Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Vấn đề gia đình trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước với việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.94 KB, 21 trang )

Vấn đề gia đình trong tác phẩm Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của
nhà nƣớc với việc xây dựng gia đình ở
Việt Nam hiện nay

Nguyễn Thuỳ Dƣơng

Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa Triết học
Chuyên ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Thuỷ
Năm bảo vệ: 2012

Abstract. Khảo cứu những vấn đề lý luận về gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”. Nghiên cứu quá trình phát triển
những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề gia đình, chỉ ra xu hƣớng
biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số giải pháp chủ yếu xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.

Keywords. Triết học Phƣơng Tây; Tƣ tƣởng triết học; Gia đình; Việt Nam

Content.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển xã hội, gia đình có vị trí đặc biệt, bởi gia đình chính là tế
bào của xã hội; từ gia đình, con ngƣời đƣợc sinh ra và trƣởng thành cả về thể chất và
nhân cách.
Lý luận khoa học về gia đình đƣợc xây dựng trên cơ sở những quan điểm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, và đặc biệt, lần đầu tiên đƣợc trình bày nhƣ một công trình
nghiên cứu trong tác phẩm kinh điển “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và


của nhà nƣớc” do Ph. Ăng-ghen biên soạn, xuất bản lần thứ nhất năm 1884. Bằng
những cứ liệu khoa học, Ph. Ăng-ghen làm sáng tỏ sự phụ thuộc của sự thay đổi các
hình thức gia đình qua các hình thái kinh tế - xã hội, ông chỉ ra mối quan hệ biện
chứng giữa tình yêu, hôn nhân và gia đình, trong đó tình yêu và hôn nhân là cơ sở, nền
tảng để xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.
Sau hai mƣơi lăm năm thực hiện đƣờng lối đổi mới, đất nƣớc ta đã đạt đƣợc những
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho mọi gia đình. Đồng thời, sự phát triển của gia đình cũng chính là
nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn sự phát triển lành mạnh, an toàn của xã hội và sự
ổn định dân số của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề gia đình hiện nay đang đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức trong giai đoạn mới. Một trong những nguyên nhân của tình
hình nói trên là do nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò và sự phát triển của gia đình.
Do đó, việc bảo vệ lý luận về gia đình của chủ nghĩa Mác có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Nhiệm vụ đó đòi hỏi chúng ta một mặt phải khắc phục những sai lầm trong nhận
thức cũng nhƣ trong hoạt động thực tiễn; mặt khác, phải bổ sung và phát triển lý luận về
gia đình một cách sáng tạo cho phù hợp với điều kiện mới.
Vì những lý do căn bản và quan trọng đó, tác giả chọn: “Vấn đề gia đình trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” với việc
xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong hệ thống tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” là một trong những tác phẩm kinh điển tiêu biểu
của chủ nghĩa Mác, đƣợc rất nhiều các nhà khoa học và tổ chức thực tiễn tìm hiểu và
khảo cứu. Chẳng hạn: Cuốn sách “Tìm hiểu tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”, tác giả Lê Trọng Ân đã giới thiệu, định hƣớng cho ngƣời
đọc nghiên cứu một cách toàn diện và có kết quả về tác phẩm kinh điển quan trọng này;
hay phần giới thiệu tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà
nƣớc” đƣợc in trong Tập bài giảng Giới thiệu tác phẩm kinh điển triết học Mác - Lê-nin
của Khoa Triết học - Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội
của tác giả Lƣu Minh Văn giúp cho các sinh viên, học viên nắm đƣợc những nội dung, tƣ

tƣởng, quan điểm và học thuyết triết học cơ bản trong tác phẩm. Với bài báo “Quan niệm
của Ph. Ăng-ghen về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”” đăng trên Tạp chí Triết học, số 11 (174), ra
tháng 11 năm 2005, tác giả Lê Ngọc Anh đã đƣa ra những ý kiến sâu sắc về vấn đề tình
yêu, hôn nhân và gia đình.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn coi
trọng vấn đề gia đìnhTrên cơ sở những tƣ tƣởng cơ bản về hôn nhân và gia đình của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời có sự vận dụng sáng tạo và phù hợp vào thực tiễn
đất nƣớc, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có những quan điểm chỉ đạo đúng đắn cho việc thực
hiện quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa dân chủ, tiến bộ.
Tuy nhiên, hiện nay, gia đình Việt Nam và những vấn đề gia đình ở Việt Nam
đang đứng trƣớc những thách thức của thời kỳ đổi mới. Do vậy, chúng ta cần có sự
quan tâm thỏa đáng đến vấn đề gia đình để xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng kinh tế - xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Tìm hiểu tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình trong tác phẩm, từ đó rút
ra ý nghĩa phƣơng pháp luận đối với việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
Khảo cứu những vấn đề lý luận về gia đình và quá trình phát triển những quan
điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề gia đình, chỉ ra xu hƣớng biến đổi của gia
đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu xây
dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của triết học Mác - Lê-nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
và đƣờng lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề gia đình.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa

duy vật lịch sử, kết hợp phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp lô-gic - lịch
sử, phƣơng pháp hệ thống, xã hội học…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình trong tác phẩm; Vận
dụng những tƣ tƣởng đó, khảo sát tình hình, những vấn đề đặt ra và xu hƣớng biến đổi
của gia đình Việt Nam dƣới các góc độ chính trị, kinh tế, xã hội
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình trong tác
phẩm; Những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về vấn đề gia đình và thực tiễn vận
động của gia đình Việt Nam trong hai mƣơi lăm năm đổi mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những luận điểm, tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về gia
đình và thực tiễn xây dựng gia đình ở Việt Nam; Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn
này có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu Triết
học về vấn đề gia đình.
7. Kết cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 2
chƣơng, 5 tiết.

Chương 1
TƯ TƯỞNG CỦA PH. ĂNG-GHEN VỀ GIA ĐÌNH
TRONG TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH,
CỦA CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”
1.1. Vị trí vấn đề gia đình trong tác phẩm
1.1.1. Giới thiệu chung về tác phẩm
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” đƣợc Ph.
Ăng-ghen viết từ cuối tháng ba đến cuối tháng năm năm 1884; đƣợc xuất bản lần đầu
tiên vào tháng mƣời năm 1884 tại Đuy-rich (Thụy Sỹ).
Ph. Ăng-ghen viết tác phẩm với tính cách là “thực hiện di chúc” của C. Mác thông

