nên đặt vấn đề
quá nặng về bồi dưỡng kiến thức để đi thi mà chủ yếu thông qua đó mà chủ yếu
rèn luyện kĩ năng cơ bản cho học sinh như:
- Kĩ năng làm bài: Giáo viên uốn nắn, chỉnh sửa cho học sinh từ những lỗi nhở
nhất khi học mắc phải: cách diễn đạt về câu, từ, chính tả, phân phối thời gian trong
quá trình làm bài
- Kĩ năng nhận diện đề thi: Kĩ năng này không phải là mới đối với học sinh nhưng
không phải học sinh nào cũng nhận dạng, loại của đề thi, trong đó không với học
sinh giỏi ở giai đoạn này. Vì thế rất cần thiết cần cung cấp, truyền đạt và rèn luyện
cho các em những kiến thức về dấu hiệu nhận biết về dạng loại trong đề thi. Điều
này rất cần thiết cho tất cả các môn ôn thi, bồi dưỡng trong đó có môn Toán và
20
Văn, bởi khi nhận diện được câu/ đề ở dạng nào thì từ đó học sinh định hướng
được các bước, các cách làm bài.
Ví dụ: Đối với môn Ngữ văn học sinh khi thấy trong đề bài có câu:
Hãy nêu suy nghĩ của anh (chị) về câu ý kiến sau:
Phải chăng “Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất
mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống?”
(Nooc – man- Ku - sin).

Khi đọc được câu hỏi này, học sinh cần nhận ra ngay đây dạng đề Nghị luận
về một tư tưởng đạo lí (một trong ba dạng bài của kiểu bài nghị luận xã hội). Từ đó
học sinh mới biết hướng làm bài như sau:
Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
Thân bài: Đảm bảo các ý:
+ Giải thích
+ Bình luận và chứng minh
+ Thái độ, hành động, rút ra bài học cho bản thân.
Kết bài: Nêu ý nghĩa của câu nói.
- Kĩ năng vận dụng: Không thể có kết quả cao nếu học sinh không biết và không có
khả năng vận dụng tốt. Sự vận dụng rất phong phú và đa dạng, nó có thể khai thác
được biểu hiện được sự thông minh và khai thác được sự sáng tạo và bộc lộ được
tố chất của một học sinh giỏi thực sự. Vì thế kĩ năng không thể bỏ qua trong qua
trình ôn thi học sinh giỏi giai đoạn 1 này.
- Ngoài ra với mỗi bộ môn được bồi dưỡng lại có những kĩ năng mang tính đặc
thù. Ví dụ: Với môn Ngữ văn có kĩ năng cảm thụ một tác phẩm văn học: Chúng ta
đều biết học và viết văn không phải là bộ môn học thuộc mà là sự cảm nhận tinh tế
tâm hồn của người đọc, tìm hiểu tác phẩm hay nói cách khác là “đi từ trái tim đến
trái tim”. Cho nên không phải cứ thuộc tác phẩm tác phẩm, thuộc nội dung chính là
viết văn hay, không phải như vậy cảm nhận tác phẩm văn học cần có độ “ngấm” và
lắng đọng trong tâm hồn con người. Vậy vấn đề đặt ra là giáo viên rất cần rèn
luyện cho học sinh có được khả năng cảm nhận này.
21
Sau gần hai năm học ôn luyện, bồi dưỡng, nhìn chung con tương đối “nhẹ
nhàng” về cả kiến thức cũng như tần suất lên lớp. Trước khi kết thúc bước sang
giai đoạn hai, giáo viên cần tiến hành tổ chức bài Kiểm tra khảo sát đội tuyển học
sinh giỏi, sau đó giáo viên thông báo dừng tham gia ôn luyện đối với số học sinh
không theo kịp với đội tuyển. Đồng thời đã dần định hình và tiếp tục lựa chọn
được những gương mặt ưu tú cho giai đoạn 2 với yêu cầu và mức độ đòi hỏi cao
hơn rất nhiều về cả kĩ năng và kiến thức.

