Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Tài liệu lý thuyết về kiểm toán nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.71 KB, 80 trang )

NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
Quá trình hình thành và phát triển của kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán có nguồn gốc từ tiếng Latinh, theo nghĩa của từ "Audit".
Kiểm toán ra đời từ thời La Mã, thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Tuy nhiên,
hoạt động kiểm toán chỉ phát triển mạnh mẽ và mang tính phổ biến trong
khoảng vài trăm năm trở lại đây.
Ở Đức, từ năm 1714, Vua Phổ là Friedrich Wilhelm I đã ra Sắc lệnh
thành lập Phòng Thẩm kế tối cao (hay Thẩm kế viện dưới thời Đế chế Đức).
Ở Pháp, từ năm 1807, dưới thời Hoàng đế Napoleon I, Toà Thẩm kế (Cour
des comptes) đã được thành lập.
Hoạt động kiểm toán xuất phát từ yêu cầu sử dụng hợp lệ và hợp lý các
nguồn tài chính của Nhà nước. Bởi vậy, mục tiêu cụ thể của công tác này là
sử dụng xác thực và có hiệu quả nguồn kinh phí công, phấn đấu đạt được sự
quản lý kinh tế chặt chẽ, tính hợp lệ của công tác quản lý hành chính và việc
thông tin cho các cơ quan nhà nước cũng như công luận thông qua việc công
bố các báo cáo khách quan về sự ổn định và phát triển của nền tài chính quốc
gia.
Kiểm toán hiện diện như một công cụ không thể thiếu được đối với bất
kỳ một mô hình kinh tế nào, một hình thái xã hội nào và không hề bị chi phối
bởi kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, hoạt động kiểm toán chỉ thực sự có ý
nghĩa quan trọng đối với quá trình lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia kể từ
sau các cuộc cách mạng về kinh tế và hiện đại hoá vào những năm đầu của
thế kỷ XX.
1
Cơ quan Kiểm toán nhà nước (KTNN) ở mỗi quốc gia có những tên gọi
khác nhau. Ví dụ: Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp, Cơ quan Tổng Kế toán Hoa
Kỳ, Cục Kiểm toán Liên bang Nga, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn
Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn Độ; Uỷ ban Kiểm toán Nhật Bản;
v.v
Phần lớn các khu vực trên thế giới đều thành lập Tổ chức các cơ quan


kiểm toán tối cao của khu vực. Chẳng hạn như, tổ chức quốc tế các cơ quan
kiểm toán tối cao châu Âu (Euro Organization of Supreme Audit Institutions -
EUROSAI); tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao châu Á (Asia
Organization of Supreme Audit Institutions – ASOSAI).
Trên bình diện quốc tế, các quốc gia cũng gia nhập Tổ chức Quốc tế
các cơ quan kiểm toán tối cao (International Organization of Supreme Audit
Institutions-INTOSAI). Cơ quan này gồm có 178 thành viên. Trong đó, Việt
Nam cũng tham gia tổ chức này từ năm 1996.
Ngày nay, việc xác định địa vị pháp lý và các chức năng cơ bản của cơ
quan kiểm toán tối cao của một quốc gia thường dẫn chiếu tới “Tuyên bố
Lima về những chuẩn mực của kiểm tra tài chính”. Tuyên bố này được thông
qua tại Đại hội lần thứ IX của Tổ chức INTOSAI tháng 10 năm 1997. Không
chỉ soạn thảo ra những định hướng chung, Tuyên bố Lima còn tuyển chọn và
hệ thống hoá những nguyên tắc cơ bản của kiểm tra tài chính công đã được
các quốc gia ứng dụng và công nhận. Tuy không có sự ràng buộc về mặt pháp
lý trong phạm vi của từng quốc gia, nhưng có thể thấy Tuyên bố Lima có ảnh
hưởng rõ rệt đối với sự phát triển của cơ quan kiểm toán tối cao ở mỗi quốc
gia. Các chuẩn mực do Tuyên bố Lima đưa ra được xem là những định hướng
chủ đạo trong việc tổ chức một cơ quan kiểm tra tài chính hiệu quả.
2
Khái niệm về kiểm toán Nhà nước
Trên thực tế các tổ chức nghề nghiệp liên quan đều tránh đưa ra một
khái niệm về kiểm toán Nhà nước. Bởi lẽ, đây là một loại hình kiểm toán cụ
thể trong hệ thống khoa học kiểm toán, vì vậy, họ thường đưa ra khái niệm
chung về kiểm toán và kết hợp mô tả đặc thù về kiểm toán Nhà nước để từ đó
giúp cho người nghiên cứu hình dung về loại hình kiểm toán này. Chúng ta có
thể hình dung về kiểm toán Nhà nước thông qua một số quan điểm sau:
- Theo định nghĩa của hiệp hội các cơ quan kiểm toán tối cao quốc
tế (Intosai): “Cơ quan kiểm toán tối cao được hiểu là một tổ chức công cộng
của Nhà nước được chỉ định thiết lập, tổ chức theo các cách khác nhau, thực