qua bản ghi chép về tác phẩm “Xã hội cổ đại” của L.H. Moóc-gan.
Tác phẩm gồm hai lời tựa và chín chƣơng.
Nghiên cứu tác phẩm giúp chúng ta có những căn cứ khoa học để xây dựng cho
giai cấp vô sản những quan điểm đúng đắn, nhằm xây dựng chế độ xã hội mới; Đặc
biệt, tác phẩm đã bổ sung, làm phong phú những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa
học và giúp chúng ta học tập đƣợc một mẫu mực về phƣơng pháp nghiên cứu khoa
học.
1.1.2. Những tiền đề xuất phát tư tưởng về gia đình của Ph. Ăng-ghen trong
tác phẩm
Những vấn đề lý luận về gia đình đƣợc Ph. Ăng-ghen trình bày tập trung trong
chƣơng 2 của tác phẩm.
Trên cơ sở những tƣ liệu của Bắc-hô-phen, Mắc-Len-nan, và đặc biệt là những
quan điểm duy vật của L.H. Moóc-gan về gia đình, đồng thời bổ sung chúng bằng
những tƣ liệu mới, sử dụng những nhận xét phê phán và những ý kiến của C. Mác
trong bản ghi chép và những tài liệu của riêng mình về lịch sử nhân loại, Ph. Ăng-ghen
đã đƣa ra những tƣ tƣởng duy vật biện chứng về gia đình khi xem xét lịch sử hình
thành và phát triển, cũng nhƣ vị trí và vai trò của gia đình trong đời sống xã hội.
1.2. Những nội dung cơ bản về vấn đề gia đình trong tác phẩm
1.2.1. Nguồn gốc của gia đình
Từ việc nghiên cứu lịch sử nguyên thủy, Ph. Ăng-ghen đã cho thấy: gia đình là
yếu tố năng động, thƣờng xuyên biến đổi khi xã hội phát triển từ giai đoạn thấp lên
giai đoạn cao, tức từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế xã hội cao chứ
không cố định. Những biến đổi đó diễn ra theo chiều hƣớng lúc đầu là quan hệ hôn
nhân chung, tức là tình trạng trong đó những ngƣời chồng sống theo chế độ nhiều vợ,
và vợ của họ cũng đồng thời sống theo chế độ nhiều chồng, và vì vậy, con cái chung
đều coi là chung của cả hai bên. Tình trạng này đã trải qua một loạt những biến đổi
làm cho số ngƣời mà quan hệ hôn nhân chung gắn bó với nhau, lúc đầu là rất đông, về
sau ngày càng thu hẹp lại, cho đến lúc chuyển hẳn thành chế độ hôn nhân một vợ một
chồng nhƣ ngày nay. Đây chính là quá trình vận động và phát triển rất lâu dài của lịch
sử phát triển gia đình.

Nhƣ vậy, những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có
tác dụng quyết định đến hình thức tổ chức và kết cấu của gia đình. Ngƣợc lại, gia đình
và trình độ phát triển của gia đình cũng có tác động rất quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội, ảnh hƣởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con ngƣời để bảo
vệ nòi giống cũng nhƣ tái tạo ra sức lao động cho sản xuất xã hội. Từ đó, Ph. Ăng-
ghen vạch rõ: Nguồn gốc phát triển của các hình thức gia đình trong lịch sử là do
sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và do sự phát triển của những điều kiện
kinh tế - xã hội, sự phát triển của tâm lý đạo đức, tình cảm của con người. Do đó,
gia đình chuyển từ gia đình huyết tộc sang gia đình pu-na-lu-an, gia đình cặp đôi và
gia đình một vợ một chồng.
1.2.2. Những hình thức gia đình trong lịch sử
Trong tác phẩm, Ph. Ăng-ghen xem xét sự phát triển của các hình thức gia đình
trong tƣơng quan với những biến đổi của phƣơng thức sản xuất ra của cải vật chất để
từ đó đƣa ra những quan niệm khoa học về sự biến đổi của các hình thức gia đình từ
chế độ mẫu quyền nguyên thủy đến gia đình hiện đại ngày nay.
Qua khảo cứu lịch sử, Ph. Ăng-ghen nhận thấy, trong thời kỳ đầu tiên của lịch sử
nhân loại đã từng tồn tại những hình thức khác nhau của chế độ quần hôn, sau đó xuất
hiện hôn nhân đối ngẫu, kết hợp những đôi riêng lẻ trong một thời kỳ nhất định. Cuối
cùng, chế độ hôn nhân một vợ một chồng xuất hiện.
Gia đình huyết tộc hay còn gọi là gia đình cùng dòng máu, là giai đoạn đầu của
gia đình, giai đoạn thấp của chế độ quần hôn, đƣợc hình thành trên cơ sở kết hôn của
những ngƣời cùng thế hệ trong một huyết tộc, nghĩa là hôn nhân mang tính quần hôn
giữa những ngƣời đàn ông và những ngƣời đàn bà có thể là anh em của nhau. Gia đình
huyết tộc ra đời dựa trên chế độ kinh tế cộng sản nguyên thủy. Ở đó, tài sản thuộc về
cộng đồng, chƣa có sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất nói riêng, tƣ hữu về tài sản nói
chung. Trong gia đình huyết tộc, các con không thể biết chính xác đƣợc ai là bố đẻ của
mình, trong khi có thể xác định một cách chắc chắn ngƣời mẹ. Do vậy, đây là một
trong những nguyên nhân hình thành chế độ mẫu quyền.
Gia đình Pu-na-lu-an đƣợc coi là bƣớc tiến thứ hai trong tổ chức gia đình, đƣợc
hình thành trên những hình thức kết hôn tiến bộ hơn gia đình huyết tộc, đó là xoá bỏ

hình thức kết hôn của những ngƣời cùng thế hệ.
Đặc trƣng của hình thức gia đình pu-na-lu-an là “một số nhất định chị em gái cùng
mẹ hoặc xa hơn… đều là vợ chung của những ngƣời chồng chung, trừ những anh em
trai của họ ra; những ngƣời chồng đó… gọi nhau là “pu-na-lu-an”, nghĩa là bạn
thân,… Cũng giống nhƣ thế, một số anh em trai cùng mẹ hoặc xa hơn, đều lấy chung
một số vợ không phải là chị em gái của họ, và những ngƣời vợ đó đều gọi nhau là pu-
na-lu-an”.
Đặc trƣng đó cho thấy, trong gia đình pu-na-lu-an, con cái chỉ xác định đƣợc mẹ
và ngƣời phụ nữ có vai trò quyết định đến sự tồn tại của gia đình. Do đó, khi phân tích
sự tác động của yếu tố kinh tế đến sự biến đổi của các hình thức gia đình trong lịch sử,
Ph. Ăng-ghen chỉ rõ rằng, kinh tế gia đình nguyên thủy chủ yếu dựa trên cơ sở của
kinh tế hái lƣợm, ngƣời phụ nữ đóng vai trò chủ yếu thì quan hệ thân tộc chỉ đƣợc xác
lập theo hệ mẹ. Và chế độ kinh tế cộng sản nguyên thủy đó chi phối tất cả các loại
hình gia đình trong suốt thời đại mông muội và dã man.
Gia đình cặp đôi là hình thức gia đình xuất hiện vào cuối thời kỳ mông muội. Cơ
sở hình thành của hình thức gia đình này là kết hôn từng cặp. Nhƣng sự liên kết giữa
từng đôi vợ - chồng ở hình thức này còn lỏng lẻo, chƣa bền vững, một bên có thể cắt
đứt mối quan hệ này một cách dễ dàng, và con cái chỉ thuộc về ngƣời mẹ. Mặc dù có
nhiều yếu tố mới nhƣ vậy, nhƣng gia đình cặp đôi chƣa có đủ điều kiện để xây dựng một
cơ sở kinh tế riêng, mà vẫn phải dựa trên cơ sở kinh tế cộng sản nguyên thủy do thời
trƣớc để lại.
Cùng với sự phát triển đó của lực lƣợng sản xuất và sự phân công lao động mới
xuất hiện, nên ảnh hƣởng của ngƣời phụ nữ trong đời sống kinh tế và quan hệ xã hội
dần giảm sút. Lúc này, vai trò của ngƣời đàn ông ngày càng đƣợc khẳng định và dần
giữ địa vị thống trị trong gia đình, khiến cho ngƣời đàn ông có xu hƣớng đảo ngƣợc
trật tự thừa kế cổ truyền nhằm có lợi cho con mình. Sự xuất hiện của chế độ tƣ hữu
làm cho hình thái gia đình mẫu quyền sụp đổ và chuyển sang chế độ phụ quyền. Sự
thay đổi này là một trong những cuộc cách mạng triệt để nhất mà nhân loại đã trải qua.
Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra nguyên nhân của sự phát triển cho gia đình cặp đôi thành
gia đình một vợ một chồng, cũng chính là nguyên nhân của sự thay thế chế độ mẫu

