Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN xử lí các tình huống sư phạm ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.14 KB, 19 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỀN AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO VIỆC GIẢI QUYẾT
MỘT SỐ TÌNH HUỐNG SƯ PHẠM Ở LỚP 5D
-TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỀN AN
Người thực hiện:
NguyÔn ThÞ Thu Thanh
Hiền An, tháng 01 năm 2010
MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài 2
II. Đối tượng nghiên cứu 2
III. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
IV. Phương pháp nghiên cứu 3
NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận chung 3
1. Năng lực đối xử khéo léo sư phạm 3
2. Một số đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học 5
II. Vận dụng vào việc ứng xử các tình huống sư phạm thường
gặp ở lớp 5D Trường Tiểu học Hiền An. 7
A. Vài nét sơ lược về Trường Tiểu học Hiền An 7
B. Vận dụng lý luận vào việc giải quyết một số tình huống sư phạm
ở lớp 5D Trường Tiểu học Hiền An 8
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
I. Kết luận. 16
II. Đề xuất. 16


PHẦN MỞ DẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hằng ngày tôi phải tiếp xúc với nhiều học sinh và trong quá trình giao tiếp đó sẽ
không khỏi vấp phải một vài tình huống khó xử nào đó. Vì thế phải làm thế nào để ứng
xử khéo léo các tình huống một cách hợp lý, hợp tình, có tính giáo dục là điều mà chúng
tôi quan tâm.
Ở lứa tuổi tiểu học, tâm lý của các em đã và đang phát triển, học sinh nhận thức
nhanh chóng sự việc xảy ra, đồng thời học sinh thường hay học theo cách nói năng hoặc
những hành động của giáo viên ( người lớn). Vì vậy, người giáo viên ngoài công tác
giảng dạy ra thì công tác giáo dục cũng là vấn đề quan trọng cần lưu ý đến.
Người giáo viên muốn xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa thầy và trò thông qua mọi
hoạt động giữa giáo viên và học sinh thì trước hết thì giáo viên phải biết khéo léo trong
lúc cư xử với học sinh. Giáo viên phải hiểu được tâm lý của học sinh để có những
phương pháp, biện pháp hay những lời khen, chê đúng mức, đúng lúc , đúng nơi. Nếu
giáo viên không ứng xử khéo léo thì sẽ gây ấn tượng không tốt đối với học sinh và sau
đó thì liệu việc giáo dục của giáo viên có đạt hiệu quả tốt hay không? Việc vận dụng
những lý luận tâm lý học, giáo dục học vào những tình huống thực tiễn là một điều hết
sức cần thiết đối với chúng tôi. Chuẩn bị một vài tình huống và cách ứng xử các tình
huống nhằm làm cho mối quan hệ Thầy – Trò ngày càng tốt đẹp và để khỏi phải bối rối
khi có tình huống xảy ra với mình là lý do tại sao tôi chọn đề tài này.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Vận dụng lý luận vào việc ứng xử các tình huống sư phạm ở lớp 5D trường Tiểu học
Hiền An
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Tìm hiểu thực trạng các loại tình huống thường gặp ở lớp 5C, 5D trường Tiểu học
Hiền An và tìm giải pháp tốt nhất đối với các tình huống đó.
2. Một số đề xuất để giải quyết các tình huống sư phạm được tốt hơn.
* Thời gian nghiên cứu:
Năm học 2009 – 2010
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

- Tham khảo các tài liệu, văn bản có liên quan hằm tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề
cần nghiên cứu.
- Quan sát, trò chuyện nhằm thu thập các tình huống.
- Phân loại tình huống.
- Luyện tập kỹ năng, kỹ xảo ứng xử.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG:
1. Năng lực đối xử khéo léo sư phạm:
Giáo dục và dạy học là vấn đề luôn luôn được nâng cao và phát triển, ta có thể coi đó
là một hiện tượng.
Hiện tượng giáo dục tức là thế hệ đi trước truyền lại những kinh nghiệm và tích luỹ
được trong quá trình giáo dục và giảng dạy cho các thế hệ đi sau sự truyền đạt và lĩnh
hội những tri thức, kinh nghiệm đã được tích luỹ là những vấn đề cơ bản của giáo dục
với tư cách là một hiện tượng xã hội.