hiện theo luật định, chức năng kiểm toán công cộng”
- Theo điều 13 Luật KTNN: “KTNN là cơ quan chuyên môn về
lĩnh vực kiểm tra tài chính Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”; và điều 14 luật KTNN: “KTNN có chức
năng kiểm toán, báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động
độc lập đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản
Nhà nước”.
- Theo điều 4 luật KTNN: “Hoạt động KTNN là việc kiểm tra,
đánh giá, và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc
tuân thủ pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước”
Như vậy, nhìn chung ta có thể hiểu kiểm toán Nhà nước là hoạt động
kiểm toán do các kiểm toán viên Nhà nước thuộc cơ quan kiểm toán tối cao
của mỗi quốc gia tiến hành. Kiểm toán Nhà nước chủ yếu kiểm tra chức năng
tuân thủ pháp luật, tiến hành hoạt động và lập báo cáo tài chính của các tổ
chức, đơn vị sử dụng vốn và kinh phí Nhà nước.
3
Các hình thức hoạt động của cơ quan kiểm toán Nhà nước
Bên cạnh các định hướng về thiết chế và tổ chức, Tuyên bố Lima cũng
đưa ra các khuyến nghị về các hình thức kiểm toán, bao gồm việc kiểm tra
trước, kiểm tra sau, kiểm tra nội bộ và kiểm tra từ bên ngoài.
Kiểm tra trước đối với một nền tài chính lành mạnh là cần thiết, nhưng
đó không phải là nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan kiểm toán tối cao. Kiểm tra
sau là hoạt động chính của cơ quan này.
Công tác kiểm toán mang tính Nhà nước cần có sự phân biệt rành mạch
giữa kiểm toán ngoại vi (hay ngoại kiểm) và kiểm toán nội bộ (hay nội kiểm).
Trong một Nhà nước pháp quyền hiện đại, kiểm toán ngoại vi được thực hiện
thông qua KTNN hay nói một cách khác, cơ quan kiểm toán ngoại vi không
nằm trong khối tổ chức các cơ quan bị kiểm tra. Kiểm toán nội bộ được hiểu
là hoạt động kiểm tra tài chính công trong phạm vi một tổ chức, cơ quan, đơn

vị và đặt dưới quyền của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị đó. Các cơ
quan, đơn vị, các tổ chức Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước có sử
dụng Kiểm toán nội bộ đều phải chịu sự kiểm tra của KTNN. KTNN có trách
nhiệm đánh giá, kiểm tra chất lượng kiểm toán và ấn định cả những chuẩn
mực và quy trình kiểm toán áp dụng cho các tổ chức Kiểm toán nội bộ.
Bên cạnh đó, cũng cần phải có sự phân biệt giữa kiểm toán ngoại vi
mang tính Nhà nước và kiểm toán ngoại vi không mang tính Nhà nước. Kiểm
toán ngoại vi không mang tính Nhà nước là sự kiểm toán đối với khu vực
kinh tế không phải do Nhà nước tổ chức, hoặc là những doanh nghiệp mà Nhà
nước không phải là chủ sở hữu chính. Những doanh nghiệp như vậy, chịu sự
kiểm toán của các tổ chức Kiểm toán độc lập (hay còn gọi là các Công ty dịch
vụ tư vấn kế toán và kiểm toán).
Về nguyên tắc, các cơ quan kiểm toán tối cao phải đạt được các mục
tiêu kiểm toán, bao gồm: tính hợp pháp, tính tuân thủ, tính kinh tế, đúng mục
đích và tính tiết kiệm ngang bằng như nhau.
Nhiệm vụ của cơ quan kiểm toán Nhà nước
4
Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công tối cao, KTNN phải thực
hiện 4 nhiệm vụ quan trọng:
Một là, KTNN phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội về những vấn đề
có liên quan trong quá trình ra các quyết định của Quốc hội, không chỉ vì
Quốc hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp, mà còn với tư cách là cơ
quan ban hành Luật NSNN và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
Hai là, KTNN phải báo cáo, tư vấn và giải toả trách nhiệm cho Chính
phủ, cụ thể là cho các cấp quản lý hành chính Nhà nước, các Bộ, ban, ngành
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, cũng như về tác động tài chính của
những biện pháp đề ra.
Ba là, KTNN thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe đối với bộ
máy hành chính Nhà nước nhằm chống lại việc sử dụng phung phí và lạm
dụng các phương tiện tài chính của Nhà nước.

Bốn là, KTNN cần thông báo công khai trước công luận về việc sử
dụng các phương tiện tài chính Nhà nước của Chính phủ và Quốc hội.
4 nhiệm vụ trên là biểu thị thước đo giá trị thành công của một cơ quan
KTNN với tư cách là cơ quan công quyền có chức năng kiểm tra tài chính
công tối cao của Nhà nước.
Để cơ quan KTNN có thể đảm nhiệm được những chức năng, nhiệm vụ
của mình trong một Nhà nước pháp quyền thì đòi hỏi 3 tiền đề cơ bản, đó là:
Thứ nhất, tính độc lập của cơ quan KTNN với các cơ quan quyền lực
khác của Nhà nước phải được đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật:
- Đảm bảo tính độc lập về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động.
- Đảm bảo quyền chủ động của cơ quan KTNN trong việc xây dựng
Chương trình kế hoạch kiểm toán, mục tiêu của mỗi cuộc kiểm toán và nội
dung kiểm toán.
- Đảm bảo quyền được công khai kết quả kiểm toán trước công luận.
Thứ hai, nguyên tắc kiểm toán đầy đủ phải được thể chế hoá trong luật:
- Về nguyên tắc, cơ quan KTNN phải có thẩm quyền kiểm toán tất cả
các chức năng Nhà nước có tác động đến ngân sách, không phụ thuộc vào
việc những chức năng đó được thực hiện dưới bất cứ hình thức pháp lý nào.
5
Nếu lĩnh vực nào đó (bí mật quốc gia) mà không muốn kiểm toán thì cũng
phải xác định rõ bằng luật và thông báo cho công luận biết.
- Thẩm quyền kiểm toán của cơ quan KTNN phải không bị hạn chế về
thực chất. Điều đó có nghĩa là, bao gồm cả việc kiểm tra tính hợp pháp, tính
tuân thủ, tính kinh tế và tính tiết kiệm của các hoạt động kinh tế nhà nước.
Thứ ba, phải có một tài phán độc lập để cơ quan KTNN có thể khiếu
kiện khi tính độc lập và thẩm quyền kiểm toán của mình bị xâm phạm:
- Khi tính độc lập của mình bị xâm phạm thì con đường pháp lý mở ra
đối với cơ quan KTNN là kiện lên Toà án tối cao.
- Đối với kiểm tra tài chính, khi có vướng mắc về thẩm quyền kiểm
toán thì sẽ được giải quyết thông qua các Toà hành chính.