quyền thành chế độ phụ quyền. Trong đó, chế độ gia đình gia trƣởng là hình thức trung
gian giữa chế độ mẫu hệ và phụ hệ.
Quyền chuyên chế của ngƣời đàn ông một khi đƣợc xác lập thì kết quả đầu tiên
của nó thể hiện ra trong hình thức trung gian đã xuất hiện lúc đó, tức là gia đình gia
trưởng. Nét đặc trƣng chủ yếu của hình thức gia đình gia trƣởng không phải là chế độ
nhiều vợ, mà là việc thu nhận những ngƣời nô lệ và quyền lực gia trƣởng.
Sự xuất hiện sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất chính là nguyên nhân xuất hiện
hình thức gia đình tiếp theo, gia đình một vợ một chồng, hay còn gọi là chế độ hôn
nhân cá thể. Nếu nhƣ các hình thức gia đình đã nêu ở trên đều xuất hiện từ yếu tố tự
nhiên thì hình thức gia đình này đƣợc xuất hiện dựa trên yếu tố kinh tế.
Gia đình một vợ một chồng đƣợc hình thành chủ yếu do sự phát triển của lực
lƣợng sản xuất làm nảy sinh chế độ tƣ hữu và khi ấy gia đình trở thành những đơn vị
kinh tế của xã hội. Hình thức này đƣợc duy trì cho đến ngày nay, và sẽ ngày càng hoàn
thiện hơn khi xuất hiện chế độ sở hữu công cộng về tài sản nói chung, về tƣ liệu sản
xuất nói riêng. Ph. Ăng-ghen vạch rõ chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình
đầu tiên không dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế
- tức là trên thắng lợi của sở hữu tƣ nhân đối với sở hữu công cộng và tự phát.
Ngƣời phân tích triệt để những mâu thuẫn nội tại trong gia đình dƣới chế độ tƣ
hữu, và coi đó là hình thức thu nhỏ của những mặt đối lập những mâu thuẫn tồn tại
trong xã hội có phân chia giai cấp. Ở đây, chế độ một vợ một chồng có tính chất khá
đặc biệt là “một vợ một chồng chỉ riêng đối với ngƣời đàn bà, chứ không phải đối với
đàn ông”.
Nền văn minh tƣ sản cũng không thể nào giải quyết và khắc phục đƣợc những
mâu thuẫn và những sự đối lập trong gia đình đó, bởi lẽ “sự đối lập giai cấp đầu tiên
xuất hiện trong lịch sử là trùng với sự phát triển của sự đối kháng giữa chồng và vợ
trong hôn nhân cá thể, và sự áp bức giai cấp đầu tiên là trùng với sự nô dịch của đàn
ông đối với đàn bà”.
Tuy nhiên, trong xã hội tƣ sản, trong các giai cấp bị áp bức, Ph. Ăng-ghen nhận
thấy, “đang hình thành những cuộc hôn nhân trong đó, tình cảm yêu thƣơng và kính
trọng lẫn nhau giữ vai trò quyết định. Đó là sự liên kết tự nguyện của những con ngƣời

bình đẳng với nhau”. Ngƣời khẳng định, chỉ có trong giai cấp vô sản, thì hôn nhân mới
hình thành trên cơ sở tình yêu, tự do, tự nguyện của hai bên nam, nữ. Gia đình vô sản
không có sự tính toán về lợi ích, “hôn nhân của ngƣời vô sản là hôn nhân của một vợ
một chồng theo ngữ nghĩa nguyên, chứ tuyệt nhiên không phải là theo nghĩa lịch sử
của danh từ đó”.
Sự phân tích toàn diện của Ph. Ăng-ghen về quá trình phát sinh và phát triển của
các hình thức gia đình cho chúng ta thấy tính liên tục một cách khoa học nhất, đúng
đắn nhất của lịch sử nhân loại, điều mà trƣớc kia chƣa từng diễn ra. Lần đầu tiên trong
lịch sử, bằng những cứ liệu khoa học, Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra ba hình thức hôn nhân
chính tƣơng ứng với ba giai đoạn phát triển của nhân loại: ở thời đại mông muội, có
chế độ quần hôn; ở thời đại dã man, có chế độ hôn nhân cặp đôi; và ở thời đại văn
minh, có chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Nấc thang phát triển các hình thức gia
đình trong lịch sử đó là do sự quy định của trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
nhân loại.
1.2.3. Sự biến đổi của gia đình trong tương lai
Coi hôn nhân cá thể là hình thức tế bào của xã hội văn minh, hình thức mà chúng
ta có thể dựa vào đó để nghiên cứu bản chất của hình thái gia đình trong xã hội văn
minh, Ph. Ăng-ghen đã đƣa ra những dự báo về sự biến đổi hình thái gia đình ấy, khi
mà nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa bị xóa bỏ, nền sản xuất xã hội chủ nghĩa đƣợc thiết
lập. Từ quan điểm duy vật về lịch sử, Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng
giữa tình yêu, hôn nhân và gia đình, trong đó ông coi tình yêu và hôn nhân nhƣ những
nhu cầu bức thiết của con ngƣời tự do và là cơ sở, nền tảng để xây dựng gia đình một
vợ một chồng hạnh phúc, bền vững.
Trƣớc hết, Ph. Ăng-ghen khẳng định tình yêu và hôn nhân là những giá trị cao quý
của con ngƣời, là những quyền hết sức cơ bản của con ngƣời - quyền đƣợc tự do yêu
đƣơng và tự do kết hôn. Và quyền tự do yêu đƣơng và tự do kết hôn này không chỉ là
quyền cơ bản của ngƣời đàn ông, mà còn là của những ngƣời đàn bà trong xã hội. Bởi
lẽ, họ đều là chủ thể, là những thành tố nhƣ nhau và không thể thiếu đƣợc của tình yêu
và hôn nhân. Họ đều có quyền tự do yêu đƣơng, tự do đi đến hôn nhân và cộng đồng
xã hội phải tôn trọng và bảo vệ, phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tạo điều kiện cho họ

