Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận môn Sinh Học Phân Tử ARN CAN THIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.18 KB, 27 trang )

RNA CAN THIỆP
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: SINH HỌC PHÂN TỬ
Đề tài:
ARN CAN THIỆP
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 1
Giảng viên hướng dẫn: Học viên thực hiện:
PGS.TS Nguyễn Bá Lộc Phạm Thị Việt Hà
Lớp: Thực vật học - K22
Huế, 01/2014
RNA CAN THIỆP
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
RNA Can thiệp (RNA inteference, RNAi) là một trong những đột phá
công nghệ quan trọng nhất trong sinh học hiện đại. Phát minh RNA can
thiệp – một cơ chế điều khiển hoạt hóa gen mới, mang tính đặc thù cao và
tính phổ biến rộng ở sinh vật nhân chuẩn. RNAi có thể làm ngừng hoàn toàn
( knock out) hoặc làm giảm ( knock down) biểu hiện của gen đặc thù. Hoạt
động của RNAi làm cho cơ thể phân hóa và phát triển bình thường, có khả
năng miễn dich với các tác nhân gây bệnh nhất là virus. Dựa trên cơ chế này,
khoa học hiện đại đã biến chúng thành một công cụ để chữa bệnh và chống
lại các tác nhân gây bệnh ở thực vật, động vật.
B. NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU VỀ RNA CAN THIỆP
1. Khái niệm RNAi
RNA can thiệp ( RNAi, RNA interference ) là một hệ thống bên
trong các tế bào sống , giúp kiểm soát được các gene đang hoạt động. Đó là
những đoạn RNA ngắn có thể ức chế sự biểu hiện của các gene có trình tự
tương đồng với nó.


Các phân tử RNAi này có thể gây lên các hiêu ứng: ức chế dịch mã đơn
vị mRNA, ức chế sự phiên mã của gene ở trong nhân, phân giải mRNA.
2. Lịch sử nghiên cứu
Năm 1984, Pesthea và các cộng sự đã nghiên cứu kỹ thuật Antiense-
RNA trên vi khuẩn Escherichia Coli được đăng trên tạp chí PNAS số 81.
Trong nghiên cứu này một cấu trúc plasmid được thiết kế để tổng hợp đoạn
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 2
RNA CAN THIỆP
RNA bổ sung cho phân tử mRNA beta-galactosidase dưới sự điều khiển của
một promoter PL. Khi phân tử RNA chiều ngược (antisense RNA) được
hình thành thì các nhà khoa học quan sát được rằng sự tổng hợp protein
beta-galactosidase bị ức chế gần như hoàn toàn (98%). Tuy nhiên trong giai
đoạn này các nhà khoa học vẫn chưa hình dung được cơ chế nào gây ra sự
ức chế các gen trên.
Đến những năm dầu thâp niên 1990, những báo cáo đầu tiên được
công bố trên các tạp chí quốc tế (Napoli và các cộng sự, 1990; van der Krol
và các cộng sự, 1990). Quan sát đầu tiên hiện tượng này là trên một nghiên
cứu của hoa dạ yến thảo (petunia). Các nhà khoa học đã cố gắng tạo màu tím
trên cánh hoa petunia bằng cách chuyển gen quy định màu tím Chalcone
synthase (CHS) dưới sự điều khiển của một promoter mạnh (promoter 35S).
Gen CHS là gen có liên quan đến chu trình hình thành chất anthocyanin
trong hoa petunia. Tuy nhiên thay vì hình thành màu tím của cánh hoa như
mong đợi thì chúng lại thể hiện các đốm màu khác nhau và thậm chí là màu
trằng. Hiện tượng này các nhà khoa học đặt thuật ngữ là "cosuppresion"
nghĩa là "đồng ức chế" bởi vì sự biểu hiện của gen chuyển vào và gen nội
sinh trong hoa petunia đều bị ức chế như nhau.
Năm 1994, Cogoni và cộng sự đã tiến hành thí nghiệm tăng màu cam
của nấm Neurospora crassa thông qua việc chuyển một gen có chức năng tạo
ra carotenoid. Tuy nhiên thay vì tạo ra màu cam như mong muốn thì nấm
hầu như không thể hiện. Hiện tượng này được các nhà khoa học đặt tên là

"quelling".
Năm 1995, trên tạo chí Cell số 81, nhóm nghiên cứu của Guo và
Kemphues đã đưa ra bằng chứng đều tiên trên tuyến trùng Caenorhabditis
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 3
RNA CAN THIỆP
elegans rằng phân tử RNA chiều thuận vẫn có thể gây ra ức chế gen với hiệu
quả tương đương với phân tử RNA chiều ngược. Trong thí nghiệm này các
tác giả đã tiêm phân tử RNA chiều ngược vào trong C.elegans để ức chế gen
par-1 nhằm xác định chức năng của gen này và đồng thời cũng tiến hành thí
nghiệm tương tự với phân tử RNA chiều thuận. Kết quả là các phân tử RNA
của cả hai chiều đều ức chế sự biểu hiện của gen par-1. Điều này gây ra một
sự lúng túng bởi vì điều mong đợi nhất của các nhà khoa học là phân tử
RNA sẽ bắt cặp với mRNA chiều thuận (sense mRNA) của gen par-1 nhằm
ức chế khả năng mã hóa protein của nó.
Phải đến 3 năm sau, năm 1998, nhóm nghiên cứu của Fire đã giải
thích được điều nghịch lý này bằng những thí nghiệm cũng trên tuyến trùng
C.elegans. Mục đích của những thí nghiệm này là kiểm tra xem sự hỗ trợ lẫn
nhau giữa các phân tử RNA theo cả hai chiều trong quá trình ức chế sự biểu
hiện của gen. Kết quả là phức chất dsRNA ức chế sự biểu hiện của gen gấp
10 lần so với việc dùng phân tử RNA đơn lẻ theo chiều thuận hay chiều
nghịch. Hơn thế nữa khi loại bỏ dsRNA thì các phân tử đơn RNA theo chiều
thuận hay chiều nghịch dần dần mất tác dụng ức chế gen. Như vậy nhóm
nghiên cứu của giáo sư Fire đã xác định được nguyên ngân chủ yếu của hiện
tượng RNA silencing chính là do phân tử dsRNA gây nên. Hiện tượng này
được các nhà khoa học đặt cho một thuật ngữ là RNA interference (RNAi).
Việc tiêm mRNA mã hóa protein cơ không gây ra sự thay đổi nào ở giun.
Mã di truyền của mRNA được mô tả như là một trình tự “có ý nghĩa”
(sense). Việc tiêm RNA “vô nghĩa” (antisense), một trình tự bổ sung với
mRNA, cũng không mang lại tác động nào. Nhưng khi Fire và Mello tiêm
RNA “có ý nghĩa” và “vô nghĩa” cùng với nhau thì họ quan sát thấy giun có