Ngay trong 178 nước có cơ quan KTNN là thành viên của INTOSAI,
việc đáp ứng những tiền đề này rất khác nhau và chắc chắn, hiệu lực của
chúng cũng rất khác nhau.
Mô hình kiểm toán Nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới
Trong số 178 thành viên chính thức của Tổ chức Quốc tế các Cơ quan
Kiểm toán tối cao (INTOSAI), mô hình các cơ quan KTNN không giống
nhau. Một số KTNN trực thuộc Quốc hội, một số trực thuộc Chính phủ, số
còn lại trực thuộc Tổng thống, trực thuộc Nhà Vua hoặc độc lập hoàn toàn với
Quốc hội và Chính phủ.
Theo thống kê sơ bộ, trong số 85 nước được khảo sát:
- 36 nước có cơ quan KTNN trực thuộc Quốc hội: Hoa Kỳ, Nga, Anh,
Đan Mạch, Ôxtrâylia, Hunggari, Phần Lan, Ba Lan, Séc, Hà Lan, Áo, Lítva,
Braxin, Mêhicô, Êcuađo, Côlômbia, Cô-xta-ri-ca, Guatêmala, Namibia,
Canađa, Uganđa, Vênêxuêla, Gana, Hônđurat, Urugoay, CH Đôminica, Puêtô
Ricô, CH Xêy-chê-lê, Nicaragua, Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Mianma,
Gióocđani, Papua Niu Ghinê, Xri-lanca, Ixraen.
6
- 16 nước có cơ quan KTNN trực thuộc Chính phủ: Trung Quốc, Nhật
Bản, Arập Xêút, Thái lan, Lào, Campuchia, Thuỵ Điển, Pêru, Achentina, Bốt-
xoa-na, Đôminích, En Sanvađo, Môrixơ, Kiribati, Xanh Luxia, Xanh Vinxen.
- 14 nước có cơ quan KTNN trực thuộc Tổng thống: Hàn Quốc, Chi-lê,
Băng-la-đét, Bô-li-vi-a, Tan-da-ni-a, Guy-a-na, Ấn Độ, Ma-la-uy, Man-ta,
Dăm-bi-a, Pa-ra-goay, Gia-mai-ca, Pa-ki-xtan, Be-li-ze.
- 2 nước có cơ quan KTNN trực thuộc nhà Vua: Nê-pan, Bru-nây.
- 17 nước có cơ quan KTNN độc lập hoàn toàn: Đức, Malaixia, Síp,
Pháp, Phi-lip-pin, In-đô-nê-si-a, Hy Lạp, CH Xu-đăng, Tây Ban Nha,
Panama, Xu-ri-nam, Luých-xăm-bua, Thụy Sĩ, Bồ Đào Nha, Italia, Ôman, Ki-
rơ-gi-xtan.
Ở đây, chuyên đề trình bày 3 mô hình cơ quan kiểm toán tối cao quốc
gia phổ biến để minh họa: Cơ quan KTNN trực thuộc Quốc hội (CHLB Nga),

trực thuộc Chính phủ (Trung Quốc) và mô hình độc lập (CHLB Đức).
Mô hình cơ quan KTNN trực thuộc Quốc hội (CHLB Nga)
Kiểm toán nhà nước liên bang Nga (KTNNLB) là cơ quan cao nhất
hoạt động thường xuyên của hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, được lập
ra bởi Hội nghị Liên bang và trực thuộc Hội nghị.
KTNNLB Nga trong hoạt động của mình tuân thủ theo Hiến pháp Liên
bang, Đạo luật KTNN và các Đạo luật khác của Liên bang Nga. Trong khuôn
7
khổ các nhiệm vụ do luật định, KTNNLB Nga độc lập về tổ chức và chức
năng.
KTNNLB Nga là một pháp nhân, có con dấu khắc hình Quốc huy Liên
bang.
- Nhiệm vụ:
Tổ chức và thực hiện kiểm tra việc hoàn thành đúng thời hạn các khoản
thu, khoản chi của Ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm
ngoài ngân sách Liên bang, cả về số lượng, cơ cấu và mục tiêu.
Đánh giá cơ sở lý giải của các khoản thu, khoản chi trong các dự toán
ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách
Liên bang.
Thẩm định về mặt tài chính các dự thảo Luật Liên bang, các văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực Nhà nước Liên bang khác có
dự kiến các khoản chi lấy từ ngân sách Liên bang hoặc ảnh hưởng đến việc
thành lập và sử dụng ngân sách Liên bang cũng như ngân sách của các quỹ
Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang.
Phân tích việc không thực hiện đúng các chỉ tiêu đã xác định của ngân
sách Liên bang và của ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách
Liên bang, cũng như chuẩn bị các kiến nghị nhằm khắc phục các sai sót đó và
hoàn thiện ngân sách Liên bang.
Kiểm tra tính hợp pháp và tính kịp thời của việc chuyển ngân sách Liên
bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang trong