đƣợc hƣởng những quyền cao quý và thiêng liêng đó.
Để xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình trong xã hội mới, Ph. Ăng-ghen chỉ ra
những điều kiện kinh tế xã hội cần thiết tất yếu làm cơ sở cho chế độ một vợ một
chồng đƣợc thực hiện trọn vẹn. Ngƣời viết: “Hiện nay, chúng ta đang tiến tới một cuộc
cách mạng xã hội, trong đó các cơ sở kinh tế từ trƣớc tới nay của chế độ một vợ một
chồng cũng nhƣ cơ sở của điều bổ sung cho nó là nạn mại dâm, đều nhất định sẽ bị
tiêu diệt…các tƣ liệu sản xuất mà đƣợc chuyển thành tài sản xã hội thì chế độ lao động
làm thuê, giai cấp vô sản cũng sẽ biến mất, và đồng thời cũng sẽ không còn một tình
trạng một số phụ nữ… cần thiết phải bán mình vì đồng tiền nữa chế độ một vợ một
chồng không những không suy tàn, mà cuối cùng lại còn trở thành một hiện thực -
ngay cả đối với đàn ông nữa”.
Việc xóa bỏ chế độ tƣ hữu, thực hiện công hữu hóa các tƣ liệu sản xuất và sự phát
triển của nền đại công nghiệp sẽ tạo điều kiện giải phóng ngƣời phụ nữ, xây dựng quan
hệ gia đình bình đẳng, hòa thuận. Và trong xã hội tƣơng lai ấy, tình yêu và hôn nhân sẽ
là sự tự nguyện của cả ngƣời đàn ông và ngƣời đàn bà. Đó chính là điều kiện cho sự
bình đẳng nam nữ trong xã hội.
Nhƣ vậy, hôn nhân và gia đình bền vững phải đƣợc hình thành trên cơ sở của tình
yêu và sự thỏa thuận tự do thật sự giữa hai vợ chồng. Theo Ph. Ăng-ghen, điều đó cần
phải trở thành một nguyên tắc và bất cứ sự vi phạm nào đối với nguyên tắc này đều
dẫn đến hôn nhân không tự do và cuộc sống gia đình không bền vững.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” đƣợc
Ph. Ăng-ghen viết vào năm 1884, với tính cách là “thực hiện di chúc” của C. Mác, để
chứng minh sự đúng đắn trong những quan niệm duy vật lịch sử.
Thông qua nghiên cứu lịch sử phát triển của gia đình, Ph. Ăng-ghen làm rõ vị trí
của gia đình, mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội. Ông cho rằng: gia đình
là một yếu tố năng động, không bao giờ đứng nguyên một chỗ mà chuyển từ hình
thức thấp lên một hình thức cao cùng với sự phát triển của xã hội. Những điều kiện
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác dụng quyết định đến hình
thức và kết cấu của gia đình. Ngƣợc lại, gia đình và trình độ phát triển của gia đình

cũng có tác động rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, ảnh hƣởng
trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con ngƣời, bảo vệ nòi giống cũng nhƣ tái tạo ra
sức lao động cho sản xuất xã hội.
Ph. Ăng-ghen vạch rõ nguồn gốc phát triển của các hình thức gia đình trong lịch
sử là do sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và do sự phát triển của những điều
kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của tâm lý đạo đức, tình cảm của con ngƣời. Do
đó, gia đình đã chuyển từ gia đình huyết tộc sang gia đình pu-na-lu-an, gia đình cặp
đôi và gia đình một vợ một chồng. Tuy nhiên, chỉ trong giai cấp vô sản, chế độ hôn
nhân một vợ một chồng mới đƣợc thực hiện theo đúng nghĩa của nó, trên cơ sở là
tình yêu chân chính giữa nam và nữ.
Từ đó, trên quan điểm duy vật về lịch sử, Ph. Ăng-ghen đã luận giải một cách
khoa học mối quan hệ biện chứng giữa tình yêu - hôn nhân - và gia đình. Đó chính là
cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận về vấn đề gia đình để chúng ta vận dụng trong việc
xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Chương 2
Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CỦA PH. ĂNG-GHEN VỀ GIA ĐÌNH
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề gia đình
Theo Ph. Ăng-ghen chỉ có trong giai cấp bị áp bức, giai cấp vô sản, tình yêu nam nữ
mới trở thành một quy tắc và thực tế đang là một quy tắc trong hôn nhân và gia đình. Ở
đây, tất cả mọi cơ sở của chế độ hôn nhân một vợ một chồng cổ điển đều bị phá bỏ. Hôn
nhân của ngƣời vô sản nảy sinh trên cơ sở tình yêu chân chính của nam và nữ và tồn tại
vững chắc trên cơ sở đó. Đây chính là hình thức hôn nhân tiến bộ và cần tạo điều kiện
để hôn nhân đƣợc thực hiện theo đúng nghĩa của nó.
Những tƣ tƣởng về hôn nhân và gia đình đó chính là cơ sở lý luận để định hình nên
những nguyên lý chỉ đạo cho việc thực hiện hôn nhân và gia đình ở Việt Nam. Cùng với
thực tiễn xã hội của đất nƣớc, những quan điểm đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc ta đƣợc hình thành và phát triển phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Trong xã hội Việt Nam, gia đình là môi trƣờng bảo tồn văn hóa truyền thống, giáo