HVTH: Phạm Thị Việt Hà 4
RNA CAN THIỆP
những biểu hiện co giật đặc trưng. Những biểu hiện tương tự cũng được ghi
nhận ở các giun bị khuyết hoàn toàn gene chức năng mã hoá cho protein cơ.
Hình 1. Thí nghiệm của Andrew Fire và Craig Mello
Khi phân tử RNA “có ý nghĩa” và “vô nghĩa” gặp nhau, chúng bổ
sung cho nhau và hình thành nên RNA sợi đôi. Có phải phân tử RNA sợi đôi
có khả năng gây bất hoạt gene mang cùng mã di truyền với nó? Fire và
Mello đã kiểm tra giả thuyết này bằng cách tiêm các phân tử RNA sợi đôi
chứa mã di truyền mã hóa cho một số protein khác ở giun tròn. Ở mỗi thí
nghiệm, RNA sợi đôi đã làm bất hoạt gene tương ứng mang mã di truyền
giống nó. Protein được mã hóa bởi gene đó không còn được hình thành nữa.
Một số kết luận rút ra từ kết quả thí nghiệm: (1) Chỉ có RNA sơi kép
(dsRNA) có khả năng gây bất hoạt gen một cách hiệu quả, RNA sợi đơn
sense hoặc antisense chỉ có khả năng gây bất hoạt yếu hoặc không có khả
năng gây bất hoạt gen. (2)DsRNA gây bất hoạt một cách rất đặc thù, nó chỉ
phân hủy một phân tử mRNA có các trình tự tương đồng với nó, các phần tử
mRNA khác không bị ảnh hưởng. (3)Các sợi dsRNA chỉ có khả năng gây
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 5
RNA CAN THIỆP
bất hoạt gen khi có trình tự tương đồng với mRNA đã thành thục (mature
RNA) ( tức là mRNA đã ở ngoài tế bào chất và không còn mang các trình tự
intron); các trình tự RNA tương đồng với intron hoặc Promotor đều không
có tác dụng điều này cho thấy dsRNA gây bất hoạt ở giai đoạn sau phiên mã
(post - trascriptional gene silencing) và xãy ra ở tế bào chất. (4)Phân tử
mRNA đích biến mất, chứng tỏ nó đã bị phân hủy. (5)Chỉ cần một vài phân
tử dsRNA trong một tế bào là đủ để hoàn thành quá trình phân hủy mRNA.
Điều này chứng tỏ dsRNA đã bđược nhân bản và tác dụng như một tác nhân
xúc tác. (6)Tác động của dsRNA có thể được lan rộng từ mô này sang mô
khác và thậm chí được cac thế hệ sau điều này chứng tỏ khả năng lan truyền,

“ di căn” giữa các tế bào.
Năm 2006 giải thưởng Nobel sinh lý và y học cho phát hiện cơ chế
RNAi của 2 nhà bác học Mỹ là Andrew Fire (ĐH Stanford) và Craig Mello
(ĐH Massachusetts).
Ý nghĩa khoa học của công trình nghiên cứu:
+ Cung cấp lời giải thích cho các hiện tượng nghiên cứu ở thưc vật:
Phiên mã bổ nhiệm gen im lặng ( PTGS- post transcriptional gene silening )
từ đó làm sáng tỏ nhiều quan sát thí nghiệm mâu thuẫn và khó hiểu trong
nhiều năm trước đây.
+ Đồng thời nó tiết lộ một cơ chế tự nhiên để kiểm soát dòng thông tin
di truyền trong tế bào
+ RNAi được sử dụng trong khoa học cơ bản nghiên cứu chức năng
của gene.
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 6
RNA CAN THIỆP
+ Với nghiên cứu mới này , giới khoa học cũng đang tìm ra các ứng
dụng của RNAi trong những nghiên cứu y học chữa bệnh băng liệu pháp
gene, các ứng dụng trên cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp nhằm tạo ra
các sản phẩm với chất lượng tốt hơn.
+ Từ kết quả của nghiên cứu này đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu
và được tạp chí Science bình chọn là “ Break Through in 1998 “(Bước đột
phá của năm 1998 ) dựa theo số lượng ra tăng cấp số nhân các bài báo khoa
học đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế hàng đầu.
Năm 2000, trên tạp chí Nature cũng công bố việc phát hiện hiện tượng
RNAi trên loài ruồi dấm ProSophila do nhóm nghiên cứu của Richard
Cathew tiến hành. Nhóm nghiên cứu đã chứng minh rằng tiêm phân tử
dsRNA vào trong các phôi tế bào của ruối hay dùng súng bắn gen dẫn đến
hiện tượng silencing hiệu quả hơn là dùng các tế bào yeast chứa các dsRNA
cho ruồi dấm ăn. Bằng phương pháp tiếp cận này mà nhóm nghiên cứu của
Cathew đã ức chế được khoảng 20 gen của loải ruồi dấm bao gồm frizzled2