Giai đoạn 2: Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng:
Đây là giai đoạn tăng tốc, có tính quyết định trong quá trình bồi dưỡng học
viên giỏi. Bởi đây là giai đoạn bồi dưỡng để học sinh để được tham gia các kì thi
học sinh giỏi các cấp (đối với học viên GDTX tham gia thi học viên giỏi cấp
trường và cấp tỉnh). Như vậy, là không có nghĩa là chỉ có chỉ tập trung tìm hiểu
kiến thức mà đặc biệt chú trọng việc kết hợp kĩ năng đã được bồi dưỡng ở giai
đoạn trước với kiến thức vừa được tiếp cận thông qua ôn luyện theo các dạng,
theo đặc trưng của từng bộ môn. Hơn nữa việc ôn luyện đòi hỏi cần theo mức độ
nâng cao dần về nội dung bồi dưỡng theo các cấp: Cấp trường và cấp tỉnh.
Đối với kì thi học sinh giỏi cấp trường: Trên danh sách đã có giáo viên tổ
chức ôn luyện cho học sinh theo các trình tự sau:
- Bước 1: Tìm hiểu kiến thức qua bài (tác phẩm): Tại đây dược sự định hướng của
giáo viên học sinh tiếp thu được kiến thức mới của từng bài hoặc phương pháp của
dạng bài nào đó. Lượng kiến thức này là rất lớn, đòi hỏi sự làm việc cần mẫn, đam
mê, nhiệt huyết của cả giáo viên và học sinh, không có được điều đó cả người học
và người dạy không thể theo kịp với sự yêu cầu cao của công tác bồi dưỡng học
viên giỏi.
- Bước hai: Giáo viên hướng dẫn học sinh ôn luyện, tiếp cận theo các dạng, loại
của bài mới xung quanh kiến thức mới được tiếp cận theo hướng từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp. Ví dụ Trong môn Toán có chuyên đề khảo sát hàm số: Giáo
viên cho học sinh luyện tập nhiều bài tập khác nhau. Hay trong môn Ngữ văn có
tác phẩm “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân. Giáo viên có thể cho học sinh luyện
các đề bài:
22
Phân tích tình huống truyện “Chữ người tử tù” ” – Nguyễn Tuân
Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao, qua đó chỉ ra nét độc đáo trong nghệ
thuật xây dựng nhât vật của Nguyễn Tuân. ….
- Bước ba: Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài hoàn chỉnh sau khi đã có độ ngấm
nhất định.
- Bước bốn: Giáo viên chấm, chữa bài cho học sinh tỉ mỉ, kĩ lưỡng qua đó uốn nắn,

chỉnh sửa cho các em từ những lỗi nhỏ nhất. Đặc biệt qua lời phê giáo viên khéo
léo khích lệ tinh thần cố gắng, nỗ lực của các em. Sau cùng là trả bài cho học sinh
tự xem lại bài làm của mình và tự mình rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.
Các bước này chứ đều đặn được tiến hành một cách khoa học qua từng bài
học, qua đó giáo viên có thể nhận thấy sự “bứt phá” của những em vừa có có “tố
chất” vừa cố gắng nỗ lực vươn lên trong quá trình ôn luyện.
Và để các em trong đội tuyển được “cọ sát” và tạo điều kiện cho các em
khẳng định mình, nhà trường tổ chức kì thi học sinh giỏi cấp trường. Qua đó vừa
“phân cấp” một cách khác quan đối với các em trong đội tuyển. Đồng thời ghi
nhận sự cố gắng của các em qua các giải mà các đã đạt được, tạo động lực cho các
em tiếp tục ôn luyện ở giai đoạn bồi dưỡng đội tuyển tham gia kì thi học sinh giỏi
cấp tỉnh.
Đối với kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh: Sau khi có được những học sinh ưu tú
nhất, công tác bồi dưỡng đến lúc này chỉ chủ yếu tập trung vào ôn luyện, bởi lượng
kiến thức học sinh đã được tìm hiểu tại vòng trường. Chính vì thế trình tự cần được
thay đổi và nâng cao hơn. Cụ thể:
- Trước hết là luyện đề nâng cao: Học sinh được giáo viên giao các dạng, loại với
mức độ khó hơn, phù hợp với kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh.
- Hai là: Học sinh tự chấm chéo bài của nhau theo từng cặp: Hoạt động nay nếu
giáo vien tổ chức tốt đem lại hiệu quả rất tích cực. Bởi trong qua trình đọc bài của
bạn, bản thân từng em học sinh có thể vừa sửa lỗi cho bạn vừa tự rút kinh nghiệm
cho mình. Hơn thế nữa các em lại có thể học tập và “bắt chước” bạn mình những
cách giải Toán hay (đối với Toán) những lời bình hấp dẫn, độc đáo( trong Ngữ
văn).
23
- Ba là: Giáo viên nhận xét, kết luận kiến thức: Trong qua trình chấm bài cho bạn,
học sinh có thể xảy ra tranh luận “nảy lửa” thậm chi có cả hiện tượng “cãi thầy”
về những đơn vị kiến thức chưa được giải đáp và chưa đi đến thống nhất. Lúc này
cần sự vào “vào cuộc ” của giáo viên với bản lĩnh và trình độ chuyên môn vững
vàng với cách lí giải thuyết phục. Điểu này rất tốt cho thấy rằng học sinh đã thực