Ngân hàng Trung ương Nga, trong các Ngân hàng được uỷ nhiệm và các tổ
chức tín dụng khác của Liên bang.
Đệ trình thường xuyên các thông tin về việc thực hiện ngân sách Liên
bang cũng như kết quả các hoạt động kiểm toán lên Hội đồng Liên bang và
Viện Duma quốc gia.
- Tổ chức bộ máy:
KTNNLB bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Kiểm toán trưởng và bộ
máy giúp việc của KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB do Viện Duma quốc gia bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 6
năm. Nghị quyết về việc bổ nhiệm Chủ tịch KTNNLB được Viện Duma quốc
8
gia thông qua với đa số phiếu cuả tất cả đại biểu Viện Duma quốc gia. Mọi
công dân Liên bang Nga đã tốt nghiệp Đại học tổng hợp, có kinh nghiệm
trong lĩnh vực hành chính Nhà nước, kiểm tra Nhà nước, kinh tế và tài chính
đều có thể được bổ nhiệm làm Chủ tịch KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB không được có quan hệ họ hàng với Tổng thống
Liên bang Nga, Chủ tịch Hội đồng Liên bang, Chủ tịch Viện Duma quốc gia,
Chủ tịch Chính phủ Liên bang, Thủ trưởng Phủ Tổng thống Liên bang, Chánh
Toà án tối cao Liên bang và Chủ tịch Hội đồng trọng tài tối cao Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng Liên
bang, Viện Duma quốc gia, các Uỷ ban và tiểu ban của Nghị viện, các phiên
họp của Chính phủ Liên bang và của Đoàn Chủ tịch Chính phủ Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB không được phép là Đại biểu của Viện Duma quốc
gia, là thành viên của Chính phủ Liên bang, không được làm bất kỳ công việc
nào có tính chất sinh lợi, trừ công tác giảng dạy khoa học nghệ thuật
Phó Chủ tịch KTNNLB do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm theo nhiệm
kỳ 6 năm. Nghị quyết bổ nhiệm Phó Chủ tịch KTNNLB được thông qua bởi
đa số tất cả các đại biểu Hội đồng Liên bang.
- Đánh giá kết quả kiểm toán:
KTNNLB đánh giá một cách có hệ thống các kết quả thu được từ các

biện pháp kiểm tra, khái quát chúng và nghiên cứu các nguyên nhân và hậu
quả của các việc sai trái và vi phạm trong khi tạo các nguồn thu và chi từ ngân
sách Liên bang.
Trên cơ sở các dữ liệu có được, KTNNLB xây dựng các kiến nghị
nhằm hoàn thiện Luật Ngân sách và tiếp tục phát triển hệ thống tài chính và
ngân sách của Liên bang, trình lên Viện Duma quốc gia.
- Các kiến nghị của KTNNLB:
Dựa vào các kết quả do các biện pháp kiểm tra đưa lại, KTNNLB kiến
nghị với các cơ quan Nhà nước Liên bang, Thủ trưởng các cơ quan, doanh
nghiệp được kiểm toán về các biện pháp để khắc phục các thiếu sót, truy cứu
trách nhiệm của các quan chức đã vi phạm các Đạo luật của Liên bang và gây
ra bê bối.
9
Kiến nghị của KTNNLB phải được xem xét trong thời hạn được ấn
định, nếu không có thời hạn thì là 20 ngày kể từ ngày nhận được chúng. Các
biện pháp được đưa ra để thực hiện kiến nghị phải được thông báo ngay cho
KTNNLB. Nếu trong khi tiến hành kiểm toán mà phát hiện việc biển thủ
phương tiện tài chính hoặc tài sản Nhà nước cũng như các vụ việc lạm dụng
chức vụ khác thì KTNNLB chuyển ngay lập tức các hồ sơ, tài liệu cho các cơ
quan bảo vệ pháp luật.
10
Mô hình cơ quan KTNN trực thuộc Quốc hội (Trung Quốc)
Luật kiểm toán Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ban hành ngày
31/8/1994 quy định cơ sở pháp lý của hoạt động kiểm toán nhà nước.
Mục đích của hoạt động kiểm toán: Nhằm tăng cường sự kiểm tra Nhà
nước về tài chính, bảo đảm trật tự Nhà nước về kinh tế và tài chính, khuyến
khích xây dựng chính sách cởi mở và bảo đảm sự phát triển kinh tế quốc dân
lành mạnh.
Các lĩnh vực chịu kiểm toán:
- Việc thực hiện ngân sách thuộc các ngành của Quốc vụ viện và chính