và wingless liên quan đến sự hình thành và phát triển của cánh. Cùng lúc đó
nhóm nghiên cứu của giáo sư Hannon ở phòng nghiên cứu Cold Spring
Habor, New York, USA cũng đã thành công trong việc ức chế sự biểu hiện
của 2 gen cyclinE và myc liên quan đến chu trình phát triển và phân chia tế
bào của ruồi dấm bằng phương pháp RNAi.
Trên đối tượng thực vật, kể từ khi phát hiện hiện tượng
"cosuppression" trên hoa petunia thì việc ức chế các gen tương đồng chuyên
biệt (homology dependent gene silencing) hay được viết tắt là HDGS được
xem là rất phổ biến trên cây trồng. Hiện tại có hai khái niệm về hiện tượng
HDGS bao gồm TGS (transcriptional gene silencing) và PTGS (post-
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 7
RNA CAN THIỆP
transcriptional gene silencing). Đối với trường hợp ức chế gen theo kiểu
TGS thì các gen chuyển vào sẽ không được phiên mã bởi vì đoạn promoter
bị ức chế do cơ chế methyl hóa DNA (DNA methylation). Trong khi đó ức
chế gen theo kiểu PTGS thì các mRNA của gen chuyển vào thực sự bị suy
giảm trong suốt quá trình phiên mã do cơ chế ức chế gen. Gần đây các nhà
khoa học đã khám phá ra rằng hiện tượng PTGS không chỉ xuất hiện trên
cây trồng mà còn xuất hiện trên nấm, động vật v.v Bằng việc khám phá vai
trò của dsRNA liên quan đến việc phân hủy các mRNA trong suốt quá trình
tìm hiểu cơ chế của RNAi và PTGS người ta đã nhận ra rằng cơ chế chung
ảnh hưởng đến biểu thị của gen đối với quá trình quelling, cosupression,
RNAi hay PTGS đều tương tự như nhau vì trong cơ chế của chúng đều có sự
hiện diện của phân tử siRNA (small intefering RNA) dẫn đến việc hình
thành các phức chất siRNA-RISC và cuối cùng là sự phân hủy các phân tử
RNA dẫn đến việc ức chế sự biểu hiện kiểu hình của gen. Tựu chung lại
người ta đặt một thuật ngữ mới là RNA silencing.
3. Ý nghĩa của việc phát hiện ra RNAi
a. Can thiệp RNA chống lại sự nhiễm virus.
Phát hiện của Fire và Mello tế bào có thể hoàn thiện tiêm RNA mạch

kép và loại trừ RNA mạch đơn tương đồng giúp đề xuất can thiệp RNA cấu
tạo nên cơ chế bảo vệ chống lại sự xâm nhập của virus .Tế bào thực vật có
cơ chế bảo vệ chống lại sự xâm nhập của virus dựa trên hiện tượng gen im
lặng PTGS , đề xuất ứng dụng của can thiệp RNA liên quan tới sự bảo vệ tế
bào chống lại sự xâm nhập của virus.
b. Can thiệp RNA bảo đảm ổn định hệ gen.
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 8
RNA CAN THIỆP
Người ta đã đề xuất sớm rằng RNAi/PTGS ở C.elegans và thực vật
có thể cản trở hoạt động của transposon (các nhân tố di động trong hệ gen).
Tiếp theo, có thể nhận thấy trong cơ chế can thiệp RNA bị đột biến ở
C.elegans, transposon được hoạt hóa và nhân tố di động này là nguyên nhân
xáo trộn chức năng hệ gene. Từ đó các nhà khoa học đề xuất rằng
transposon-chứa đựng những vùng hệ gen chứa cả mạch DNA được phiên
mã, RNA mạch kép được định dạng và quá trình can thiệp RNA loại trừ
những sản phẩm không phù hợp. Như thể là RNA mạch kép ngắn cũng có
thể chỉ đạo điều hành nhiễm sắc tử và tăng cường phiên mã, điều này sẽ gây
nên sự bất hoạt transposon . Ngay nếu như cơ chế này vẫn chưa sảy ra, thì rõ
ràng rằng nếu cơ chế can thiệp RNA không có hiệu lực, các transposon
không bi giữ lại bởi kiểm soát dưới, nó có thể bắt đầu nhảy và là nguyên
nhân của hiệu ứng có hại của hệ gen.
Điều đó chứng tỏ RNA im lặng có thể tái hiện một sự "bảo vệ miễn
dịch" của hệ gene. Gần 50% hệ gene chúng ta có virus và nhân tố transposon
mà chúng phải xâm lấn hệ gene chúng ta trong một khóa học tiến hóa. Cơ
chế can thiệp RNA có thể nhận ra sự xấm lấn của virus RNA mạch kép
(hoặc mạch kép sao chép định dạng từ virus RNA) và tăng cường lây nhiễm
bởi sự suy thoái RNA. Hệ thống can thiệp RNA vì thế chia sẻ những điểm
đặc biệt quan trọng với hệ thống miễn dịch động vật có xương sống: nó nhận
ra các điểm xâm lấn (RNA mạch kép), nuôi dưỡng các phản ứng đáp ứng
ban đầu và tiếp theo khuyếch đại để loại trừ nhân tố ngoại lai.

c. Can thiệp RNA như cơ chế kiểm soát quá trình tổng hợp protein và
điều khiển sự phát triển.
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 9
RNA CAN THIỆP
Ngay sau khi khám phá ra RNA ngắn là hiệu ứng của can thiệp RNA,
người ta nhận thấy rằng có một lớp RNA trong hệ gene cùng một kích thước
ở sâu bọ có cánh, ở chuột và người; RNA nhỏ này gọi là microRNA
(miRNA). Thực vật cũng chứa đựng một lớp phân tử RNA này trong hệ
gene. Sự soi rạng cơ chế hoạt động của miRNA mở đầu cho những nghiên
cứu sôi nổi trong tự nhiên về lớp phân tử RNA này. Các RNA của
C.elegans-lin4 và let7.RNAs được chú ý như nguyên mẫu, và những ví dụ
cho trường hợp thỉnh thoảng phát giác ở một vài tổ chức. miRNA nhỏ được
hoàn thiện từ thể kẹp tóc lớn hơn-như điềm báo trước từ can thiệp RNA-như
cơ chế. miRNAs có thể điều hòa biểu hiện gene bằng cách bắt cặp base với
mRNA, kết quả là suy thoái mRNA hay tăng cường dịch mã.Hiện nay,ước
lượng có khoảng 500 miRNAs ở tế bào động vật có vú,và khoảng 30% điều
hòa bởi miRNAs. Điều đó cho biết miRNAs đóng vai trò quan trọng trong
suốt qua trình phát triển ở thực vật, C.elegans và động vật có vú. Vì thế,
miRNAs phụ thuộc biểu hiện gene đặc trưng cho nguyên tắc cơ bản mới của
điều hòa gene. Tuy nhiên, ý nghĩa đầy đủ của RNAs điều hòa nhỏ có lẽ vẫn
chưa rõ ràng.
d. Can thiệp RNA như cơ chế bảo vệ nhiễm sắc tử cô đặc và tăng
cừơng phiên mã.
Những nghiên cứu ở thực vật cho thấy gene im lặng có thể chỉ dừng
biểu hiện ở mức độ phiên mã (TGS). Sau khi khám phá ra can thiệp RNA,
trong những thí nghiệm tiếp theo người ta thấy TGS ở thực vật điều hành
thông qua can thiệp RNA như cơ chế. Ở nấm sinh sản bằng cách phân đôi
Schizosaccharomyces pombe , muộn hơn là ruồi giấm và động vật có xương
sống, đôi khi có những quá trình giữ cho vùng dị nhiễm sắc được cô đặc và
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 10