Một xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải có giáo dục và đào tạo, đó là điều tất
yếu, đó là quy luật của sự tiến bộ xã hội, trong đó thế hệ đi sau phải học hỏi, chiếm lĩnh
được kinh nghiệm mà thế hệ đi trước đã tích luỹ và truyền lại, thế hệ đi sau phải tiếp tục
bổ sung để làm phong phú và hoàn thiện kho tàng trí thức.
Là một giáo viên ai cũng muốn hoạt động giáo dục của mình có hiệu quả. Thế nhưng
điều này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khách quan và chủ quan tham
gia vào quá trình giáo dục. Học sinh là một trong những nhân tố quan trọng của quá
trình giáo dục.
Học sinh tiểu học vẫn chưa phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý cũng như nhân cách
của mình. Vì vậy, trong quá trình giáo dục đòi hỏi người thầy phải nắm thật vững đặc
điểm tâm lý của học sinh ở lứa tuổi này, phải hiểu được những điều đang diễn ra trong
tâm hồn các em.
Vấn đề chủ yếu trong sự khéo léo đối xử sư phạm là kỹ năng tìm ra những phương
thức tác động đến học sinh một cách hiệu quả nhất, là sự cân nhắc đúng đắn những
nhiệm vụ sư phạm phù hợp với những đặc điểm và khả năng của học sinh trong từng
tình huống cụ thể.

Những năng lực đối xử khéo láo sư phạm mà người giáo viên cần lưu ý, đó là:
+ Sự thống nhất giữa tình thương yêu có lý của giáo viên đối với học sinh và những
hình thức đối xử hoàn thiện về mặt sư phạm.
+ Sự thống nhất giữa việc tôn trọng nhân cách học sinh và tính yêu cầu cao có cơ sở
về mặc sư phạm.
+ Sự thống nhất giữa niềm tin và sự kiểm tra sư phạm.
+ Sự cân bằng giữa ý chí khi giao tiếp kết hợp tính giản dị, tự nhiên, và có thiện chí
của những hình thức đối xử.
Ngoài ra, trong thực tiễn hoạt động sư phạm, người thầy giáo cần phải biểu hiện sự
nhạy bén về mức độ sử dụng các động tác sư phạm ( như khuyến khích, trách phạt, ),
những động tác này quá lời, quá mức thì có thể dẫn đến “ Phản sư phạm”.
Giáo viên phải nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những biện
pháp thích hợp để xử lý.
Phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ, không nóng
vội và thô bạo.
Biến cái bị động thành cái chủ động, giải quyết tốt những vấn đề phức tạp đặt ra
trong công tác dạy học và giáo dục. Người thầy giáo phải biết quan tâm đến học sinh.
Tóm lại. muốn đạt hiệu quả khi giảng dạy, người giáo viên không những phải chuẩn
bị tốt giáo án mà còn phải nắm vững những thủ thuật để sử dụng phương pháp dạy học
một cách hợp lý và phải dự kiến trước thái độ ứng xử của học sinh.
2. Một số đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học.
Đặc điểm tâm lý, biểu hiện đặc trưng của nhân cách học sinh tiểu học là tính hồn
nhiên, là khả năng phát triển (đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học).
Học sinh tiểu học có tình cảm hồn nhiên, mang nặng màu sắc cảm tính. Cùng với quá
trình học tập và phát triển tâm lý, tình cảm đó được củng cố và phát triển trên cơ sở nhận
thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn đối tượng và chuẩn mực của các mối quan hệ
trong cuộc sống của các em.
Đặc điểm tình cảm:
Học sinh tiểu học dễ cảm xúc trước thế giới. Các em thường biểu hiện cảm xúc trong
khi tri giác trực tiếp các sự vật, hiện tượng cụ thể cường độ cảm xúc mạnh mẽ, dễ xúc

động, khó kìm hãm và khó làm chủ tình cảm của mình.