sự kiến thức sâu, phong phú mà chỉ nhờ vào qua trình tìm tòi học sinh mới có thể
có được.
Toàn bộ phần trên đây người viết hầu hết chỉ chú ý đến quá trình bồi dưỡng
thông qua sự cộng tác của giáo viên và học sinh. Tuy nhiên có một kênh thông tin
học tập rất hữu ích và hiệu quả mà giáo viên cần thiết khi bồi dưỡng học sinh giỏi
cần chú ý tới đó là hướng dẫn học sinh tự học qua: đọc và luyện tập sách tham
khảo, qua mạng Internet. Tất nhiên là tất nguồn tư liệu này cần đảm bảo sự tin cậy,
có sự định hướng của giáo viên. Ví dụ: Sách của Nhà xuất bản Giáo dục hay trang
web: hocmai.vn.
Bất kì một công việc nào cũng vậy, có lao động thực sự sẽ có được kết quả
xứng đáng với mồ hôi, công sức bỏ ra cho công việc đó. Hoạt động bồi dưỡng học
sinh giỏi cũng không ngoại lệ, có được sức mạnh, sự đồng thuận của tập thể nhà
trường, có được sự cố gắng nỗ lực của giáo viên dạy và học sinh tham gia bồi
dưỡng được tổ chức một cách chính xác, khoa học có chắc chắn sẽ đạt được kết
quả như mong muốn. Đội tuyển học sinh giỏi nhà trường sẽ “gióng lên những hồi
chuông ngân dài vang xa”, khẳng định vị thế của nhà trường trong công tác “mũi
nhọn” – công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
II. Kết quả đạt được của đề tài
Bằng sự nỗ lực không ngừng của tập thể nhà trường nói chung, sự nhiệt huyết
của giáo viên tham gia bồi dưỡng và sự đam mê của học sinh giỏi trong đội tuyển
học sinh giỏi nhiều năm qua nói riêng, đặc biệt là nhờ việc áp dụng một cách linh
hoạt các giải pháp mà đề tài đã trình bày, Trung tâm GDTX Văn Bàn suốt 6 năm
liền có học sinh giỏi đạt Giải cấp Tỉnh, không những tăng lên về số giải mà còn các
giải được ngày càng cao hơn. Kết quả cụ thể được thể hiện qua bảng sau:
24
Năm học Thi học viên giỏi cấp trường Thi học viên giỏi cấp trường
Số
dự
thi
Kết quả Số

dự
thi
Kết quả
Hỏng Đỗ Hỏng Đỗ
Nhì Ba KK Nhì Ba KK
2007-2008 08 04 0 01 03 04 02 0 0 02
2008-2009 07 05 0 0 02 03 01 0 0 02
2009-2010 23 18 0 0 05 03 01 0 0 02
2010-2011 11 9 01 01 05 02 0 01 02
2011-2012 16 11 02 03 05 01 01 01 02
Với kết quả như vậy có thể chưa phải là quá lớn lao nhưng đó là sự ghi
nhận sự lao động cần mẫn, hăng say, khoa học của của thầy và trò Trung tâm
GDTX Văn Bàn trong nhiều năm qua. Kết quả đó đã, đang và sẽ là động lực,
thôi thúc thầy và trò nhà trường tiếp tục phấn đấu trong công tác bồi dưỡng học
viên giỏi trong thời gian tới.
C. KẾT LUẬN CHUNG VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT, KIÊN NGHỊ
1. Ý nghĩa:
Có thể khẳng định rằng, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là hoạt động có ý
nghĩa vô cùng lớn lao trong hoạt động chuyên môn nói riêng và trong giáo dục
nhân cách con người nói chung. Đó cũng chính là nhiệm vụ của giáo dục là
25

×