RNA CAN THIỆP
tăng cường phiên mã. Thêm vào đó, cơ chế can thiệp RNA điều hòa hoạt
động những gene nằm trực tiếp kế bên khối nhiễm sắc đặc. Hiện tượng này
khó giải thích ở mức độ phân tử, mặc dù quá trình biến đổi histone - vị trí
bám chuyên biệt của protein làm cô đặc nhiễm sắc thể (HP1) và methyl hóa
DNA đều đóng vai trò quan trọng. Tuy thế, hoạt động này trên nhiễm sắc tử
là khá quan trọng cho chức năng chính xác của hệ gene và bảo quản hệ gene
được nguyên vẹn.
e. Can thiệp RNA cống hiến một phương pháp mới để kiềm chế gene
chuyên biệt.
Mục tiêu hoạt động của can thiệp RNA trực tiếp đề xuất rằng hiện
tượng này có thể sử dụng như một phương pháp kiểm soát hoạt động của
gen với kiểu hình có thể dự đoán trước nhờ đó mà có thể nghiên cứu được
chức năng của các gen chưa biết trong tổ chức. Sau những nghiên cứu ban
đầu được tìm thấy ở C.elegans, kỹ thuật này gần như có thể ứng dụng được
trên một phạm vi rộng , từ tế bào đến hầu hết các tổ chức khác, kể cả tế bào
động vật có vú. Can thiệp RNA vừa có một ý nghĩa to lớn trong việc nghiên
cứu chức năng các gene riêng biệt. Kỹ thuật này bây giờ được khai thác
không những trong nuôi cấy tế bào mà còn trong cấy chuyển gene. Khung
DNA được gửi gắm vào trong các tổ chức dưới sự kiểm soát của đoạn khởi
động (promoter), và RNA mạch kép cấu trúc thể kẹp tóc được sản xuất và
hoàn thiện hơn nữa để đạt tới những hiệu ứng chuyên biệt trong điều hòa
hoạt động gene.
f. Can thiệp RNA đã đề xuất một giải pháp hiệu quả trong điều trị
bệnh di truyền trong tương lai.
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 11
RNA CAN THIỆP
Khả năng can thiệp của RNA chi phối điều hoà hoạt động gene đặc
biệt là trong cấy chuyển gene đã khuyến khích những nghiên cứu sâu hơn về
vaan đề này, mặt khác có thể là một lựa chọn hữu dụng trong điều trị y học.

Những kết quả hứa hẹn đã được công bố ở một vài động vật thí nghiệm và
ngay cả trong những thử nghiệm lâm sàng gần đây được tiến hành trên
người, nhưng vẫn chưa thể khẳng định trước nói trước kết quả của những
thử nghiệm này.
Sự khám ra một cơ chế tăng cường biểu hiện của các gene trong tế
bào có cấu trúc tương đồng bằng việc nhận ra và hoàn thiện mạch kép RNA
đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về kiểm soát hoạt động của gene. Đặc
biệt, cơ chế can thiệp RNA có thể sử dụng RNA mạch kép vào trong tế bào
như là RNA mạch kép thế hệ sau trong tế bào. Sự phát triển của một tổ chức
và chức năng chính xác của mỗi tế bào và mô tùy thuộc vào một cơ chế can
thiệp RNA còn nguyên vẹn. Sự nhiễm virus RNA có thể bị cản trở bởi can
thiệp RNA, đăc biệt ở thực vật và động vật bậc thấp, những nhân tố AND
ngoại lai trong hệ gene (virus và transposon) có thể bị giữ im lặng.
II. CƠ CHẾ ARN CAN THIỆP
1. Các thành phần tham gia vào quá trinh can thiệp RNAi
* Các thành phần cơ bản tham gia vào quá trinh can thiệp RNAi:
+ SiRNA (small interfeing RNA ) và miRNA, trong đó siRNA (small
interfering RNA) là RNA can thiệp kích thước nhỏ khoảng 20-25 nu được
tạo ra từ dsRNA và miRNA là những đoạn RNA ngắn khoảng từ 19 – 24 nu
không tham gia vào quá trình tổng hợp protein
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 12
RNA CAN THIỆP
+ dsRNA ( double strand RNA – RNA sợi đôi ) : là những đoạn RNA
dài mạch kép có trình tự bổ xung với gene đích ( target RNA ).
+ Dicer: là một ribonuclease thuộc họ Rnase III, đây là một
multidomain protein, có khối lượng phân tử khoảng 200 kDa. Dicer có khả
năng phân cắt các RNA mạch kép và tiền microRNA (miRNA) thành những
đoạn RNA mạch kép ngắn gọi là siRNA.
+ Phức hệ RISC (RNA – incluced silencing complex ): Phức hệ gắng
gene kích ứng bởi RNA. Phức hệ này có chứa enzyme helicase và một số