Tình cảm của học sinh tiểu học chưa bền vững:
Các em thường hay thay đổi tâm trạng, thiên về xúc động, biểu hiện khá mạnh và
trong chốc lát sự vui mừng, tự hào, lo sợ, hờn giận.
Tóm lại, các em ở tuổi này giàu cảm xúc, nhiều tình cảm mới được hình thành nhưng
chưa bền vững.
Đặc điểm ý chí của học sinh tiểu học:
Học sinh tiểu học chưa có khả năng tự lập chương trình hành động, do ý chí chưa
được phát triển đầy đủ.
Các phẩm chất ý chí như: Tính độc lập, tính kìm chế và tự chủ còn thấp.
Trẻ dễ bắt chước hành động của người khác, kể cả những hành động vượt quá sức
trẻ, đôi lúc tính bộc phát, ngẫu nhiên được thể hiện trong hành động của trẻ.
Đặc điểm chú ý:
Ở học sinh cấp I, chú ý không chủ định còn giữ vai trò chính, sức tập trung chú ý
chưa cao, chú ý chưa bền vững.
Đặc điểm hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học:
Ở lứa tuổi này rất hồn nhiên, ham tìm tòi, khám phá cái mới, điều này nói lên trí tuệ
của các em đang phát triển, đang mong muốn nhận thức của học sinh cấp I thiên nặng về
nhận thức cảm tính, tức là nhìn nhận sự việc, hiện tượng ngay trước mắt mình chứ chưa
nhìn nhận được mọi sự vật, hiện tượng bên trong.
Ở tuổi này học tập cũng đã trở thành hoạt động chủ đạo, nhưng các em say mê học
tập chưa phải vì nó nhận thức được trách nhiệm đối với xã hội mà chủ yếu vì những
động cơ mang ý nghĩa tình cảm như: trẻ học được nhiều điểm tốt, được thầy cô, bố mẹ
khen, bạn mến,
Về mặt hành động các em rất hiếu động, ở độ tuổi này bắt đầu phát triển nhận thức lý
tính tức là phát triển những tư duy mới.
Đặc điểm trí nhớ:
Trí nhớ của các em được xây dựng trên cơ sở mới của quá trình học tập, được điều
khiển một cách có ý thức. Trí nhớ được thay đổi phù hợp với sự thay đổi của hoạt động
chủ đạo. Trí nhớ trở thành điều kiện, đồng thời là kết quả của quá trình học tập.

Do ảnh hưởng học tập, trí nhớ của học sinh tiểu học được phát triển theo hai hướng:
Tăng cường vai trò của ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ logic so với ghi nhớ
trực quan hình tượng.
Trẻ có khả năng điều khiển một cách có ý thức trí nhớ của mình cũng như điều chỉnh
sự nhận lại và nhớ lại một cách có chủ định.
II. VẬN DỤNG VÀO VIỆC ỨNG XỬ CÁC TÌNH HUỐNG SƯ PHẠM THƯỜNG
GẶP Ở LỚP 5D TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỀN AN
A. Vài nét sơ lược về TrườngTiểu học Hiền An
Trường Hiền An thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trường có gần 24 phòng học, có 3 phòng làm việc và thư viện với đầy đủ sách cho
giáo viên, học sinh và các dụng cụ dạy - học khác.
Trường xây dựng tốt kế hoạch năm học và đề ra phương hướng hoạt động chủ yếu
trong năm học nhằm để công tác giáo dục và giảng dạy đạt hiệu quả cao. Trường hoạt
động có nề nếp - quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được phân công cho từng tổ chuyên
môn.
Quan hệ giữa giáo viên và học sinh tốt, giáo viên luôn gần gũi, động viên học sinh
học tập, giúp đỡ những em có hoàn cảnh khó khăn. Giáo viên luôn dùng những lời hay
lẽ phải để giáo dục các em, tạo không khí vui tươi trong giờ học và tạo ấn tượng tốt đối
với học sinh, phù hợp với xu hướng trường học thân thiện.