quyền nhân dân địa phương các cấp.
- Các khoản thu, khoản chi của các cơ quan tài chính Nhà nước, các
doanh nghiệp và tổ chức.
Cơ quan kiểm toán hoạt động theo luật, nhằm kiểm tra tính đúng đắn,
tính hợp pháp và tính kinh tế của việc thực hiện ngân sách và các khoản thu,
khoản chi của các cơ quan nói trên.
Quốc vụ viện và chính quyền địa phương từ cấp huyện trở lên hàng
năm phải trình lên Uỷ ban thường vụ Đại hội nhân dân cấp mình báo cáo hoạt
động của Cơ quan Kiểm toán đối với việc thực hiện ngân sách và các khoản
thu, khoản chi khác.
11
- Các cơ quan Kiểm toán thực hiện sự kiểm toán theo pháp luật một
cách độc lập, không có sự can thiệp của cơ quan hành chính, tổ chức và cá
nhân khác.
- Quốc vụ viện lập ra KTNN để lãnh đạo hoạt động kiểm toán trong
toàn quốc dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Quốc vụ viện. Tổng Kiểm toán là
người lãnh đạo KTNN.
- Các cơ quan kiểm toán địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo với
chính quyền nhân dân cùng cấp và cơ quan kiểm toán cấp trên. Về mặt
chuyên môn thì trước hết cơ quan Kiểm toán cấp trên chịu trách nhiệm.
- Các cơ quan kiểm toán kiểm tra việc thực hiện ngân sách và việc
quyết toán ngân sách cũng như việc quản lý và sử dụng các phương tiện nằm
ngoài ngân sách cùng cấp (kể cả các đơn vị cấp dưới trực thuộc trực tiếp) và
của cả chính quyền nhân dân cấp dưới.
KTNN kiểm toán và kiểm tra:
+ Các khoản thu và các khoản chi của Ngân hàng TW. Các Cơ quan
Kiểm toán kiểm toán và kiểm tra các tài sản, các khoản nợ, lợi nhuận và thua
lỗ của các tổ chức tài chính Nhà nước.
+ Các khoản thu và các khoản chi của các cơ quan Nhà nước được lập
ra theo Luật định.

+ Các tài sản, nợ, lợi nhuận và thua lỗ của các DNNN.
+ Việc thực hiện ngân sách và các khoản thu, khoản chi của các công
trình xây dựng Nhà nước.
+ Các khoản thu, khoản chi của các quỹ bảo hiểm xã hội, các khoản tài
chính được quyên góp trong xã hội và các quỹ có liên quan do các tổ chức
được cơ quan Nhà nước hoặc Chính phủ giao cho quản lý.
+ Các khoản thu, khoản chi, các khoản trợ giúp tài chính và khoản vay
của các tổ chức tài chính quốc tế và Chính phủ nước ngoài.
Mô hình cơ quan KTNN trực thuộc Quốc hội (CHLB Đức)
12
- Vị trí:
KTNN Liên bang là cơ quan tối cao của Liên bang, với tư cách một cơ
quan kiểm tra tài chính độc lập chỉ tuân thủ pháp luật. Trong khuôn khổ
những nhiệm vụ theo luật định, KTNN Liên bang hỗ trợ Quốc hội Liên bang,
Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang trong việc ra quyết định của các
cơ quan này.
Địa vị pháp lý của KTNN Liên bang và các thành viên cũng như những
nhiệm vụ cơ bản được đảm bảo bằng Hiến pháp. Những vấn đề cụ thể được
quy định trong các đạo luật riêng (Luật KTNN Liên bang, Luật Ngân sách
Liên bang).
- Nhiệm vụ:
Toàn bộ công tác quản lý ngân sách và kinh tế của Liên bang, kể cả các
tài sản đặc biệt và xí nghiệp của Liên bang đều được KTNN Liên bang kiểm
toán theo chuẩn mực.
Trên cơ sở kinh nghiệm kiểm toán, KTNN Liên bang có thể tư vấn cho
Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang, Chính phủ Liên bang và cho từng
Bộ của Liên bang về những vấn đề có liên quan. Khi KTNN Liên bang tư vấn
cho Quốc hội hoặc Hội đồng Liên bang thì đồng thời cũng thông báo cho
Chính phủ Liên bang.
13

KTNN Liên bang tổng hợp những kết luận kiểm toán của mình vào
những Báo cáo kiểm toán gửi cho các đơn vị được kiểm toán, để đơn vị này
trình bày quan điểm.
Hàng năm, KTNN Liên bang báo cáo những kết quả kiểm toán quan
trọng cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang
dưới hình thức những "Báo cáo tổng hợp" (Báo cáo năm). Nó là cơ sở để
Quốc hội Liên bang vãn hồi trách nhiệm cho Chính phủ Liên bang. Báo cáo
này cũng được giới thiệu trước công luận trong một cuộc họp báo Liên bang.
KTNN Liên bang có thể thông báo bất kể lúc nào về những vấn đề có ý
nghĩa quan trọng cho Quốc hội Liên bang, Hội đồng Liên bang và Chính phủ
Liên bang (Báo cáo đặc biệt).
KTNN Liên bang chẳng những tư vấn cho các cơ quan hành pháp và
lập pháp thông qua những kiến nghị trong Báo cáo kiểm toán và Báo cáo
năm, mà trước hết thông qua các bài tham luận (bằng văn bản hoặc bằng
miệng) về những chủ đề thời sự (như những dự án mua sắm với lượng tài
chính lớn) hoặc trong khuôn khổ xây dựng dự toán ngân sách.
- Phạm vi hoạt động:
KTNN Liên bang kiểm tra:
Các khoản thu, các khoản chi, các nghĩa vụ chi tài sản và các khoản nợ.
Các chương trình có ảnh hưởng tới tài chính.
Các khoản lưu giữ và tạm ứng.
Việc sử dụng các kinh phí được bổ sung nhằm tự tạo vốn.
Theo Điều 88, Quy chế Ngân sách Liên bang ban hành ngày 19/8/1969,
KTNN Liên bang có thể giới hạn phạm vi kiểm toán và cho phép miễn kiểm
tra các hoạt động kế toán.
- Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động:
9 Vụ kiểm toán, mỗi Vụ có 6 Phòng kiểm toán, bao gồm khoảng 600
kiểm toán viên.
9 KTNN Khu vực gồm 500 Kiểm toán viên.
Khoảng 1.500 kiểm toán viên trong các cơ quan của Liên bang.