protein trong đó quan trọng nhất là protein thuộc họ Agronaut ( liên kết
RNA ) hoạt động như một endonuclea và cắt mRNA.
Quá trình can thiệp RNAi được thực hiện bởi 2 cơ chế : siRNA và
miRNA. Ngoài những yếu tố trên, bộ máy RNA can thiệp thông qua
miRNA còn chứa một số thành phần: Pri- mRNA( primary-mRNA ) là chuỗi
mRNA nguyên thuỷ, dài hàng nghìn nu và mang đầu 5’CAP, đuôi poly A
chứa ít nhất một hay nhiều vòng kẹp tóc ( hairpin ) mỗi vòng dài khoảng 70
nu; Hai enzyme cắt: Drosha hoạt động ở trong nhân tế bào và Dicer hoạt
động ở ngoài tế bào chất.
2. Cơ chế RNA can thiệp
a. Cơ chế chung
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 13
RNA CAN THIỆP
Hình 2. Cơ chế RNAi
Quá trình RNAi bao gồm các bước: RNA sợi kép bị cắt thành những
mảnh nhỏ (siRNA) bởi dicer. Sau đó, sợi kép ngắn lại được mở xoắn để tạo
ra hai sợi đơn ngắn và một trong hai sợi đó là sợi là sợi antisence (sợi đối
nghĩa). Sợi antisence ngắn (siRNA) được nạp vào phức hợp risc và antisence
RNA trong phức hợp risc này bắt cặp với mRNA bằng liên kết tương đồng
với các base. Tiếp theo risc sẽ phân hủy mRNA.
Ngoài ra, trong cơ chết gây bất hoạt gen ở giai đoạn phiên mã (TGS),
các phân tử siRNA ngăn cản phiên mã, khống chế số lượng phân tử mRNA.
Cơ chế này xãy ra trong nhân và đích chịu tác động là DNA, gen ( Matzke et
al., 2004; Huettel et al,. 2007). Enzyme methyl hóa DNA ( DNA
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 14
RNA CAN THIỆP
methyltransferase) gắn nhóm methyl vào cytosine (C) ngăn cản quá trình
phiên mã. Enzyme biến đổi nhóm chức của protein( histon) nằm trong lõi
nucleosome . Ví dụ như gắn thêm nhóm methyl hoặc khử nhóm acetyl ở một
số amino acid đặc biệt trên protein histon làm thay đổi cấu trúc không gian

của sợi nhiễm sắc, làm sợi nhiễm sắc cuộn chặt ngăn cản phiên mã.
RISC là một tổ hợp phức tạp chứa ít nhất một protein họ argonaute
hoạt động như một endo nuclease và có vai trò cắt mRNA. Khả năng tương
tác của phức risc với DNA hoặc với mRNA phụ thuộc vào sự tương đồng
giữa siRNA với DNA hoặc giữa siRNA với mRNA. Khi tương tác với
DNA, RISC methyl hóa DNA và biết đổi histone, dẫn đến ngăn cản khởi
động phiên mã. Khi tương tác với mRNA, RISC tạo tín hiệu để RNA
polymerase phân hủy mRNA.
b. Cơ chế làm câm gen bởi siRNA
Quá trình hình thành siRNA diễn ra ở tế bào chất (cytoplasma ). Các
đoạn dsRNA sợi kép được cắt bởi enzyme Dicer tạo ra những đoạn RNA
ngắn (siRNA ). Sau đó các siRNA được tháo xoắn dưới tác dụng của
enzyme helicase và biến tính thành 2 mạch đơn khi gắng với phức hệ RISC.
Trong 2 mạch đơn này, chỉ mạch nào có đầu 5’ có hoạt lực với Agronaut
trong phức hệ RISC mới gằn được với phức hệ RISC tạo phức hợp siRNA-
RISC. Mạch còn lại đầu 5’ không có hoạt lực với Agronaut do đó không liên
kết với RISC được. Sự xuất hiện của mạch đơn siRNA sẽ hoạt hoá RISC
thành trạng thái hoạt động.
Trong tế bào, sự biểu hiện hoặc cảm ứng của RNA mạch kép dài là
kết quả của sự bắt cặp giữa mạch mang mã ( sợi có nghĩa ) và mạch đối mã (
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 15
RNA CAN THIỆP
sợi vô nghĩa ). Các đoạn dsRNA sợi kép dài được cắt bởi enzyme Dicer tạo
ra những đoạn RNA ngắn ( siRNA ) khoảng 21-24 nu. Sau đó các siRNA
được tháo xoắn dưới tác dụng của enzyme helicase và một mạch được nạp
vào phức hợp protenin một cách chon lọc gọi là phức hợp cảm ứng bất hoạt
RISC. Cuối cùng phức hợp siRNA-RISC này sẽ tìm kiếm các transcriptome
( sản phẩm của quá trinh phiên mã) một cách đặc hiệu và nhưng RNA mục
tiêu tiềm năng. Sợi đơn siRNA sau khi được nạp vào RISC được gọi là mạch
hướng dẫn, nó đóng vai trò chỉ đạo trong việc đưa phức hợp siRNA-RISC

đến các phân tử mRNA có trình tự bổ xung với nó.
Cơ chế tắt gen lúc này phụ thuộc vào mức độ tương đồng giữa siRNA
và mRNA đích. Nếu Sự tương đồng giữa siRNA và mRNA đích là hoàn
toàn thì phân tử mRNA có xu hướng bị cắt và phân giải ( do hoạt tính
nuclease của RISC ) kết quả không có mRNA mã hoá cho protenin đó. Nếu
sự tương đồng giữa siRNA và mRNA chỉ là một phần thì xu hướng xảy ra là
sự ức chế dịch mã do khi chúng bám trên mRNA ngăn cản sự dịch chuyển
của Ribosome trong quá trình dịch mã làm cho quá trình dịch mã bi ngưng
lại kết quả không tạo ra được protein.
Ngoài ra, RISC cũng có thể xâm nhập được vào nhân tế bào và kết
cặp với trình tự tương đồng trên phân tử DNA hệ gen. Nó huy động một số
protein làm cải biến chất nhiễm sắc quanh vị trí promoter của gene đẫn đến
kìm hãm phiên mã.
c. Cơ chế làm câm gen bởi miRNA
Quá trình hình thành miRNA diễn ra ở nhân tế bào (nuclear ) và trong
tế bào chất ( cytoplasma ).
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 16
RNA CAN THIỆP
Hình 3. Cơ chế siRNA và miRNA
- Trong nhân :
Các phân tử miRNA được tạo ra thông qua quá trình phiên mã từ các
gen gọi là các phân tử miRNA nguyên thuỷ ( pri- miRNA ), các phân tử này
có chúa các cấu trúc kẹp tóc ( hairpin ). Các phân tử pri- miRNA được cắt
bởi enzyme Drosha để tạo thành những sợi Pre- miRNA ( phân tử tiền
microRNA ). Các phân tử Pre- miRNA sẽ được di chuyển ra ngoài tế bào
chất.
- Tại Tế bào chất :
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 17
RNA CAN THIỆP
Trong tự nhiên, ngoài cơ chế điều hòa biểu hiện gene bằng sợi siRNA