Về giảng dạy, việc lĩnh hội tri thức của học sinh được đưa lên hàng đầu, giáo viên
chuẩn bị tốt bài giảng, biết tính đến trình độ văn hoá, trình độ phát triển của học sinh và
từ đó có phương pháp giảng dạy tốt và đạt hiệu quả cao.
Trường có 06 giáo viên dạy giỏi ( thuộc huyện), và 01 giáo viên dạy giỏi ( thuộc
tỉnh). Qua đó cũng cho thấy đội ngũ giáo viên đa số đều có kinh nghiệm giảng dạy, luôn
được chuẩn hoá và nâng cao.
Lớp 5D có sĩ số 28 học sinh/11nữ. Các em chủ yếu sống tập trung ở khu vực Hiền
Hoà (Tân Vinh), một số em khác sống rải rác ở Hiền Vân và Hiền An.
Nói chung do hoàn cảnh gia đình nên đa số các em chưa có đầy đủ đồ dùng cũng như
điều kiện tốt khi đến lớp. Phụ huynh chưa có sự quan tâm, nhắc nhở nên ý thức của các
em rất kém (trong học tập và cả trong giao tiếp).

B. Việc vận dụng lý luận vào giải quyết một số tình huống sư phạm ở Trường Tiểu
học Hiền An.
Lý luận là những vấn đề chung, nhưng trong thực tế thì những tình huống xảy ra rất
đa dạng, mỗi tình huống đều có cách ứng xử cụ thể khác nhau. Trong phạm vi đề tài
này,bản thân tôi nghiên cứu, phân ra 06 loại tình huống thường gặp và cách giải quyết
các loại tình huống sư phạm như sau:
1) Loại 1:
Đang giảng dạy trên lớp có một nhóm học sinh mất trật tự.
* Cách giải quyết loại tình huống này:
- Trước hết tôi xem thử tại sao học sinh lại mất trật tự. Nếu chỉ là vô tình thì tôi có
những biện pháp sau:
+ Đổi chỗ những học sinh mất trật tự đó, việc phân tán mỏng lực lượng sẽ làm các
em giảm tối thiểu cơ hội nói chuyện và sẽ tập trung vào học.
+Nếu vì một câu chuyện nào đó của một bạn trong nhóm thì tôi sẽ nhắc nhở các em
hãy chú ý đến bài học, tôi nghĩ rằng ngay sau đó các em sẽ chăm chú vào bài giảng của
tôi.
- Nếu các em cố ý gây mất trật tự thì tôi phải tìm hiểu xem lý do tại sao và có từng
cách giải quyết cụ thể khác nhau:
+Nếu cố ý vì không hiểu bài thì tôi sẽ xem lại phương pháp dạy, cách truyền thụ tri
thức của mình để điều chỉnh kịp thời, vìcó thể các em không hiểu bài nên “bỏ qua”luôn.
+ Nếu lúc đó tôi thấy mình vẫn dạy tốt, một số học sinh khác (ngoài nhóm mất trật
tự) vẫn trả lời tốt câu hỏi của tôi, thì như vậy có nghĩa là những học sinh đó chỉ thích nói
chuyện (mất trật tự) mà không chịu học thì tôi sẽ gọi một em trong nhóm đó và nêu một
vài câu hỏi có liên quan đến bài học tôi vừa giảng, chắc chắn em đó sẽ không trả lời
được câu hỏi của tôi, còn nếu trả lời được thì tôi cũng sẽ nhắc nhở (chung cho cả nhóm):
“Các em học tập như vậy sẽ không tiếp thu được bài mới và khó làm tốt bài tập,nếu các
em cứ liên tục như vậy thì kết quả học tập của các em sẽ không tốt và cô nghĩ đó không
phải là điều mà bố mẹ các em và cô mong đợi. Vì vậy các em hãy cố gắng lên, em nào
không hiểu bài thì cứ theo dõi rồi cuối giờ cô sẽ giảng lại”.
* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống 1:

- Ở đây đối tượng dạy học của tôi là học sinh tiểu học, vì vậy nếu có gây mất trật tự
thì đó cũng chỉ là vô tình chứ chưa phải là cố ý. Các em ở lứa tuổi này còn rất sợ giáo
viên và sự mất trật tự đó chỉ là hiếu động nhất thời, vì vậy giáo viên “ chú ý” nhiều đến
học sinh thì các em sẽ nghiêm túc ngay.