Kế hoạch ngân sách KTNN Liên bang được 78 triệu DM.
Kế hoạch ngân sách KTNN Khu vực được 92 triệu DM.
Những quyết định của KTNN Liên bang được biểu quyết tập thể. Trong
trường hợp bình thường thì 2 thành viên hữu trách ra quyết định (Vụ trưởng
14
và Trưởng Phòng kiểm toán). Trong một số trường hợp nhất định thì Chủ tịch
hoặc Phó Chủ tịch sẽ tham gia vào Hội đồng (Hội đồng 3 thành viên). Những
quyết định trong Hội đồng 2 hoặc 3 thành viên chỉ có thể thông qua với sự
nhất trí của tất cả các thành viên. Đại hội đồng của KTNN Liên bang chỉ
quyết nghị về những vấn đề vợt ra ngoài khuôn khổ 1 Vụ hoặc đặc biệt quan
trọng.
15
II. TỔNG QUAN VỀ KTNN Ở VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam
Thành lập ngày 11/7/1994 theo nghị định số 70/1994/ND-CP về việc
thành lập cơ quan KTNN và Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Kiểm
toán Nhà nước để "giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm
tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu và số liệu kế toán,
báo cáo quyết toán của cơ quan Nhà nước, các đơn vị kinh tế Nhà nước,
các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử̉ dụng kinh phí do
NSNN cấp" đánh giá sự tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động của các đơn
vị được kiểm toán. Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu, báo cáo quyết toán
ngân sách của các địa phương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân; Tổng
quyết toán NSNN trước khi trình ra Quốc hội; báo cáo quyết toán của các cơ
quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách, các chương trình, dự̣ án, công trình đầu tư
-xây dựng cơ bản của Nhà nước, các DNNN cần phải được KTNN tiến hành
kiểm toán và xác nhận.
Năm 1996, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức
Quốc tế các Cơ quan Kiểm toán tối cao - INTOSAI).

Năm 1997, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức các
Cơ quan Kiểm toán tối cao châu á (Asian Organization of Supreme Audit
Institutions - ASOSAI).
Ngày 14/6/2005, Quốc hội ban hành luật KTNN, có hiệu lực từ ngày
01/01/2006, theo luật này, KTNN sẽ không còn trực thuộc chính phủ mà là
một cơ quan độc lập do quốc hội lập, bản thân cơ quan này không thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước, tách khỏi cơ quan hành pháp và ngay các cơ
quan hành pháp là chính phủ và các bộ ngành trực thuộc chính phủ cũng là
đối tượng của KTNN. Cách tổ chức như thế này đã thể hiện nhận thức ngày
16
càng đầy đủ, rõ ràng của Việt Nam về hoạt động kiểm toán nói chung và
KTNN nói riêng. Nó làm cho địa vị pháp lý của cơ quan KTNN trở nên rõ
ràng, cụ thể hơn, tính độc lập cao hơn, không bị chi phối bởi các quyền năng,
bởi ý chí chủ quan và chỉ tuân thủ pháp luật trong quá trình hoạt động.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của KTNN ở Việt nam được quy
định trong luật KTNN, cụ thể:
Điều 14: Chức năng của KTNN
Kiểm toán Nhà nước có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm
toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Điều 15: Nhiệm vụ của KTNN
1. Quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo với Quốc hội,
Chính phủ trước khi thực hiện.
2. Tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm và thực hiện nhiệm
vụ kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ.
3. Xem xét, quyết định việc kiểm toán khi Thường trực Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có yêu cầu.
4. Trình ý kiến của Kiểm toán Nhà nước để Quốc hội xem xét, quyết

định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương,
quyết định dự án, công trình quan trọng quốc gia, phê chuẩn quyết toán ngân
sách nhà nước.
5. Tham gia với Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội và các cơ
quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về
dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương,
phương án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, phương án bố trí ngân
sách cho dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định và
quyết toán ngân sách nhà nước.
6. Tham gia với Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội khi có yêu
cầu trong hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội,
17
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính -
ngân sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài
chính.
7. Tham gia với các cơ quan của Chính phủ, của Quốc hội khi có yêu
cầu trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh.
8. Báo cáo kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kiến nghị kiểm
toán với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo kiểm toán cho
Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; cung cấp kết quả kiểm toán cho Bộ Tài chính, Hội đồng
nhân dân nơi kiểm toán và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật.
9. Tổ chức công bố công khai báo cáo kiểm toán theo quy định tại Điều
58, Điều 59 của Luật này và các quy định khác của pháp luật.
10. Chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra và các cơ quan khác của Nhà
nước có thẩm quyền kiểm tra, xử lý những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp
luật của tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán.
11. Quản lý hồ sơ kiểm toán; giữ bí mật tài liệu, số liệu kế toán và
thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp
luật.

12. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
13. Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển nguồn nhân lực của Kiểm toán Nhà nước.
14. Tổ chức thi và cấp chứng chỉ Kiểm toán viên nhà nước.
15. Chỉ đạo và hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán nội bộ;
sử dụng kết quả kiểm toán nội bộ của cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều
6 của Luật này.
16. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 16: Quyền hạn của KTNN
1. Yêu cầu đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan
cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm
toán; đề nghị cơ quan hữu quan phối hợp công tác để thực hiện nhiệm vụ
được giao; đề nghị cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội và
công dân giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ.
18
2. Yêu cầu đơn vị được kiểm toán thực hiện các kết luận, kiến nghị của
Kiểm toán Nhà nước đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai
phạm trong việc tuân thủ pháp luật; kiến nghị thực hiện các biện pháp khắc
phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do Kiểm toán Nhà nước phát hiện và
kiến nghị.
3. Kiểm tra đơn vị được kiểm toán trong việc thực hiện kết luận và kiến
nghị của Kiểm toán Nhà nước.
4. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu các đơn vị được
kiểm toán thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán đối với các trường hợp
sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật;
đề nghị xử lý theo pháp luật những trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán của Kiểm toán Nhà
nước.
5. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý những vi phạm pháp
luật của tổ chức, cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán.

6. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo pháp luật đối với tổ chức,
cá nhân có hành vi cản trở hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước hoặc
cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật cho Kiểm toán Nhà nước và Kiểm toán
viên nhà nước.
7. Trưng cầu giám định chuyên môn khi cần thiết.
8. Được uỷ thác hoặc thuê doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm toán
cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; Kiểm
toán Nhà nước c hịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, tài liệu và kết
luận kiểm toán do doanh nghiệp kiểm toán thực hiện.
9. Kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ
chế, chính sách và pháp luật cho phù hợp.
Cơ cấu tổ chức của kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam
Kiểm toán Nhà nước được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất,
gồm: bộ máy điều hành, Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành, Kiểm toán Nhà
19
nước khu vực và các đơn vị sự nghiệp. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định
cụ thể cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước
quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các
đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước. Số lượng Kiểm toán Nhà nước
chuyên ngành và Kiểm toán Nhà nước khu vực trong từng thời kỳ được xác
định trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ do Tổng Kiểm toán Nhà nước trình Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội quyết định.
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước bao gồm 30 Vụ và
đơn vị tương đương cấp Vụ như sau:
a. Các đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành
1. Văn phòng Kiểm toán Nhà nước;
2. Vụ Tổ chức cán bộ;
3. Vụ Tổng hợp;
4. Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán;

5. Vụ Pháp chế;
6. Vụ Quan hệ quốc tế.
b. Các đơn vị Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành
1. Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành Ia (lĩnh vực quốc phòng);
2. Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành Ib (lĩnh vực an ninh, tài chính và
ngân sách Đảng, hoạt động cơ yếu, dự trữ nhà nước);
3. Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II (lĩnh vực ngân sách trung
ương của bộ, ngành kinh tế tổng hợp);
4. Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành III (lĩnh vực ngân sách trung
ương của bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ…);
5. Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành IV (lĩnh vực đầu tư, dự án hạ
tầng cơ sở);
6. Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành V (lĩnh vực đầu tư, dự án công
nghiệp, dân dụng);
7. Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VI (các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước);
8. Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VII (ngân hàng, các tổ chức tài
chính).
c. Các đơn vị Kiểm toán Nhà nước khu vực
1. Kiểm toán Nhà nước khu vực I (trụ sở đặt tại Thành phố Hà Nội);
20
2. Kiểm toán Nhà nước khu vực II (trụ sở đặt tại Thành phố Vinh, tỉnh
Nghệ An);
3. Kiểm toán Nhà nước khu vực III (trụ sở đặt tại Thành phố Đà Nẵng);
4. Kiểm toán Nhà nước khu vực IV (trụ sở đặt tại Thành phố Hồ Chí
Minh);
5. Kiểm toán Nhà nước khu vực V (trụ sở đặt tại Thành phố Cần Thơ).
6. Kiểm toán Nhà nước khu vực VI (trụ sở đặt tại Thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh);
7. Kiểm toán Nhà nước khu vực VII (trụ sở đặt tại Thành phố Yên Bái,

tỉnh Yên Bái);
8. Kiểm toán Nhà nước khu vực VIII (trụ sở đặt tại Thành phố Nha
Trang, tỉnh Khánh Hòa);
9. Kiểm toán Nhà nước khu vực IX (trụ sở đặt tại Thành phố Mỹ Tho,
tỉnh Tiền Giang);
10. Kiểm toán Nhà nước khu vực X (Trụ sở đặt tại thành phố Thái
Nguyên, tỉnh Thái Nguyên);
11. Kiểm toán Nhà nước khu vực XI (trụ sở đặt tại thành phố Thanh
Hoá, tỉnh Thanh Hoá);
12. Kiểm toán Nhà nước khu vực XII (trụ sở đặt tại thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk);
13. Kiểm toán Nhà nước khu vực XIII (trụ sở đặt tại thành phố Vũng
Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
d. Các đơn vị sự nghiệp
1. Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ;
2. Trung tâm Tin học;
3. Tạp chí Kiểm toán.
Mỗi đơn vị có các phòng chức năng để thực hiện nhiệm vụ. Văn phòng
Kiểm toán Nhà nước có con dấu riêng; Kiểm toán Nhà nước khu vực và các
đơn vị sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng.
Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành thực hiện kiểm toán theo chuyên ngành
đối với cơ quan, tổ chức ở Trung ương; Kiểm toán Nhà nước khu vực thực
hiện kiểm toán đối với cơ quan, tổ chức ở địa phương trên địa bàn khu vực và
21
các nhiệm vụ kiểm toán khác theo sự phân công của Tổng Kiểm toán Nhà
nước.
Kiểm toán trưởng (cấp Vụ trưởng), các Phó Kiểm toán trưởng (cấp Phó
vụ trưởng); Chánh Văn phòng và Phó chánh Văn phòng; Vụ trưởng, các Phó
Vụ trưởng; Giám đốc, các Phó Giám đốc trung tâm; Tổng biên tập, các Phó
Tổng biên tập do Tổng Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách

chức.
22
III. KẾT QUẢ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TỪ 2009 ĐẾN NAY
23
1. Tình hình kế hoạch kiểm toán Nhà nước từ năm 2009 (về niên độ
ngân sách năm 2008) đến nay
Từ năm 2009 đến nay, mặc dù còn khiêm tốn về lực lượng và quy mô,
tuy nhiên cơ quan kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam luôn nỗ lực trong việc xây
dựng kế hoạch kiểm toán hàng năm với số lượng các đơn vị được kiểm toán
ổn định và mở rộng theo mục tiêu kiểm toán chủ yếu của từng năm.
2009 2010 2011 2012
Số
lượng
±%
Số
lượng
±%
Số
lượng
±%
Số
lượng
±%
I. Lĩnh vực NSNN 59 - 49 -16,9 56 +14,3 45 -19,6
1. BCQTNS 2 - 2 0 2 0 2 0
2. NS, Tiền, TSNN 57 - 47 -17,5 54 +14,9 43 -20,4
a. Bộ, cơ quan ngang bộ 20 - 15 -25 20 +33,3 15 -25
b. Tỉnh, TP 37 - 32 -13,5 34 +6.3 28 -17,6
II. KT chuyên đề 5 - 2 -60 5 +150 16 +220
III. DA, chương trình 21 - 38 +81 41 +7,9 42 +2,4

IV. DNNN, TC-NH 29 - 30 +3.4 28 -6,7 29 +3,6
V. ANQP, Đảng 30 - 17 -76,5 67 +294,1 36 -46,3
1. Quốc phòng 10 - 8 -20 46 +475 25 -45,7
2. An ninh 13 - 6 -53,8 12 +100 7 -41,7
3. Đảng 7 - 3 -57,1 9 +200 4 -55,6
TỔNG 144 - 136 -5,5 197 +44,8 168 -14,7
Nhìn vào bảng thống kê số lượng cuộc kiểm toán do kiểm toán Nhà
nước thực hiện từ năm 2009 đến nay ta có thể thấy mặc dù số lượng tổng các
cuộc kiểm toán do kiểm toán Nhà nước thực hiện trong 1 năm có nhiều thay
đổi tăng giảm tuy nhiên xu hướng chung tổng số lượng các cuộc kiểm toán
đều đã ổn định và tăng lên, đáp ứng được những mục tiêu kiểm toán đã đề ra
24
hàng năm. Năm 2010 thực hiện ít nhất là 136 cuộc và năm 2011 thực hiện
nhiều nhất lên đến 197 cuộc. So sánh con số này với số lượng các cuộc kiểm
toán đã thực hiện ở các năm trước đó chúng ta có thể thấy được sự nỗ lực của
cơ quan KTNN ở Việt Nam trong những năm gần đây, cụ thể: năm 2005
Trong đó năm 2011, KTNN đã thực hiện số lượng lên đến 197 cuộc
kiểm toán, trong đó số lượng tăng chủ yếu vào tăng kiểm toán khối An ninh
quốc phòng và cơ quan Đảng (37 cuộc, tăng 294,1%). Cũng trong năm này,
KTNN cũng thực hiện một cuộc kiểm toán phối hợp chung với KTNN liên
bang Nga xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro.
Bên cạnh các vấn đề về số lượng cuộc kiểm toán tăng lên hàng năm,
một điểm rất quan trọng chúng ta cũng cần phải chú ý đó là quy mô ngân sách
được kiểm toán hàng năm cũng tăng nhanh. Có thể thấy như năm 2009 mặc
dù tổng số cuộc kiểm toán đối với tình hình thực hiện ngân sách các tỉnh,
thành phố chỉ là 37 cuộc tăng thêm 2 cuộc so với 2008 tuy nhiên quy mô ngân
sách được kiểm toán lại tăng mạnh. Cụ thể thu ngân sách được kiểm toán tăng
34% (bằng 234.767 tỷ đồng); chi ngân sách tăng 45% (bằng 88.364 tỷ đồng).
Nguyên nhân do một số đơn vị có quy mô thu - chi ngân sách lớn đã được
kiểm tra, như: TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Thanh Hóa, Bà Rịa - Vũng

Tàu
Trong quá trình lựa chọn đơn vị được kiểm toán cũng đã chú ý đến vấn
đề ưu tiên số lớn trong chọn mẫu. Nhiều bộ, ngành, tỉnh thành phố có số thu
chi ngân sách lớn trước đây thường được kiểm toán 2 đến 3 năm một lần thì
nay thường được kiểm toán hàng năm.
Kết quả kiểm toán Nhà nước 2010 về niên độ ngân sách 2009
a. Về quyết toán thu chi cân đối NSNN
Công tác quản lý thu NSNN: Mặc dù trong điều kiện nền kinh tế suy
giảm, phải thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn nộp thuế để hỗ trợ doanh
nghiệp vượt qua khó khăn nhưng thu ngân sách vẫn vượt dự toán 16,6%; nếu
loại trừ các yếu tố tăng thu có tính chất bất thường, số thu vẫn vượt 8,6% dự
25

×