còn có cơ chế điều hoà biểu hiện của gene bởi một nhóm RNA khác gọi là
microRNA ( miRNA ). Cơ chế hoạt động của miRNA trong quá trình ức chế
sự biểu hiện của gene cũng tương tự như ở siRNA. Các miRNA được tạo từ
tác động cắt các đoạn Pre- miRNA có trình tự kẹp tóc (được phiên mã từ các
đoạn DNA không mã hoá protein) bởi 2 enzyme là Drosha và Dicer. Tương
tự với siRNA, các miRNA có thể điều tiết sự phân giải mRNA với sự hiện
diện của phức hợp RISC trong trường hợp bổ xung hoàn toàn. Trong trương
hợp bổ xung không hoàn toàn (inperfect complementary ) với vùng 3’ UTR
của mRNA làm ức chế quá trình địch mã. Thông thường các gene miRNA
được điều hoà theo kiểu chỉ biểu hiện vào những thời điểm nhất định và ở
các mô nhất định trong quá trinh phát triển của cá thể. Đáng chú ý là 30%
các phân tử miRNA ở giun tròn có trình tự rất giống ở ruồi giấm và động vật
có vú. Điều này cho thấy, cơ chế điều hoà biểu hiện gene bởi miRNA đã có
nguồn gốc từ lâu trong quá trình tiến hoá và vai trò của chúng trong việc
“lập trình” biểu hiện của hệ gene là rất quan trọng đối với giới sinh vật.
III. ỨNG DỤNG ARN CAN THIỆP
1. Ứng dụng trong y học
RNAi có thể gây bất hoạt một gen đặc thù ( gen đích bằng nhiều cách
khác nhau): Bằng tiêm dsRNA vào động vật ( Fire et al,. 1998); Qua đường
ruột bằng các cho tuyến trùng ăn chủng E. coli đã được chuyển gen có khả
năng sản sinh dsRNA ( Timmor, Fire, 1998); Bằng gây sốc giun tròn trong
dung dịch có chứa dsRNAi( Tabara et al,. 1998); Bằng chuyển gen RNAi có
khả năng sản sinh dsRNA vào tế bào động vật từ đó dsRNA sẽ được sản
sinh ra trong cơ thể để gây bấy hoạt gen đích( Tavernarakis et al., 2000). Từ
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 18
RNA CAN THIỆP
những kết quả trên các nhà khoa học cho rằng RNAi có thể sữ dụng như một
phương pháp trị liêu ( như dược chất đưa từ bên ngoài vào cơ thể hoặc là
liệu pháp di truyền – bằng phương pháp chuyển gen vào cơ thể).
Ngay sau các công bố trên, đã xãy ra bùng nổ trong nghiên cứu ứng

dụng công nghệ RNAi trong y học ( Dorsett, Tuschl, 2004; Hannon,
Soutschek et al., 2004). Nhờ vậy, đã xác định RNAi là một quá trình đặc biệt
và đã được kiểm chứng để làm bất hoạt bất kỳ một gen nào ở bất cứ tế bào
nào trong cơ thể đa bào. Các ứng dụng lâm sàng đầu tiên của can thiệp
RNA đã được hướng vào việc điều trị liên quan đến thoái hóa điểm vàng
(AMD), gây mù hoặc tầm nhìn hạn chế trong hàng triệu người lớn tuổi.
Phương pháp điều trị dựa trên RNAi cũng đang được phát triển chống lại sự
xâm nhiễm của virus, bao gồm virus suy giảm miễn dịch của con người
(HIV), viêm gan B và virus C (HBV và HCV), và virus hợp bào hô hấp
(RSV). Chiến lược điều trị các bệnh thoái hóa thần kinh và ung thư cũng
được tiến hành.
Các nhà khoa học hiệp hội ung thư Mỹ cho biết mRNA đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong phát triển bệnh ung thư. Các báo cáo khoa học của
viện Massachusett (MIT) và đại học Harvard năm 2005 cho biết, các mRNA
đóng vai trò qua trọng đối với sinh trưởng, sinh sản và biệt hóa tế bào ở
người. Khi có những thay đổi trong sinh tổng hợp mRNA sẽ dẫn đến các
bệnh ung thư khác nhau. Họ cho biết có thể dễ dàng phân biệt các tế bào ung
thư với tế bào lành và phân biệt các bệnh ung thư khác nhau thông qua sự
khác biệt giữa các mRNA. Hiện nay đã tìm thấy trên 200 các mRNA khác
nhau ở các bệnh ung thư khác nhau. Khả năng điều trị bệnh ung thư bằng
công nghệ RNAi là rất lớn. Đại học Purdue đã thiết kế các hạt nano( phải có
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 19
RNA CAN THIỆP
kích thước nhỏ hơn 100nm đễ lọt qua màng tế bào ) mang các RNA ngắn
nhằm đưa RNAi vào tế bào ung thư với mục đích làm làm bất hoạt các gen
ung thư bướu ( oncogenes).
Công ty Benitec Ltd ( BLT) là công ty đầu tiên sữ dụng RNAi trong tế
bào người và đã được cấp các bản quyền công nghệ tại Mỹ và Anh có giá trị
từ năm 1998. Đó là một kỹ thuật có tính cách mạng đễ làm ngừng biểu hiện
gen ở bất kỳ tế bào nào thông qua RNAi. Bản quyền 6,573,099 tại Mỹ là “