Học sinh tiểu học chú ý chưa bền vững, sức tập trung chú ý chưa cao.
Tính kiềm chế của các em còn kém. Vì vậy khi gặp tình huống này giáo viên trước
hết phải thể hiện sự tôn trọng nhân cách học sinh, đồng thời phải có yêu cầu cao đối với
các em.
Tôi nghĩ rằng với lứa tuổi này ( tiểu học), dù các em có vô tình hay cố ý thì tôi cũng
sẽ dùng những lời lẽ nhẹ nhàng để nhắc nhở, động viên các em và tuyệt đối không dùng
những cử chỉ, hành động hay những lời nói nặng nề đối với học sinh, bởi điều đó làm
cho các em cảm thấy xúc phạm và sẽ có phản ứng không tốt.
2) Loại 2:
Một số học sinh cố ý coi thường mình
* Cách giải quyết tình huống loại 2.
Học sinh đã ‘cố ý” coi thường mình, thì với tôi, trước tiên tôi sẽ đặt câu hỏi tại sao?
Phẩm chất là thành phần cơ bản của nhân cách người giáo viên, vì vậy tôi sẽ tìm hiểu
nguyên nhân tại sao để có hướng giải quyết tốt.
- Nếu như sự coi thường đó xuất phát từ người giáo viên thì lúc đó tôi phải xem xét
lại bản thân mình và tự hỏi: Tại sao học sinh lại coi thường mình? Có thể vì tôi làm một
việc gì đó mà học sinh không thích, hay có thể tôi đã sai hứa với học sinh, từ đó làm cho
học sinh có ấn tượng không tốt với mình, Nếu vậy tôi sẽ xin lỗi và sẽ sữa chữa những
sai sót của mình
- Nếu thấy mình không có gì để học sinh phải xem thường thì nhân dịp nào đó tôi sẽ
trao đổi, tâm tình và tỏ ra thân thiện với học sinh và nó sẽ có những tác động tâm lý đến
học sinh.
Học sinh ở lứa tuổi này rất bướng, vì vậy có thể khi hỏi chuyện em đó sẽ trả lời một
cách miễn cưỡng hoặc không nói chuyện với tôi, bởi vậy những ngày tiếp theo tôi sẽ duy
trì sự tiếp xúc đó, luôn gần gủi học sinh để các em hiểu mình hơn, đồng thời tôi cũng sẽ
tìm ra lý do tại sao em đó lại có thái độ như vậy.

- Nếu mọi cố gắng của tôi đều không đạt kết quả thì còn một cách duy nhất là kiên trì
theo dõi, gần gũi với học sinh. Thông thường tôi sẽ uốn nắn học sinh đó ngay lúc mà
học sinh đó cố tình vi phạm.
* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống loại hai:
Ở bậc tiểu học, các em thường xem giáo viên như là linh hồn của mình, cho nên mọi
cử chỉ, lời nói của giáo viên đều được các em quan tâm, trong quá trình đó dù giáo viên
có mắc một lỗi gì dù nhỏ cũng đều có ấn tượng không tốt đối với các em.
Giáo viên khi gặp tình huống này trước hết phải biết đặt vị trí của mình vào vị trí học
sinh xem thử học sinh đang nghĩ gì để có cách xử lý tốt nhất.
Vì là học sinh cấp I nên sự đồng cảm giữa giáo viên và học sinh là vô cùng quan
trọng, giáo viên phải biết xác định vị trí của mình trong quá trình giao tiếp để hiểu rõ
học sinh. Các em ở tuổi này thường rất bướng bỉnh, cho nên giáo viên phải thực sự hiểu
rõ về tâm lý các em thì các em sẽ quên đi dấu ấn không tốt về người thầy của mình, vì
các em khó kìm hãm và khó làm chủ tình cảm của mình nên có thể sự coi thường đó chỉ
là bộc phát.
