Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.74 KB, 104 trang )







TIỂU LUẬN:

VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY











Nói về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải ba vấn đề có tính thời sự, song
cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu. Ba vấn đề đó là:
1) Vấn đề thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2) Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. 3) Vấn đề tạo lập những
điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước đột phá trong đổi mới tư duy


chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng trong đổi mới hệ thống chính trị
nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói riêng.
Khi chủ nghĩa xã hội bước vào cải tổ, cải cách, đổi mới, một số nhà lý luận, chính trị
gia xã hội chủ nghĩa đã đề xuất xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền. Đề xuất này
đã làm nảy sinh những ý kiến chỉ trích, phản ứng từ không ít người. Khi đồng nhất
nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, một số người đã cho rằng, xây dựng nhà
nước pháp quyền là từ bỏ chủ nghĩa xã hội. Có người lại coi việc xây dựng nhà nước
pháp quyền là thừa nhận sự phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà
quyền lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thống nhất, không phân chia, và do vậy,
không phù hợp. Cũng có người đặt vấn đề, khi đề cập tới nhà nước kiểu mới, các nhà


kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không hề nói tới nhà nước pháp quyền và do
vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền trong chủ nghĩa xã hội là không theo quan điểm
của các nhà kinh điển, v.v Từ một phía khác, có ý kiến lại cho rằng, trong nhà nước
pháp quyền, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, đó là nhà nước của dân,
do dân, vì dân và do vậy, không cần phải phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa với nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa nữa.
Sự xuất hiện những ý kiến như vậy trong giai đoạn đầu cải tổ, cải cách, đổi mới ở các
nước xã hội chủ nghĩa cũng là điều dễ hiểu. Một mặt, vấn đề nhà nước pháp quyền
tuy không phải là mới, nhưng phải nói rằng, trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa,
vấn đề này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức. Sự chuẩn bị về mặt
lý luận để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới chỉ là bước đầu,
chưa có sự chín muồi cần thiết, những ý kiến đề xuất mô hình nhà nước pháp quyền
vẫn chỉ trên sách báo. Mặt khác, đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị đòi hỏi cũng
phải có thời gian. Bởi lẽ, đây là lĩnh vực không chỉ mang tính “nhạy cảm cao”, mà
còn là lĩnh vực mà sự thay đổi không phải “một sớm một chiều”. Đó là chưa nói đến
tư duy giáo điều còn ảnh hưởng không nhỏ đối với cả giới nghiên cứu lý luận lẫn
những chính khách ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong học thuyết chuyên chính vô sản, đúng là C.Mác và Ph.Ăngghen chưa sử dụng

thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng những tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp
quyền lại được các nhà kinh điển đề cập sâu sắc trong các chủ trương xây dựng nhà
nước kiểu mới, chế độ dân chủ mới, chế độ dân chủ vô sản. Đó là chủ trương xây
dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp; là nhà nước dân chủ cao nhất, triệt để nhất, dân
chủ “do nhân dân tự quy định”; là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công
dân, từ “nhân dân của nhà nước” sang “nhà nước của nhân dân”. Đó là chế độ dân
chủ xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con người. Đó là nhà nước đảm bảo
cho “tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Nhà nước đó xây dựng và phát triển một xã hội có khả năng tạo ra những điều kiện
cơ bản để “giải phóng cá nhân” theo phương châm “xã hội sẽ không thể giải phóng
cho mình được, nếu không giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt”… Những tư tưởng cốt lõi
đó của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin vận dụng và phát triển trong sự phân
tích, đánh giá nhà nước tư sản, chế độ cộng hoà dân chủ tư sản, cũng như trong thực tiễn


lãnh đạo nhân dân Nga xây dựng nền pháp luật kiểu mới, nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Ở nước ta, tư tưởng nhà nước pháp quyền cũng đã được thể hiện rất đậm nét ở Hồ
Chí Minh, khi Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nhà nước cách mạng. Đó là tư
tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ thực sự theo phương
châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền
từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”(1). Chính phủ là chính phủ của nhân dân, Chính phủ phải hứa
với dân: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết
sức tránh”(2). Đó là một nhà nước chịu sự kiểm soát của nhân dân, “tất cả các cơ
quan nhà nước đều phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và
chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6, Hiến pháp 1959). Trong quan hệ với nhân
dân, Hồ Chí Minh khẳng định, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Người viết: “Chế
độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân
dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ”(3). Tư tưởng nhà nước pháp quyền