Các gen cấu trúc trong quá trình làm ngưng hay giảm biểu hiện của gen
đích” và bản quyền số 2353383 tại Anh được đăng ký tên “ điều kiện biểu
hiện gen”.
2. Ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp
CSIRO, Úc là một trong các trung tâm nghiên cứu ứng dụng công
nghệ RNAi số một trên thế giới trong 10 năm qua và đã đăng ký ít nhất 9
phát minh trong lĩnh vược này. CSIRO đã đăng ký bản quyền công nghệ
RNA kẹp tóc ở Úc, Trung Quốc, New Zealand. CSIRO đã phát minh RNA
kẹp tóc ở trong thực vật – một công nghệ đầy sức mạnh cho tạo giống cây
trồng mới. Đặc biệt họ đã phát hiện ra rằng phần cong đơn sợi ( không có
cặp đôi) trong cấu trúc của RNA kẹp tóc có nguồn gốc từ một intron thì hiệu
quả gây bấy hoặt gen sẽ cao hơn rất nhiều ( Smith et al., 2000; Wang,
Waterhouse, 2002; Wesley et al., 2001). Công nghệ RNA kẹp tóc của
CSIRO là một công nghệ hiệu quả nhất để gây bất hoạt gen ở thực vật và
hiện đang được ứng dụng ở động vật. CSIRO đã thiết kế hàng loạt các
vector chuyển gen gọi là RNAi vector có khả năng gây bất hoạt nhiều gen
khác nhau ( Helliwell, Waterhouse, 2003; Helliwell, Waterhouse, 2005).
Công nghệ RNA kẹp tóc có thể sữ dụng để tạo các giống cây trồng chuyển
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 20
RNA CAN THIỆP
gen với các tính trạng mong muốn mà các công nghệ khác bất lực. Họ đã
ứng dụng công nghệ đễ tạo cây có thành phần dầu béo tốt hơn cho cho người
và cải thiện tính chất tinh bột ở lúa mì. Họ đã tạo giống cho hạt có hàm
lượng dầu béo Margarine với chất lượng dinh dưỡng tốt hơn( Liu et al.,
2002). Việc cải thiện tính chất tinh bột ở cây hòa thảo có thể mang lại lợi ích
cho sức khỏe thông qua việc làm giảm bệnh đái đường type2.
CSIRO đẫn đầu việc ứng dụng RNAi trong tạo giống kháng bênh ở
virus ( Waterhouse et al ., 1998; Waterhouse et al ., 1999; Waterhouse et al .,
2001). Họ đã tạo được giống lúa mạch có khả năng miễn dịch với bệnh virus
gây vàng lụi ở lúa mạch và các loài thuộc họ hòa thảo như lúa ( Barley

Yellw Dwarf Virus – BYDV) ( Wang et al., 2000).
Tiến sĩ Van Hulten ở CSIRO, cho biết hàng năm bện đốm trắng ở tôm
gây tổn thất khoảng một tỷ đôla cho công nghiệp nuôi tôm toàn cầu. Công
nghệ RNAi là một trong những cơ chế tự bảo vệ của thế bào chống lại virus.
Khi tế bào phát hiện một sơi RNA kéo, nó sẽ sản sinh ra một loại enzyme
gọi là Dicer đễ cắt đứt sợi RNA kép đó, do vậy tiêu diệt virus xâm nhập.
Nhóm của Hulten đã xác địch được gen chịu trách nhiệm tổng hợp enzyme ở
tôm. Nhờ đó họ cho rằng tôm cũng có cơ chế bảo vệ nhờ RNAi. Tiến sĩ Tim
Doran thuộc CSIRO cho biết họ đang sữ dụng công nghệ RNAi để xỹ lý
nhiều loại bệnh khác nhau ở vật nuôi trong đó có bệnh cúm gà là một bệnh
đang lây lan mạnh ở châu Á và bệnh Marek ở gia cầm. Tiến sĩ Jef Hammond
thuộc CSIRO đang nghiên cứu kỹ thuật RNAi đễ kiểm soát bệnh lỡ mồm
lông móng. Người ta hy vọng có thể sữ dụng cho nhiều loại động vật để
kiểm soát các bệnh virus khác nhau. Xữ lý RNAi có thể làm ngừng quá trình
sinh sản ở virus ở bất kỳ động vật nào, làm giảm sự lây truyền của nó.
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 21
RNA CAN THIỆP
Hiện nay, RNAI là một chiến lược chủ lực trong công nghệ sinh học ở
CSIRO. CSIRO đang phát hiện các sản phẩm RNAi cho bảo vệ thực vật, vật
nuôi, thủy sản và phát triển các nghành công nghiệp dược và y sinh.
Các nhà khoa học Brazil gần đay đã công bố tạo được giống đậu
( Phaseolus vulgaris L.) kháng được bênh xoắn lá do virus Bean golden
mosaic virus ( BGMV) gây ra bằng chuyển gen gây bất hoạt gen AC1 của vi
rurus này ( Bonfim et al., 2007). Virus này cùng nhóm với virus gây bệnh
xoắn lá cà chua, tác hại nghiêm trọng đối với sản xuất.
Nhóm nghiên cứu của Keerti Rathore thuộc viện nghiên cứu
Genomics và công nghệ sinh học thuộc đại học Texas đã sữ dụng kỹ thuật
RNAi để loại trừ độc tố ở hạt bông( Gonesan et al., 2006). Họ đã thiết kế
gen tổng hợp RNA sợi kép có khả năng gây bất hoạt gen có vai trò quyết
định đối với sinh tổng hợp độc tố Gosypol của hạt bông. Họ đã sữ dụng một

promotor đặc thù mô hạt ở cây bông. Do vậy, gen RNAi chỉ gây bất hoạt
sinh tổng hợp gossypol ở hạt. Vì thế, độc tố này vẫn được tổng hợp bình
thường ở các mô khác của cây bông. Gosypol thông thường được tổng hợp ở
bất kỳ mô nào của cây và chất này có chức năng giúp cay chống lại côn
trùng, nấm, khuẩn gây bệnh. Đây là một ứng dụng về lợi ích của RNAi có
khả năng làm cải thiện chất lượng thức ăn hoặc làm cho một loại cây độc trở
nên ăn được thông qua bất hoạt các gen chứa độc tố. Cây bông chuyển gen
RNAi hầu như không có gossypol trong hạt, trong khi hàm lượng chất này
giữ nguyên ở các bộ phận khác của cây. Gossypol là một độc tố đối với gan,
tim người và các động vật khác, trong đó có gà. Nếu nuôi gà bằng hạt bông
trong một tuần gà sẽ chết. Hạt bông về tiềm năng rất bổ dưỡng nếu loại được
độc tố: 23-23% hạt là protein chất lượng cao. Bông chỉ là một loại cây trong
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 22
RNA CAN THIỆP
khi có rất nhiều loại cây có hạt không ăn được vì nó chứa các độc tố. Bằng
kỹ thuật RNAI có thể làm cho chúng ăn được. Công nghệ RNAi có ưu việt
hơn hẳn so với đột biến. Năm 1954, bằng công nghệ đột biến người ta cũng
tạo được giống bông mất khả năng tổng hợp gossypol. Tuy vậy chất độc này
cũng đã biến mất khỏi các bộ phận khác của cây, do đó làm cho cây bông
đột biến bị mầm bệnh tấn công. Tuy nhiên, công nghệ RNAi với promotor
có tính đặc thù mô cao, nó chỉ gây bất hoạt gen tổng hợp gossypol ở trong
hạt, trong khi gen này vẫn hoạt động bình thưởng các bộ phận khác của cây
bông ( Gonesan et al., 2006).
Sự can thiệp RNA (RNAi) được xem là một cơ chế quan trọng trong
việc kháng lại virus ở thực vật (Baulcombe, 2004). Vì vậy, kỹ thuật chuyển
gen dựa trên cơ chế can thiệp RNA đã được ứng dụng để tạo giống cây trồng
kháng lại virus. Kỹ thuật này bao gồm các bước chính: (1) thiết kế các
vector chuyển gen mang cấu trúc RNAi, (2) biến nạp vector chuyển gen
mang cấu trúc RNAi vào cây thông qua vi khuẩn Agrobacterium
tumefaciens để làm bất hoạt các mRNA của virus gây bệnh, (3) sàng lọc các