Đây là học sinh cấp I nên giáo viên phải xử lý thế nào để lần sau học sinh đó không
còn coi thường mình nữa. Giáo viên có thể kết hợp với gia đình để có sự uốn nắn kịp
thời.
Tất nhiên kết quả của sự tác động phụ thuộc vào thái độ tình cảm của người giáo
viên, giáo viên không nên có những lời lẽ phê phán một cách nặng nề bởi điều đó sẽ
mang lại kết quả không tốt và lâu dần sẽ tích luỹ trong học sinh sự phản kháng, điều đó
sẽ bất lợi đối với giáo viên trong việc giáo dục và dạy học.
3) Loại 3:
Hai học sinh trong lớp mình chủ nhiệm có bất đồng cần giải quyết.
* Cách giải quyết chung của loại tình huống này:
Việc tôi làm đầu tiên là gặp riêng hai em đó và hỏi nguyên nhân của sự bất đồng của
hai em, sau đó tôi sẽ có cách xử lý tuỳ thuộc vào từng nguyên nhân. Ở lứa tuổi này
thuờng hay có những bất đồng như:
- Trong lúc chơi ( nhảy dây, kéo co…) nhưng do sự bực tức vì hơn thua hay có một
bạn không trung thực trong khi chơi. Nếu là như vậy thì tôi sẽ gọi riêng hai học sinh để

trao đổi, phân tích cho các em thấy được cái đúng, cái sai của mình và sau đó tôi sẽ hoà
giải cho hai em và khuyên hai em bỏ qua mọi chuyện và trở thành bạn tốt của nhau.
Ở đây tôi chỉ giải quyết riêng giữa hai em chứ không đưa ra trước lớp, vì đây là lớp
tiểu học nên có thể các em sẽ bị bạn bè trêu chọc, điều đó không hay cho các em.
- Nếu bất đồng vì lý do như: Dành nhau quyển sách, truyện, rồi dẫn đến đánh nhau
thì lúc này tôi sẽ đưa vào xử lý trước lớp để phân tích cho cả lớp nói chung và hai em
học sinh đó nói riêng để các em nhìn nhận được cái sai, đúng và cho hai em đó tự hứa
trước lớp.
Sau cùng tôi sẽ kể cho cả lớp nghe về những tấm gương tốt về tình bạn.
* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống loại 3:
Ở tuổi này ý thức tập thể của các em chưa cao. Các em thường hay kiện nhau dù là
việc nhỏ nhất, thế nhưng các em cũng rất nhanh quên. Học sinh tiểu học là tuổi nhiều
cảm xúc, trong mỗi em đều đang hình thành những tình cảm mới, vì vậy tình bạn chưa
bền vững, các em thường hay thay đổi tâm trạng một cách nhanh chóng.
Ở đây tôi chỉ giải quyết cá nhân giữa hai em hay có thể đưa ra trước lớp, bởi vì ở lứa
tuổi này các em sẽ nhanh quên nên tôi chỉ xử sự như vậy để các em hiểu được sự việc và
thoả mãn được bất đồng của mình, đồng thời để các em hiểu được bạn mình hơn và có
mối quan hệ bạn bè tốt đẹp. Vì vậy mà tôi chỉ dùng uy tín để giáo dục học sinh.
4) Loại 4:
Bạn không tìm được câu trả lời chính xác đối với câu hỏi của học sinh ( Trong khi
giảng dạy trên lớp).
* Cách giải quyết chung của loại tình huống này:
Ở lứa tuổi tiểu học, các em thường hay có những thắc mắc và nảy sinh ra những câu
hỏi nhiều khi không nằm trong dự kiến bài học:
Có thể tôi sẽ gọi vài em học sinh giỏi trong lớp trả lời câu hỏi và nếu thấy đã tìm ra
câu trả lời chính xác thì tôi sẽ bổ sung ý của tôi vào để có câu trả lời hoàn chỉnh, chính
xác và logic, có sức thuyết phục.