dục nếp sống, hình thành nhân cách con ngƣời, đồng thời giúp mỗi cá nhân ngày càng
hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, chuẩn bị hành trang hoà nhập vào cộng đồng
xã hội. Nhận thức rất rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của gia đình đối với sự phát
triển của cá nhân và của xã hội, nên, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, cũng nhƣ trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn nhấn
mạnh, quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia đình. Những nguyên tắc cơ bản về hôn
nhân và gia đình đƣợc xác định trong các văn bản luật, trực tiếp nhất là Luật hôn nhân
và gia đình. Đặc biệt, trong các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng ta đều
nêu rõ vị trí, vai trò của gia đình đối với sự phát triển của cá nhân, xã hội; và trách
nhiệm của mỗi cá nhân, xã hội đối với việc xây dựng gia đình hiện nay.
2.2. Xu hướng biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Mặc dù có nhiều sự biến đổi so với kiểu gia đình truyền thống, nhƣng gia đình
Việt Nam hiện nay chƣa thể là kiểu gia đình hiện đại. Bởi vì, gia đình hiện đại phải là
sản phẩm của xã hội công nghiệp phát triển, dân cƣ có lối sống đô thị và đạt đến một
trình độ văn minh khá cao. Trong khi đó, quá trình đô thị hóa ở Việt Nam vẫn đang ở
giai đoạn đầu. Do vậy, gia đình Việt Nam ngày nay có thể đƣợc coi là kiểu “gia đình
quá độ” trong bƣớc chuyển biến từ xã hội công nghiệp cổ truyền sang xã hội công
nghiệp hiện đại, với nhịp độ biến đổi và phát triển khá nhanh.
Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới mang tính toàn diện cả
về cơ cấu, các quan hệ, các chức năng cũng nhƣ vai trò của ngƣời phụ nữ trong gia
đình và đƣa đến những hệ quả đa chiều.
2.2.1. Biến đổi về quy mô, kết cấu gia đình
Xu hƣớng hạt nhân hóa gia đình ở Việt Nam đang có chiều hƣớng gia tăng vì
nhiều ƣu điểm và lợi thế của nó. Trƣớc hết, gia đình hạt nhân tồn tại nhƣ một đơn vị
độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có khả năng thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội. Sự
thu hẹp quy mô gia đình tạo điều kiện thúc đẩy sự bình đẳng giới, giảm bớt những mâu
thuẫn và xung đột phát sinh từ việc chung sống trong gia đình nhiều thế hệ. Kiểu gia
đình này tạo cho mỗi thành viên trong gia đình khoảng không gian tự do tƣơng đối lớn
để phát triển tự do cá nhân. Ở đó, cá nhân tính đƣợc đề cao.
Tuy nhiên, gia đình hạt nhân cũng có những điểm yếu nhất định. Tự do cá nhân

đƣợc đề cao, cùng với sự ra đời của các phƣơng tiện hiện đại càng làm cho xu hƣớng
cá nhân hóa mạnh mẽ hơn. Điều này dẫn đến các mối liên hệ trong gia đình trở lên
lỏng lẻo hơn. Ngoài ra, sự phát triển của xã hội theo hƣớng “mở” cũng đặt gia đình
Việt Nam trƣớc những nguy cơ bị xâm hại bởi các tệ nạn xã hội nhƣ ma túy, mại dâm,
trẻ lang thang Do vậy, để củng cố sự bền vững của gia đình, chúng ta cần có nhiều
hình thức hoạt động để nâng cao ý thức của công dân về vai trò, tầm quan trọng của
gia đình, ý thức về việc xây dựng gia đình văn minh, bền vững.
2.2.2. Biến đổi về chức năng của gia đình
Gia đình Việt Nam hiện nay, về cơ bản, vẫn là mô hình gia đình truyền thống đa
chức năng. Các chức năng cơ bản của gia đình nhƣ: chức năng tái sản xuất con ngƣời
và sức lao động; chức năng kinh tế; chức năng giáo dục; chức năng tâm - sinh lý, tình
cảm ngày càng đƣợc đề cao và có điều kiện thực hiện tốt hơn.
Sự biến đổi về chức năng tái sản xuất con người
Trƣớc thời kỳ đổi mới, mức sinh ở nƣớc ta thƣờng rất cao, nhất là ở các vùng
nông thôn. Nhƣng, hiện nay, với quá trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang công
nghiệp, chức năng tái sản xuất ra con ngƣời đã có những biến đổi khác trƣớc. Nếu
trƣớc đây việc sinh đẻ tùy theo tâm lý, ý muốn riêng của gia đình, dòng họ , thì ngày
nay việc sinh đẻ của mỗi gia đình còn phụ thuộc vào ý thức xã hội, vào chính sách
kinh tế - xã hội, chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình của đất nƣớc. Nếu trƣớc
đây, tâm lý thích đông con, sinh con trai để nối dõi tông đƣờng là tiêu chuẩn đầu tiên
của chức năng sinh sản, thì hiện nay, những quan niệm đó không còn đƣợc ƣu tiên
bằng việc nuôi con khỏe, dạy con ngoan.
Sự biến đổi về chức năng kinh tế
Trong xã hội công nghiệp, chức năng sản xuất của gia đình thu hẹp dần và chức
năng tiêu dùng lại có xu hƣớng tăng lên. Ở Việt Nam hiện nay, chức năng kinh tế của
gia đình cũng không nằm ngoài xu hƣớng biến đổi này. Bƣớc sang thời kỳ đổi mới,
việc coi kinh tế “hộ gia đình” là một thành phần quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, làm cho kinh tế gia đình đƣợc cải thiện. Kinh tế phát triển nhanh, thu nhập của gia
đình tăng lên, nên nhu cầu tiêu dùng của gia đình đã có những biến đổi khá rõ nét.
Trong xã hội, đã có sự chuyển giao một phần việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gia

đình cho các dịch vụ xã hội.
Sự biến đổi về chức năng giáo dục
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc tác động làm cho chức năng
giáo dục của gia đình cũng diễn ra sự biến đổi theo nhiều xu hƣớng. Những gia đình
có trách nhiệm với con cái, thƣờng có sự kết hợp chặt chẽ giữa các môi trƣờng giáo
dục: gia đình - nhà trƣờng - xã hội. Bên cạnh đó, những nhóm gia đình quá tập trung
vào lợi ích kinh tế và tự do cá nhân thƣờng phó mặc chức năng giáo dục con cái cho
nhà trƣờng và xã hội.
Sự biến đổi về chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm - sinh lý
Quá trình công nghiệp hóa đất nƣớc ở Việt Nam đã có tác động làm biến đổi chức
năng này của gia đình theo các xu hƣớng khác nhau, chủ yếu tập trung ở hai nhóm:
nhóm gia đình đáp ứng, thỏa mãn đƣợc những nhu cầu tâm - sinh lý của các thành viên
và nhóm gia đình ít quan tâm đến việc thỏa mãn nhu cầu tâm - sinh lý của các thành
viên.

2.2.3. Vị thế, vai trò của người phụ nữ trong gia đình được nâng cao
Phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đƣợc thể hiện và phát huy đầy đủ hơn
những năng lực của mình, cống hiến nhiều hơn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Họ đƣợc tự do phát triển những năng lực sẵn có và tham gia vào các hoạt động xã
hội. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những bƣớc khởi đầu thuận lợi. Trong cuộc sống hiện
đại, ngƣời phụ nữ đồng thời phải đảm nhiệm cả công việc gia đình và công việc xã
hội. Sự phát triển của xã hội đã thu hút chị em phụ nữ tham gia công tác xã hội ngày
càng nhiều hơn, cùng với thiên chức gắn với họ suốt cả cuộc đời làm cho gánh nặng
đặt lên vai chị em càng thêm nặng hơn. Và ngƣời phụ nữ vẫn đang phải đối mặt với
không ít khó khăn, thách thức, những mâu thuẫn, trở ngại làm hạn chế vị thế, vai trò
của mình từ xã hội cũng nhƣ từ chính gia đình của họ. Đó là những rào cản về mặt tâm
lý xã hội trong nhìn nhận, đánh giá năng lực, vị thế của ngƣời phụ nữ; là mâu thuẫn
giữa việc thực hiện các vai trò, chức năng làm vợ, làm mẹ, làm kinh tế gia đình với vai
trò, trách nhiệm của ngƣời cán bộ, ngƣời quản lý
Tuy vậy, sau hai mƣơi lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới, ngƣời phụ nữ Việt