của Người còn thể hiện trong quyết tâm xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp ngay
trong tình thế cách mạng đang “nghìn cân treo sợi tóc”. Chỉ một ngày sau khi đọc
“Tuyên ngôn độc lập”, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí
Minh đã đề nghị Chính phủ lâm thời xác lập nền tảng dân chủ và pháp quyền cho chế
độ nhà nước cách mạng, đó là tổ chức Tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp dân
chủ. Người nói: “Trước đây chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến
chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân
dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân
chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với
chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền
ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v.”(4).
Tuy nhiên, có thể nói, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, như chiến tranh, nội
chiến, quan niệm về chủ nghĩa xã hội một cách giản đơn và có phần cực đoan khi đối
lập một cách trừu tượng nhà nước tư sản với nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng nhất
nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản, coi mô hình nhà nước pháp quyền là
mang tính tư sản…, nên ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, việc


nghiên cứu và vận dụng một cách có ý thức (chủ động, tự giác) mô hình nhà nước
pháp quyền có nhiều hạn chế, nếu không muốn nói là có thời kỳ bị lãng quên. Đó là
một trong những nguyên nhân khiến dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa trở thành
“có vấn đề”. Dân chủ mang nặng tính hình thức; tình trạng độc đoán, chuyên quyền,
quan liêu có xu hướng phát triển đã làm suy yếu nhà nước. Tổ chức bộ máy cồng
kềnh, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Nhà nước quản lý, điều hành xã hội chủ yếu
bằng mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết, bằng đạo lý, trong khi pháp luật thì bị coi nhẹ.
Chính vì vậy, vấn đề dân chủ đã được đặt ra một cách bức bách ở các nước xã hội
chủ nghĩa nói chung, ở nước ta nói riêng. Trong quá trình đổi mới tư duy về chính
trị, về chủ nghĩa xã hội, nhận thức về nhà nước pháp quyền của Đảng ta ngày càng
đầy đủ hơn, rõ ràng và cụ thể hơn; quyết tâm chính trị là xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa dưới hình thức nhà nước pháp quyền cũng ngày càng cao hơn.

Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm, chủ trương đổi mới Nhà nước đã manh nha
một số nội dung về Nhà nước pháp quyền. Đó là sự khẳng định “quản lý nhà nước
bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý”; phải quan tâm xây dựng pháp luật;
từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật(5). Đến Đại VII, quan điểm đổi mới
Nhà nước đã được bổ sung thêm nội dung: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”(6).
Như vậy, có thể nói, qua hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi mới Nhà
nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng đã có những bước tiến
quan trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII
(1994), chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được Đảng ta
chính thức khẳng định và thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” cũng mới lần đầu tiên
được sử dụng trong văn kiện của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường ở nước
ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, hiểu biết của chúng ta còn ít, có
nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Điều này đòi hỏi chúng ta cần
phải thận trọng trong quyết định, cũng như trong tiến hành thực hiện. Trong Văn
kiện Đại hội VIII (1996), Đảng ta coi xây dựng Nhà nước pháp quyền như một trong


năm quan điểm cần quán triệt trong quá trình tiếp tục cải cách, đổi mới Nhà nước,
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đến Đại hội IX, qua
tổng kết những thành tựu nghiên cứu lý luận, cũng như thực tiễn từng bước xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Đảng ta đã coi “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” là một nhiệm vụ mang tính chiến lược và xuyên
suốt trong quá trình “đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế”(7). Trong Văn kiện Đại hội X, khi tổng kết lý luận và
thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta không những tiếp tục khẳng định chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền, mà còn ghi nhận điều chúng ta “có Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản”(8) là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng.
Khẳng định xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Nhà nước pháp
quyền là một bước đột phá trong tư duy và thực tiễn xây dựng Nhà nước trong thời
kỳ đổi mới của Đảng ta. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu
về nhà nước pháp quyền, đổi mới một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương
thức hoạt động của Nhà nước ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nói như vậy không có
nghĩa là ngày một, ngày hai chúng ta có thể xác lập ngay được Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Trong lý luận và cả trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. Đó là:
1) Vấn đề thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mô hình nhà nước pháp quyền đã được nhân loại thử nghiệm, chọn lọc qua nhiều thế
kỷ và đang trở thành hình thức phổ biến trong thế giới đương đại. Tuy nhiên, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không có nghĩa là “bê nguyên” những hình
thức ấy. Vả lại, ngay cả ở các nước phương Tây, nhà nước pháp quyền cũng không
hoàn toàn giống nhau. Ở mỗi quốc gia, nhà nước pháp quyền cũng có những nét độc
đáo riêng, tuỳ thuộc vào các đặc điểm, truyền thống dân tộc cũng như điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Hơn nữa, Nhà nước pháp quyền mà nhân dân ta đang
xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đó, về bản chất, là đối
lập với nhà nước pháp quyền tư sản. Do vậy, về nội dung pháp luật, về bản chất của
pháp luật chắc chắn cũng khác với nhà nước pháp quyền tư sản. Còn về hình thức có