Còn nếu không có học sinh nào trả lời được và bản thân tôi cũng cảm thấy chưa trả
lời được chính xác thì tôi sẽ nói:
“ Câu hỏi này thật hay, cô chưa muốn giải đáp ngay bây giờ, mà các em hãy coi như

đây là một bài tập về nhà và hãy tìm hiểu để tìm ra câu trả lời. Em nào có câu trả lời
đúng và hay nhất cô sẽ ghi điểm tốt”.
* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống loại 4:
Ở lứa tuổi này rất hồn nhiên, ham tìm tòi, muốn khám phá cái mới vì lúc này trí tuệ
các em đang phát triển, đang mong muốn nhận thức được nhiều vấn đề, vì vậy có thể
đưa ra những câu hỏi “ hóc búa” mà nhiều giáo viên cũng phải lúng túng. Mặc dù không
trả lời được câu hỏi nhưng tôi cũng sẽ không thể hiện để các em biết mình không trả lời
được câu hỏi của học sinh mà chỉ nói với các em “ Xem đây như là bài tập”, nếu các em
biết được giáo viên không trả lời được câu hỏi của mình thì sẽ gây cho các em cảm giác
hụt hẫng, và dần dần sẽ làm cho các em mất lòng tin, điều đó dẫn đến sự khó khăn trong
quá trình giáo dục của giáo viên.
5) Loại 5:
Trong giờ chữa bài tập học sinh đã phát hiện ra sai sót của giáo viên.
* Cách giải quyết chung của tình huống này:
Một số người cho rằng nếu gặp tình huống này giáo viên chỉ cần lên bảng sửa lại đáp
số bài toán và kèm theo một câu xin lỗi học sinh là được.
Nhưng với tôi, tôi không đồng ý với cách giải quyết như vậy và tôi sẽ ứng xử như sau:
Lúc đó tôi sẽ nói: ‘À, đúng rồi, bài toán này cô cố ý làm sai đáp số nhưng mà chỉ có bạn
A phát hiện ra, cô làm như vậy để xem các em có thật vững khi làm toán không. Cô
khen bạn A đã phát hiện nhanh, như vậy bạn A đã nắm vững bài học, thế là rất tốt, cô đề
nghị cả lớp cho một tràng vỗ tay để biểu dương bạn A. Các em khác khi làm bài nhớ cẩn
thận chứ không phải chỉ chép theo bảng nhé!”.
* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống này:
Bởi vì ở độ tuổi này nhân cách học sinh đang phát triển, khả năng lĩnh hội tâm lý học
được hình thành đồng thời học sinh coi giáo viên như là linh hồn, là thần tượng của
mình, nhất cử nhất động của giáo viên đều được học sinh ‘quan tâm” theo dõi, nên nếu
giáo viên chỉ sữa sai đáp số bài toán và xin lỗi có lẽ không thuyết phục học sinh cho
lắm. Vì vậy mà giáo viên cần phải biết linh hoạt và nhanh chóng biến tình huống này
thành cái chủ động cho mình, sau đó là giải thích cho học sinh hiểu tại sao lại viết sai
đáp số.

Ở tuổi này các em rất nhạy bén, nếu giáo viên chỉ sữa chữa như một số người đã làm
thì tôi e rằng học sinh sẽ nghĩ: Cô còn sai nữa là. Và học sinh sẽ không “tâm phục khẩu
phục giáo viên”.
6) Loại 6:
Một học sinh trong lớp bị mất cắp dụng cụ học tập.
* Cách giải quyết chung:
Thật sự đây là một tình huống khó xử đối với bất kì một giáo viên nào, và tôi đã xử sự
như sau:
Trước hết tôi nói: “em nào đã thu cây bút của bạn B thì cuối giờ đưa cho cô để cô trả
lại cho bạn”. Ở đây tôi chỉ bảo em học sinh đưa cho tôi bởi vì tôi nghĩ nếu em này trả lại
trực tiếp cho em học sinh bị mất bút ( dụng cụ học sinh) thì cả em bị mất bút và các bạn
trong lớp sẽ nghĩ không tốt về bạn mình và em này sẽ bị các bạn nghĩ xấu, điều đó ảnh
hưởng đến tâm lý của học sinh.