Nam ngày càng năng động, tự tin và đã khẳng định đƣợc vị thế, vai trò quan trọng của
mình trong gia đình cũng nhƣ trong xã hội. Đó là minh chứng cho sự thay đổi lớn về
mặt tƣ duy, nhận thức và hành động của Đảng và Nhà nƣớc, cũng nhƣ sự nỗ lực không
ngừng của ngƣời phụ nữ Việt Nam, góp phần xây dựng quê hƣơng đất nƣớc ngày càng
văn minh, giàu mạnh, đƣa vị thế xã hội của ngƣời phụ nữ lên một tầm cao mới.

2.3. Vận dụng tư tưởng của Ph. Ăng-ghen trong xây dựng gia đình ở Việt
Nam hiện nay
Vận dụng tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình, về mối quan hệ biện
chứng giữa tình yêu - hôn nhân - gia đình vào hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam hiện
nay, chúng ta cần có những giải pháp thiết thực để đạt đƣợc mục tiêu: “Xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trƣờng
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.3.1. Đẩy mạnh việc tạo lập các điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội
thuận lợi cho sự phát triển của gia đình
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phải gắn với chiến lược xây
dựng và phát triển gia đình
Muốn xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, phải có các chính sách kinh
tế - xã hội quan tâm đến gia đình, phát triển kinh tế gia đình, tạo cơ sở cho việc xây
dựng, bảo vệ các giá trị, chuẩn mực đạo đức của gia đình. Xây dựng chiến lƣợc kinh tế
- xã hội cần phải lấy con ngƣời làm mục tiêu, quan tâm đến lợi ích của từng gia đình,
của mỗi cá nhân ngƣời lao động, coi sự phát triển của gia đình là một trong những
động lực quan trọng quyết định thành công sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò đặc biệt của gia đình đối với
xã hội
Cần có sự nghiên cứu chuyên sâu hơn về vấn đề gia đình hiện nay, hình thành các
giá trị, chuẩn mực, khuôn mẫu văn hóa, đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam

hiện đại. Trên cơ sở đó, tiến hành việc giáo dục, xây dựng những quan niệm mới về
tình yêu, hôn nhân, gia đình, truyền bá những kiến thức khoa học về cuộc sống gia
đình, xây dựng những quy tắc, tập quán tiến bộ trong quan hệ ứng xử giữa các thành
viên trong gia đình; hƣớng dẫn nội dung, phƣơng pháp nuôi dạy con cái một cách có
hệ thống và trên quy mô lớn; chuẩn bị cho thanh niên có kiến thức và ý thức trƣớc khi
kết hôn
Kế thừa những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu các giá trị tiến bộ
trong văn hóa gia đình của nhân loại
Đến nay, dù gia đình Việt Nam đã có nhiều biến đổi so với trƣớc kia, nhƣng hơn
bao giờ hết, chúng ta cần tiếp tục vun đắp, nuôi dƣỡng, phát huy những giá trị đạo đức
tốt đẹp của gia đình truyền thống. Những truyền thống đó cần đƣợc kế thừa bằng việc
thƣờng xuyên khuyên nhủ, động viên, giáo dục nề nếp gia phong, nêu gƣơng của thế
hệ trƣớc đối với các thế hệ sau.
Cùng với việc kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc, ngày nay, trong điều kiện mở cửa hợp tác và hòa nhập với các nƣớc trong khu vực
và trên thế giới, để xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại, chúng ta cần tiếp thu các giá
trị văn hóa gia đình tiến bộ, nhân văn của các dân tộc khác, nhƣ sự tôn trọng quyền
bình đẳng, dân chủ trong quan hệ của các thành viên, sự tôn trọng nhân phẩm cá nhân,
đặc biệt đối với phụ nữ, ngƣời trẻ tuổi, con cái trong gia đình Đồng thời, cần chống
lại những ảnh hƣởng tiêu cực của văn hóa gia đình từ bên ngoài tác động đến văn hóa
gia đình Việt Nam.
2.3.2. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật, chính sách về xây dựng gia đình
Trong giai đoạn đổi mới đất nƣớc, cùng với xu hƣớng biến đổi của gia đình, cần
pháp luật hóa và tăng tính thực thi những điều khoản cụ thể về vấn đề gia đình, đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của gia đình Việt Nam. Xây dựng hệ thống pháp luật,
chính sách về gia đình hiện nay rất cần sự mở rộng hiệu lực của việc chấp hành pháp
luật, tăng cƣờng giáo dục pháp chế, có những đảm bảo về mặt pháp luật để giác ngộ
mỗi thành viên của gia đình tuân thủ pháp luật một cách tự nguyện, trở thành ý thức cá
nhân. Đảng và Nhà nƣớc cần tiếp tục ban hành, bổ sung những chính sách mới phù
hợp với điều kiện xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, tạo

hành lang pháp lý để hỗ trợ và phát triển gia đình.
Để pháp luật nói chung, pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng đƣợc đi vào
đời sống xã hội, bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện các văn bản luật, các chủ
trƣơng, chính sách về xây dựng gia đình, cần làm tốt công tác tuyên truyền bằng nhiều
nội dung, phƣơng pháp đa dạng, phong phú và hiệu quả.

2.3.3. Tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò của người phụ nữ
trong gia đình và trong xã hội
Muốn phát huy vai trò của ngƣời phụ nữ trong gia đình, trƣớc hết phải thay đổi
nhận thức, phải có nhận thức đúng về vị trí, vai trò và khả năng của ngƣời phụ nữ. Đấu
tranh loại bỏ những tƣ tƣởng gia trƣởng, cổ hủ, những tâm lý, thói quen lạc hậu đánh
giá sai về vị trí, vai trò của ngƣời phụ nữ. Mặt khác, phải tuyên truyền, vận động để
chính ngƣời phụ nữ biết tự vƣơn lên, xóa bỏ tâm lý tự ti, mặc cảm của bản thân, tƣ
tƣởng “an phận thủ thƣờng”, cam chịu và thụ động, tự “trói buộc", tự “bỏ quên” hay
“từ chối" những quyền mà pháp luật, xã hội đã tạo điều kiện và cơ hội cho mình.
Tuy nhiên, giải phóng phụ nữ triệt để, thực hiện sự bình quyền, cần phải có sự
phân công sắp xếp lại lao động của toàn xã hội, đƣa phụ nữ tham gia vào nhiều ngành
nghề hơn nữa. Cần phát triển hệ thống dịch vụ gia đình để ngƣời phụ nữ có điều kiện
học tập nâng cao trình độ mọi mặt và tham gia vào tất cả lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trên cơ sở những quan điểm của Ph. Ăng-ghen về hôn nhân và gia đình, cùng với
sự vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xã hội của đất nƣớc, Đảng và Nhà nƣớc ta đã hình
thành và phát triển những chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách về thực hiện hôn nhân và
gia đình Việt Nam phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Công cuộc đổi mới đất nƣớc mà Đảng ta tiến hành hơn hai mƣơi lăm năm qua đã có
những tác động to lớn làm biến đổi gia đình Việt Nam trên nhiều phƣơng diện và xu
hƣớng khác nhau cả về quy mô, kết cấu, chức năng của gia đình, cũng nhƣ vị thế, vai trò
của ngƣời phụ nữ trong gia đình hiện nay. Vận dụng tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn
đề gia đình, về mối quan hệ biện chứng giữa tình yêu - hôn nhân - gia đình vào sự

