BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP HỌC KÌ
Môn: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Đề tài số 4 : Chứng minh rằng quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy
định về cách xác định & qui chế pháp lý của thềm lục địa trong luật biển
quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử
dụng biển
Họ và tên : Đỗ Diệp Đan Linh
Khoa : Luật Quốc tế và Kinh doanh quốc tế
Lớp : Quốc tế 33B
Mã số sinh viên: QT 33B 031
HÀ NỘI – 2010
LỜI MỞ ĐẦU
Đáy biển và lòng đất dưới đáy biển là nơi tập trung một trữ lượng lớn tài
nguyên thiên nhiên, sự giàu có của biển lại tập trung ở vùng đáy biển ven bờ, tức là ở
thềm lục địa. Từ giữa thế kỷ 19, vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên từ đáy biển
và lòng đất dưới đáy biển đã trở thành hiện thực với con người. Từ đó bắt đầu hình
thành những manh mối về khái niệm thềm lục địa pháp lí cũng như xuất hiện những
tranh chấp trong khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên tại thềm lục địa. Vai trò
của những chủ thể xây dựng – hoàn thiện luật quốc tế vẫn luôn là vấn đề đảm bảo,
cân bằng lợi ích, tránh để xảy ra mâu thuẫn không đáng có.
Qua quá trình học tập nghiên cứu lí luận, cùng với việc tìm hiểu thực tiễn về
sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển. Nhận thấy đây là
một vấn đề quốc tế lớn, đang cần được quan tâm tìm hiểu kĩ lưỡng. Vì thế, em đã
quyết định lựa chọn đề tài số 4 về cách xác định qui chế pháp lý của thềm lục địa
trong luật biển quốc tế thể hiện sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử
dụng biển để hoàn thành bài luận cuối kì môn luật công pháp quốc tế của mình.
Trong quá trình hoàn thành bài nghiên cứu này, em xin gửi lời cảm ơn đến các
thầy cô giáo giảng viên khoa Luật quốc tế_Trường đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ
em để em có thể hoàn thành bài luận này.
MỤC LỤC
Trang
I Khái quát chung về quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy
định về cách xác định và qui chế pháp lý của thềm lục địa
trong Luật biển quốc tế
1
1/ Hành vi đơn phương của quốc gia ven biển với yêu cầu hình
thành thềm lục địa pháp lý trong Luật Biển quốc tế
1
2/ Thực tiễn pháp điển hoá về Thềm lục địa trong Công ước Luật
biển 1958
1
3/ Phán quyết của Toà án công lý quốc tế và sự phát triển khái
niệm thềm lục địa pháp lí trong luật biển quốc tế hiện đại
2
II Sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng
biển thể hiện qua cách xác định và qui chế pháp lý của
thềm lục địa trong Luật biển quốc tế hiện đại
2
1/ Cách xác định thềm lục địa pháp lý theo Luật biển quốc tế
a) Định nghĩa tại Điều 1 Công ước Giơnevơ về thềm lục
địa năm 1958 và những điểm gây bất bình đẳng giữa các
quốc gia
b) Định nghĩa thềm lục địa theo Công ước của Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982 và những yếu tố mới bảo
đảm công bằng giữa các quốc gia
2
2
3
2/ Quy chế pháp lý của thềm lục địa theo Luật biển quốc tế
a) Quy chế pháp lý của thềm lục địa theo Công ước
Giơnevơ về thềm lục địa năm 1958 – những điểm tiến
bộ thể hiện sự bình đẳng giữa các quốc gia
b) Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 – khắc
phục hạn chế, bổ sung hoàn thiện quy chế pháp lý của
thềm lục địa
5
5
6
III Thực tiễn về vấn đề bình đẳng giữa Việt Nam và một số quốc
gia láng giềng trong khai thác và sử dụng biển
7