Nếu kết quả là chẳng có em nào nhận là mình thu cả, vì vậy việc tôi làm tiếp theo là tôi
nói với cả lớp: Nếu không có em nào thu cây bút của bạn thì cô giao việc này cho Ban
cán sự lớp làm và việc của ban cán sự lớp là các em làm sao phải tìm ra cây bút cho bạn
B. Và ngay ngày hôm đó em B đã nhận lại được cây bút của mình.
* Cơ sở lý luận khi giải quyết tình huống này:
Ở đây, tôi đã không sử dụng cách khám xét cặp của các em, bởi vì các em ( lớp 3,4,5)
đã biết nhìn nhận được sự việc, nếu tôi làm như vậy các em sẽ nghĩ rằng tôi “ nghi” cho
các em, như vậy có nghĩa là tôi tự đánh mất niềm tin của các em đối với mình.
Sau khi em B nhận lại được cây bút, tôi đã nói với cả lớp: “lấy nhầm bút ( hay cái gì
khác) của bạn là không tốt, nhưng các em đã nhận thấy cái sai của mình để trả lại cho
bạn là một việc làm đáng khen. Cô hy vọng sau sự việc này, lớp chúng ta sẽ không có ai
mắc phải sai lầm nữa”.
Sỡ dĩ tôi làm như vậy là vì các em đang ở trong độ tuổi hình thành và phát triển nhân
cách, hình thành những thói quen và hành vi cuộc sống. Vì vậy, nếu giáo viên “bỏ qua”
chuyện này thì các em sẽ có ý nghĩ cho rằng hành vi đó không phải là xấu, điều đó rất có
hại cho các em.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

I. KẾT LUẬN.
Giao tiếp với mọi người là một nghệ thuật mà không phải ai cũng làm được. Ứng xử
với học sinh cũng là một nghệ thuật, người giáo viên phải hiểu được tâm lý của học sinh,
đặc điểm và hoàn cảnh của học sinh. Không những thế giáo viên phải linh hoạt với mỗi
tình huống xảy ra và cách ứng xử phải mang tính khoa học, tính thuyết phục và tính giáo
dục cao. Và dù có phải gặp tình huống nào đi nữa thì điều đầu tiên được đặt ra với người
giáo viên là phải có lòng yêu nghề mến trẻ và sự khéo léo, đồng thời phải biết bình tĩnh
suy xét mọi sự việc để tìm ra hướng giải quyết hợp lý, hợp tình. Bên cạnh đó, người giáo
viên cũng cần tránh những áp đặt, tránh những lời lẽ hay hành động nặng nề, tránh nóng
vội để xảy ra những sai lầm khônng đáng có khi xử lý tình huống.
Tóm lại, tài ứng xử sư phạm không gì khác hơn là một bộ phận của nghệ thuật sư
phạm. Cho nên, cơ sở hình thành nên nó cũng là do lương tâm nghề nghiệp, niềm tin yêu
và lòng tôn trọng người mà mình dạy dỗ, tinh thông nghề nghiệp.
II. ĐỀ XUẤT:
* Để vận dụng có hiệu quả trong các tình huống ứng xử sư phạm, nhà sư phạm cần
phải:
+ Sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, chính xác.
+ Hiểu được đặc điểm tâm lý của lứa tuổi, trình độ phát triển nhân cách của mỗi học
sinh và tập thể.
+Tôn trọng các em, công bằng với các em và luôn có yêu cầu cao đối với các em.
+ Nắm bắt kịp thời những tình huống sư phạm và có cách ứng xử hợp lý.
+ Phải luôn tìm tòi, học hỏi, rèn luyện để nâng cao nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện các
phẩm chất ý chí.
* Với nhà trường:
+ Tổ chức nhiều buổi toạ đàm để nhằm trao đổi kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau.
+ Tổ chức thường xuyên các cuộc thi ứng xử khéo léo sư phạm.
Hiền An, tháng 1 năm 2011
Người thực hiện
NguyÔn ThÞ Thu Thanh


Ý kiến của Hội đồng Khoa học nhà trường
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………….
Ý kiến của Hội đồng Khoa học Phòng Giáo dục- Đào tạo
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

×