nghiệp xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc trong điều kiện mới, đòi hỏi
chúng ta phải thực hiện những giải pháp và chính sách đồng bộ. Trong đó, cần tập
trung vào các giải pháp nhƣ: Tạo lập các điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho việc
xây dựng và phát triển gia đình, khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về vấn đề gia đình, kế thừa văn hóa truyền thống, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại; Hoàn thiện, bổ sung thể chế pháp luật, chính sách về gia
đình; Tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới

KẾT LUẬN
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc” đƣợc Ph.
Ăng-ghen viết năm 1884. Với những quan điểm khoa học và tƣ tƣởng cách mạng triệt
để, tác phẩm góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu lý luận, hƣớng dẫn thực
tiễn đấu tranh lúc bấy giờ; và ngày nay, nội dung và ý nghĩa của tác phẩm vẫn còn
nguyên giá trị, nhất là những tri thức về chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Lần đầu tiên, lý luận về gia đình đƣợc trình bày một cách hệ thống và khoa học. Ph.
Ăng-ghen đã chỉ ra hôn nhân và gia đình là những hiện tƣợng phát sinh trong quá trình
phát triển của loài ngƣời, chịu sự tác động có tính quyết định của các điều kiện kinh tế -
xã hội. Do vậy, lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời gắn liền với quá trình phát sinh,
thay đổi những hình thái hôn nhân và gia đình. Đặc biệt, Ngƣời nêu rõ, chỉ có trong giai
cấp vô sản thì tình yêu và hôn nhân mới trở thành những quyền cơ bản của con ngƣời -
quyền đƣợc tự do yêu đƣơng và tự do kết hôn. Từ đó, Ph. Ăng-ghen đã đƣa ra những dự
báo về sự biến đổi của gia đình trong tƣơng lai, mà ở đó tình yêu và hôn nhân là những
nhu cầu bức thiết của con ngƣời và là cơ sở, nền tảng để xây dựng gia đình một vợ một
chồng hạnh phúc, bền vững.
Vận dụng tƣ tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình trong xây dựng và phát
triển gia đình Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc ta đã sớm nhận thức rất rõ vị trí, vai trò
đặc biệt của gia đình đối với sự phát triển của cá nhân và của xã hội. Ngay từ khi ra
đời, và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nƣớc luôn nhấn mạnh,
quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia đình. Những chủ trƣơng, chính sách về hôn nhân
- gia đình ngày càng thể hiện đầy đủ cùng với các quá trình cách mạng của đất nƣớc.

Trên cơ sở những tƣ tƣởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đặc biệt là những tƣ
tƣởng của Ph. Ăng-ghen về vấn đề gia đình, Đảng và Nhà nƣớc đã có sự định hƣớng
vững chắc, từ đó đề ra chủ trƣơng, chính sách đúng đắn cho việc thực hiện những quan
hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài
ngƣời.
Sau hai mƣơi lăm năm đổi mới đất nƣớc, gia đình Việt Nam đã có nhiều biến đổi
sâu sắc trên các phƣơng diện và xu hƣớng khác nhau từ quy mô, kết cấu đến các chức
năng của gia đình và vai trò, vị thế của ngƣời phụ nữ trong gia đình và xã hội Đời
sống vật chất và tinh thần của gia đình Việt Nam đƣợc cải thiện đáng kể, những tiến
bộ trong quan niệm về bình đẳng, bình quyền, việc loại bỏ những tập tục, chuẩn mực
lạc hậu trong xã hội cũ đã tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình, đặc biệt là
nữ giới đƣợc phát triển và nâng cao vị thế của mình. Tuy vậy, mặt trái của những biến
đổi kinh tế - xã hội đó cũng ảnh hƣởng rất lớn đến sự phát triển của gia đình Việt Nam
hiện nay. Sự lỏng lẻo trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, tình trạng
ly hôn, ly thân gia tăng, đạo đức, lối sống thực dụng, văn hóa ứng xử xuống cấp là
những nguy cơ đe dọa sự phát triển bền vững của gia đình. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta
cần có sự nhìn nhận nghiêm túc, nghiên cứu chuyên sâu để đƣa ra những giải pháp
hiệu quả trong xây dựng gia đình Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới của giai đoạn phát
triển đất nƣớc./.












References.
A. TÀI LIỆU SÁCH, BÁO
1. Lê Ngọc Anh (2005), Quan niệm của Ph.Ăng-ghen về tình yêu hôn nhân và
gia đình trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”,
Tạp chí Triết học, số 11, tr. 25-29.
2. Lê Trọng Ân (2004), Tìm hiểu tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu và của nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Mai Huy Bích (2003), Xã hội học gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và đào tạo (2004), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (Dùng
trong các trường đại học, cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
6. Doãn Chính - Đinh Ngọc Thạch (2008), Vấn đề triết học trong tác phẩm của C.
Mác - Ph. Ăng-ghen - V.I. Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
8. Võ Anh Dũng - Đinh Văn Quảng - Ngô Thị Ngọc Anh (2006), Những nội
dung chủ yếu của chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010, Nxb
Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, Hà Nội.
9. Đỗ Trần Đại - Đặng Lệ Minh (dịch) (1977), Friđrich Engen, Tập 2, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Đại học quốc gia Hà Nội - Trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn -
Khoa Triết học (2007), Giới thiệu tác phẩm kinh điển Triết học Mác - Lê-nin, Nxb Đại
học quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ tư (khóa VII) về chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ năm (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới

(Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hoá và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
17. Nguyễn Thế Giai (2002), Luật hôn nhân và gia đình: Giải đáp 175 câu hỏi,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Lƣu Song Hà (2011), Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp, Tạp chí Cộng
sản (Chuyên đề Cơ sở), số 56, tr. 30-33.
19. Nguyễn Thị Hà (2009), Quá trình phát triển nhận thức của Đảng - Nhà nƣớc
về hôn nhân gia đình và xây dựng gia đình văn hóa, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr.
51-55.
20. Khuất Thu Hồng (1996), Gia đình truyền thống - một số tư liệu xã hội học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Vũ Tuấn Huy (chủ biên) (2004), Xu hướng gia đình ngày nay (một vài điểm
từ nghiên cứu thực nghiệm tại Hải Dương), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Trần Đình Hƣợu (1992), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Vũ Ngọc Khánh (2007), Văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
24. Nguyễn Linh Khiếu (2001), Gia đình và người phụ nữ trong biến đổi văn
hoá xã hội nông thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Nguyễn Linh Khiếu (2002), Vấn đề gia đình Việt Nam và vai trò của ngƣời
phụ nữ trong gia đình, Tạp chí Cộng sản, số 18, tr. 73-74.
26. Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên cứu phụ nữ giới và gia đình, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Linh Khiếu (2006), Giáo dục gia đình hƣớng tới xây dựng con
ngƣời thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Tạp chí Cộng sản, số 12, tr. 32-

36.
28. Trần Thị Xuân Lan (2007), Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng
phụ nữ, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr. 20-23.
29. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Tát Nhật Na (2005), Gia phong thời hiện đại, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội.
31. Nguyễn Thị Oanh (1998), Gia đình Việt Nam thời mở cửa, Nxb Trẻ, Tp Hồ
Chí Minh.
32. Ph. Ăng-ghen (1972), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.
33. Lê Thị Quý (2003), Suy nghĩ về xây dựng chiến lƣợc phát triển gia đình
hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 30, tr. 27.
34. Nguyễn Duy Quý (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Trần Văn Sơn (s.t và tuyển chọn) (2001), Những quy định pháp luật về hôn
nhân và gia đình, Nxb Lao động, Hà Nội.
36. Tạ Quang Tâm (biên soạn) (2009), Vấn đề gia đình và xây dựng gia đình
văn hóa, Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Nghệ An, Nghệ An.
37. Đỗ Thị Thạch (2011), Về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam dƣới ánh
sáng Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Cộng sản (Chuyên đề cơ sở), số 56, tr. 7-10.
38. Đặng Quang Thành - Trần Thị Thuỷ - Hồ Bá Thâm (2000), Tình yêu, hôn
nhân và gia đình – những vấn đề hiện nay, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
39. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người
Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
40. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Nguyễn Thị Thọ (2011), Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
42. Nguyễn Thị Thuý (2007), Gia đình Việt Nam và vai trò của ngƣời phụ nữ
trong gia đình, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, tr. 37-41.

43. Trần Hữu Tòng - Trƣơng Thìn (1997), Xây dựng gia đình văn hoá trong sự
nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Mỹ Trang - Nguyễn Lê Tâm (2007), Quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin về giải phóng phụ nữ, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr. 7-11.
45. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2002),
Con người và văn hóa trên đường phát triển, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Quốc Tuấn (1995), Tìm hiểu các quy phạm pháp luật về hôn nhân
và gia đình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
47. Đặng Ánh Tuyết (2005), Gia đình và vị thế ngƣời phụ nữ qua “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11, tr.
15-25.
48. Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em (2007), Gia đình và cộng đồng, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
49. Lê Ngọc Văn (1998), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
50. Lê Ngọc Văn - Nguyễn Linh Khiếu - Đỗ Thị Bình (2002), Số liệu điều tra cơ
bản về gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá (khu vực miền Bắc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. V.I. Lê-nin (2005), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
53. Trần Quốc Vƣợng (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Trần Thị Kim Xuyến (2001), Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện
đại, Nxb Thống kê, Hà Nội.
55. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
B. CÁC VĂN BẢN PHÁP QUY
56. Hiến pháp nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đƣợc Quốc hội nƣớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 09 tháng 11 năm 1946.
57. Sắc lệnh số 97/SL của Chủ tịch nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành

ngày 22 tháng 5 năm 1950 về việc sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật.
58. Sắc lệnh số 159/SL của Chủ tịch nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban
hành ngày 17 tháng 11 năm 1950 về việc quy định vấn đề ly hôn.
59. Hiến pháp số 1/SL đƣợc Quốc hội nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa
I, kỳ họp thứ 11, thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959.
60. Luật Hôn nhân và gia đình số 2/SL đƣợc Quốc hội nƣớc Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa khóa I, kỳ họp thứ 11, thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1959.
61. Hiến pháp số 248-LCT đƣợc Quốc hội nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
khóa VI, kỳ họp thứ 7, thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1980.
62. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 số 21-LCT/HĐNN7 đƣợc Quốc hội
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 12, thông qua ngày
29 tháng 12 năm 1986.
63. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 57-LCT/HĐNN8 đƣợc Quốc
hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 9, thông qua
ngày 12 tháng 8 năm 1991.
64. Hiến pháp số 68-LCT/HĐNN8 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 11, thông qua ngày 15 tháng 4 năm 1992.
65. Nghị quyết số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 12 tháng 7 năm
1993 về đổi mới và tăng cƣờng công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới.
66. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 số 22/2000/QH10 đƣợc Quốc hội nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6
năm 2000.
67. Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành ngày
04 tháng 5 năm 2001 về Ngày Gia đình Việt Nam.
68. Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành ngày
21 tháng 01 năm 2002 về phê duyệt Chiến lƣợc quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt
Nam đến năm 2010.
69. Pháp lệnh số 06/2003/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc Hội
khóa XI ban hành ngày 09 tháng 01 năm 2003 về dân số.
70. Nghị định số 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 12 tháng 02

năm 2003 về sinh con theo phƣơng pháp khoa học.
71. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 đƣợc Quốc hội
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5, thông qua ngày 15
tháng 6 năm 2004.
72. Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng ban hành ngày 21
tháng 02 năm 2005 về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc.
73. Nghị quyết số 47-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng ban hành
ngày 22 tháng 3 năm 2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế
hoạch hóa gia đình.
74. Quyết định số 106/2005/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành ngày
16 tháng 5 năm 2005 về việc phê duyệt Chiến lƣợc xây dựng Gia đình Việt Nam giai
đoạn 2005-2010.
75. Luật bình đẳng giới số 73/2006/QH11 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10, thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006.
76. Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 27 tháng 4 năm
2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
77. Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành 03 tháng 5
năm 2007 về việc triển khai thi hành Luật bình đẳng giới.
78. Nghị định số 70/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành 04 tháng 6 năm 2008
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bình đẳng giới.
79. Luật phòng, chống bạo lực gia đình số 02/2007/QH12 đƣợc Quốc hội nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2, thông qua ngày 21 tháng
11 năm 2007.
80. Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành ngày 30
tháng 5 năm 2008 về tổ chức triển khai thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình.
81. Nghị định số 08/2009/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 04 tháng 02
năm 2009 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống
bạo lực gia đình.
82. Quyết định số 2351/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ban hành ngày 24

tháng 12 năm 2010 phê duyệt Chiến lƣợc quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-
2020.
83. Thông báo số 26-TB/TW của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng ban hành ngày 09
tháng 5 năm 2011 về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

×