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận trong bài luận này, đã viện dẫn và sử dụng những văn bản pháp
luật quốc tế sau làm căn cứ pháp lí cho những nhận định của mình:
- Công ước Giơnevơ về thềm lục địa năm 1958
- Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982
- Tuyên bố số 2667 ngày 28/9/1945 của Tổng thống Truman
I. Khái quát chung về quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về
cách xác định và qui chế pháp lý của thềm lục địa trong Luật biển quốc tế
Sự hình thành khái niệm “thềm lục địa pháp lý” trong tiến trình phát triển của
Luật biển quốc tế có thể được xác định dựa trên những sự kiện sau
1/ Hành vi đơn phương của quốc gia ven biển với yêu cầu hình thành thềm lục
địa pháp lý trong Luật Biển quốc tế
Trong thực tiến phát triển của Luật biển quốc tế, khái niệm “thềm lục địa” là
khái niệm mang tính tập quán trước khi được pháp điển hoá vào các công ước quốc
tế về biển. Tuyên bố của Truman – Tổng thống Hoa Kì đưa ra trong Tuyên bố số
2667 ngày 28/9/1945 được coi là sự khởi đầu cho các hoạt động pháp lý nhằm thể
chế hoá thềm lục địa vào pháp luật thực định, phục vụ lợi ích của các chủ thể Luật
Biển quốc tế. Tuyên bố Truman khẳng định: “Tài nguyên thiên nhiên của lòng đất
dưới đáy biển và của đáy biển của thềm lục địa là thuộc về Hoa Kỳ và quyền tài phán
của Hoa Kỳ. Sự hợp lý của những quyền nêu trên là do tính hiệu quả của các biện
pháp khai thác, sử dụng và bảo tồn được bảo đảm từ phía nước ven biển, bởi thềm lục
địa được xem là sự mở rộng của lục địa đất liền của đất gia ven biển, dường như
thuộc về quốc gia đó một cách tự nhiên”. Nội dung này bắt nguồn từ nhận thức cơ
bản về chủ quyền và quyền lực của một nước ven biển đối với tài nguyên thiên nhiên
của mình trong các vùng nước gần bờ cùng cách ứng xử với tài nguyên trong vùng
đó. Sau đó, nhiều quốc gia ven biển cũng đã thể hiện sự ứng xử của mình đối với
thềm lục địa theo cách quan niệm mà tuyên bố Truman đưa ra để đơn phương yêu
sách về thềm lục địa quốc gia.
2/ Thực tiễn pháp điển hoá về Thềm lục địa trong Công ước Luật biển 1958
Hội nghị lần thứ nhất của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1958 tại Giơnevơ
đã cho ra đời bốn công ước: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (có hiệu
lực từ ngày 10/9/1964); Công ước về biển cả (có hiệu lực từ ngày 30/9/1962); Công
ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả (có hiệu lực từ ngày
20/3/1966); Công ước về thềm lục địa (có hiệu lực từ ngày 10/6/1964).
Những nhận thức về thềm lục địa từ phương diện địa chất được coi là cơ sở
cho việc pháp điển hoá thềm lục địa pháp lý trong nội dung của một trong bốn Công
ước trong Hội nghị luật biển lần thứ nhất_Công ước về thềm lục địa. So với những
tuyên bố đơn phương về thềm lục địa của nhiều quốc gia ven biển thì Công ước
Giơnevơ về thềm lục địa 1958 về cơ bản đã đưa ra cơ sở để xây dựng khái niệm
thềm lục địa pháp lí, thừa nhận quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với việc
thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên… mặc dù về cách xác định nếu áp dụng
trong thực tế lại làm cho thềm lục địa pháp lí trở nên biệt lập với khái niệm thềm lục
địa địa chất. Công ước Giơnevơ về thềm lục địa đã gặp phải sự chỉ trích kịch liệt
ngay sau khi kí kết vì những vấn đề bất cập so với điều kiện tự nhiên của các quốc
gia.