cây chuyển gen mang cấu trúc RNAi và kiểm tra tính kháng virus của các
cây chuyển gen.
Cho đến nay đã có nhiều loại cây trồng chuyển gen kháng bệnh virus
được công nhận và trồng thương mại như: đu đủ chuyển gen kháng bệnh
đốm vòng (papaya ringspot virus, PRSV); bí đao chuyển gen kháng ba loại
vi rút Cucumber mosaic virus, Watermelon mosaic virus, Zucchini yellow
mosaic virus, ớt và cà chua chuyển gen kháng Cucumber mosaic virus, …
Ngoài ra còn rất nhiều các loại cây trồng chuyển gen kháng bệnh virus khác
đang trong giai đoạn khảo nghiệm để được công nhận là giống cây trồng
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 23
RNA CAN THIỆP
thương mại như: khoai mì chuyển gen kháng African cassava mosaic virus
(Begomovirus); bắp chuyển gen kháng Maize steak virus (Mastrevirus);
khoai tây chuyển gen kháng đồng thời 3 loại virus Potato virus X
(Potexvirus), Potato virus Y (Potyvirus), Potato leafroll virus (Polerovirus);
lúa chuyển gen kháng Rice Tungro viruses (Tungrovirus); khoai lang chuyển
gen kháng Sweet potato feathery mottle virus (Potyvirus)…. (Reddy và cs,
2009).
Đối với các virus RNA, tiêm vào lá của đậu lăng đen (Vigna mungo)
thông qua bắn phá một cấu trúc hpRNA có chứa các trình tự promoter của
virus khảm vàng geminivirus Vigna mungo (VMYMV) dưới sự kiểm soát
của promoter 35 S cho thấy hầu hết các cây chủ hoàn toàn hồi phục sau khi
bị lây nhiễm VMYMV như vậy chiến lược RNAi cũng có hiệu quả trong các
kỹ thuật để kháng virus DNA. Điều thú vị là, một báo cáo gần đây cho thấy
geminivirus gây bệnh khảm ở cây đậu vàng (BGMV) cũng có thể bị ức chế
bởi sự biểu hiện của gen chuyển hpRNA bắt nguồn từ một replicase mã hóa
chuỗi (AC1) cho thấy một geminivirus có thể là mục tiêu của cả hai cơ chế
PTGS và TGS.
Bằng chứng của ý tưởng cây chủ làm im lặng gen (HIGS) từ gen nấm
gần đây đã thu được ở nấm phấn trắng (Blumeria graminis) trên cây lúa

mạch, một tác nhân gây bệnh nấm biotrophic. Thông qua các biểu hiện
chuyển gen dsRNA nhằm chống lại bản sao B. graminis trong lúa mạch,
giảm đáng kể các triệu chứng bệnh do nhiễm trùng B. graminis, trong khi
điều khiển chuyển gen đã bị mất đi băng kẹp tóc của RNAi do đó dể để kiểm
soát các loài thực vật hoang dại, gợi ý cho sự trao đổi dsRNA hoặc siRNA từ
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 24
RNA CAN THIỆP
cây chủ vào B. graminis. Điều này có thể dẫn đến một chiến lược dựa trên
RNAi để bảo vệ cây trồng chống lại mầm bệnh do nấm.
Đối với các mầm bệnh ở cây trồng do tuyến trùng và sâu bọ gây ra,
người ta đã đưa ra một số thử nghiệm bằng cách tiêm trực tiếp hoặc cho ăn
dsRNA từ bên ngoài vào cơ thể côn trùng để giảm biểu hiện gen mục tiêuvà
giảm sự phát triển tuyến trùng rootknot, cũng như Lepidoptera và côn trùng
Coleoptera, chúng ăn những cây chuyển gen mang cấu trúc RNAi chống lại
gen mục tiêu trong các loài gây hại
Ở Việt nam cũng đã có một số nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật chuyển
gen RNAi để tạo giống cây trồng kháng bệnh virus. Kết quả ban đầu cho
thấy đã tạo được các cây thuốc lá chuyển gen kháng vi rút khảm dưa chuột
(CMV), kháng vi rút khảm thuốc lá (TMV) và kháng đồng thời cả 2 loại
virus này (Phạm Thị Vân và cs, 2008; Chu Hoàng Hà và cs, 2009. Đây là
tiền đề quan trọng giúp mở ra khả năng ứng dụng kỹ thuật chuyển gen RNAi
trên các loại cây trồng quan trọng khác.
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, sự phát triển từ sự phát hiện ban đầu của can thiệp RNA để
ứng dụng lâm sàng của nó đã được đáng kinh ngạc. Sự hiểu biết về sinh học
cơ bản của can thiệp RNA đã dẫn đến các ứng dụng rộng rãi của nó trong
nghiên cứu cơ bản và sau đó trong các ứng dụng để điều trị bệnh.
Việc nghiên cứu ứng dụng cơ chế can thiệp RNA có nhiều triển vọng
to lớn mà con người có thể không ngờ tới được. Một số hướng nghiên cứu
chính như:

1. Can thiệp RNA chống lại sự nhiễm virus.
HVTH: Phạm Thị Việt Hà 25

×