3/ Phán quyết của Toà án công lý quốc tế và sự phát triển khái niệm thềm lục
địa pháp lí trong luật biển quốc tế hiện đại
Trong thời gian từ giữa hai Hội nghị luật biển lần thứ nhất tại Giơnevơ năm
1958 và Hội nghị luật biển lần thứ ba từ 1972-1982, phản ánh bước phát triển tiến bộ
mới của Luật biển và đã làm thay đổi cơ bản trật tự pháp lý cũ về biển. Phán quyết
của Toà án quốc tế đóng vai trò khá tích cực trong việc hình thành khái niệm thềm
lục địa pháp lí hiện đại. Tại vụ thềm lục địa biển Bắc năm 1969, Toà đã nêu ra được
một nguyên tắc rất quan trọng trong Luật biển quốc tế là nguyên tắc đất thống trị
biển đã củng cố sự tất yếu mà nước ven biển có được đối với việc thiết lập các đặc
quyền và quyền tài phán của mình trên vùng lãnh thổ kéo dài tự nhiên với danh nghĩa
là những quyền do chủ quyền đem lại. Khẳng định này cực kì quan trọng vì nó cho
phép có cơ sở để hiểu đúng về thềm lục địa, tức về bản chất phải là phần kéo dài tự
nhiên của lãnh thổ đất liền và vì vậy, cho dù một vùng đáy biển nào đó gần với một
quốc gia hơn mọi quốc gia khác thì cũng không thể coi là thềm lục địa của quốc gia
này để đòi yêu sách về thềm lục địa khi mà sự gần kề đó không phải là sự nối tiếp,
một sự mở rộng và một sự kéo dài tự nhiên từ đất liền ra biển. Định nghĩa pháp lý về
thềm lục địa trong Công ước 1982 đã lấy thuyết thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên
của lục địa làm cơ sở. Điều này có ảnh hưởng quyết định đối với toàn bộ tinh thần và
nội dung cơ bản của những điều khoản và chế độ pháp lí của thềm lục địa.
II. Sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển thể
hiện qua cách xác định và qui chế pháp lý của thềm lục địa trong Luật biển
quốc tế hiện đại
1/ Cách xác định thềm lục địa pháp lý theo Luật biển quốc tế
a) Định nghĩa tại Điều 1 Công ước Giơnevơ về thềm lục địa năm 1958 và
những điểm gây bất bình đẳng giữa các quốc gia:
“Đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của phần ngập nước tiếp giáp với bờ biển,
nhưng nằm ở ngoài lãnh hải, đến độ sâu 200m hoặc sâu hơn nữa, tới một độ sâu có
thể cho phép khai thác các tài nguyên thiên nhiên ở đó.” Như vậy, thềm lục địa là một
phần của đáy biển, tiếp giáp với bờ biển nhưng nằm ngoài lãnh hải có:
- Ranh giới phía trong của thềm lục địa theo công ước 1958 là chưa được xác
định. Bởi theo định nghĩa, ranh giới phía trong của thềm lục địa trùng với ranh giới
phía ngoài lãnh hải và đương nhiên tuỳ thuộc vào chiều rộng của lãnh hải. Tuy nhiên
trong Công ước Giơnevơ về lãnh hải và vùng tiếp giáp 1958 lại không có những điều
khoản về chiều rộng tối đa của lãnh hải. Từ đó luật pháp quốc gia đã qui định rất
khác nhau về chiều rộng lãnh hải, hậu quả là ranh giới phía trong của thềm lục địa
được qui định tuỳ thuộc vào lợi ích của từng quốc gia.
- Ranh giới phía ngoài của thềm lục địa được xác định theo hai tiêu chuẩn:
+ Tiêu chuẩn độ sâu: 200 m (tiêu chuẩn ấn định, xác định rõ ràng chiều rộng của
thềm)
+ Tiêu chuẩn khả năng khai thác (tiêu chuẩn động), mâu thuẫn với tiêu chuẩn trên và
chỉ phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật khai thác thềm lục địa của quốc gia ven biển.
=> Những tiêu chuẩn này đã đưa đến những điểm không công bằng giữa các
quốc gia ven biển:
- Thứ nhất, tiêu chuẩn độ sâu 200m là không hợp lý, có thể đưa đến tình trạng
không công bằng giữa các quốc gia ven biển trong việc quy định chiều rộng của