thể có những nét tương đồng mà qua nghiên cứu, chọn lọc, cải biến, chúng ta có thể
kế thừa mặt này, mặt kia của mô hình này hay mô hình khác. Tuy nhiên, đây cũng
không phải là điều đơn giản, thậm chí còn là khá phức tạp và rất nhạy cảm về chính
trị.
Chẳng hạn, việc có vận dụng hay không vận dụng, vận dụng đến mức độ nào thuyết
phân lập các quyền của phương Tây. Ngay cả ở các nước tư bản, mức độ vận dụng

học thuyết này cũng không giống nhau. Điều đó không phải do có sự khác nhau về
chế độ chính trị, mà bắt nguồn từ nhiều lý do khác, trong đó có những quan niệm
khác nhau về tác dụng của sự phân quyền. Mục đích của việc phân quyền là để tránh
sự độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực. Đó là mặt tích cực. Nhưng việc
phân quyền giữa các cơ quan thực hiện quyền lực cũng có những mặt trái của nó. Do
vậy, ở các nước phương Tây cũng xuất hiện quan điểm cho rằng, không nên cường
điệu ý nghĩa mang tính chất lý thuyết của thuyết phân quyền. Hơn nữa, thuyết phân
quyền của phương Tây cũng không chỉ thuần tuý ở khía cạnh kỹ thuật tổ chức – pháp
lý, mà còn là đặc trưng xã hội – chính trị của nhà nước pháp quyền tư sản. Hay, nói
cách khác, không chỉ là phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà còn
là việc phân chia quyền lực, phân bố quyền lực giữa các giai cấp và các nhóm xã hội,
các lực lượng xã hội. Xuất phát từ những lý do đó, Đảng ta đặt vấn đề, trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta không áp dụng nguyên xi
thuyết phân quyền của phương Tây, mà “có sự phân công rành mạch giữa ba quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp và có sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện những
quyền đó”. Vấn đề đặt ra là làm sao tạo lập được những cơ chế, thiết chế phù hợp
đảm bảo sự phân công rành mạch ba quyền và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ
quan thực hiện quyền lực. Thiếu những cái đó khó tránh khỏi tình trạng như đã và
đang diễn ra ở những mức độ nhất định: lấn quyền, lạm quyền, vượt thẩm quyền
hoặc bỏ sót quyền, chưa sử dụng hết quyền hạn của mình,…
Với nước ta, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất có chức năng lập pháp, có quyền quyết định các vấn đề trọng
đại của đất nước và có quyền giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan nhà nước
khác. Trong hệ thống các cơ quan quyền lực của Nhà nước ta, Quốc hội có vị trí, vai
trò rất lớn theo luật định. Quốc hội “được làm” nhưng có “làm được” hay không - đó


là vấn đề không nhỏ. Điều đó liên quan trực tiếp tới thiết chế tổ chức và phương thức
hoạt động của Quốc hội. Ở nước ta, trong quá trình đổi mới, cải cách Nhà nước nói
chung, Quốc hội nói riêng, hiện cũng đang đặt ra một số vấn đề: Quốc hội ta là quốc

hội quốc dân hay quốc hội nhân dân; hoạt động thường xuyên hay định kỳ, Quốc hội
“tham luận” hay “tranh luận”, Quốc hội chuyên nghiệp hay nghiệp dư, tỷ lệ đại biểu
chuyên trách và đại biểu nghiệp dư, cơ cấu và chất lượng đại biểu; quan hệ giữa
Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác, v.v Xét về mặt lý thuyết, Quốc hội ta là
quốc hội quốc dân, đại biểu cho cử tri, cho nhân dân cả nước. Nhưng vì nhiều lý do
nên trên thực tế, điều đó chưa hẳn đã là như vậy. Chức năng đại diện của Quốc hội ta
vẫn thiên về đại biểu cho các địa phương, đại diện cho cử tri ở đơn vị bầu cử, chứ
chưa hẳn là cử tri cả nước. Điều này có liên quan đến tổ chức bầu cử (bầu cử gắn với
địa phương, và do vậy, cách giải quyết như thế nào vẫn là vấn đề cần phải tiếp tục
nghiên cứu. Quốc hội mang tính nghiệp dư hay tính chuyên nghiệp hoá? Xung quanh
vấn đề này hiện vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, nếu Quốc
hội hoạt động thường xuyên, mang tính chuyên nghiệp hoá thì các đại biểu mất đi
mối liên hệ trực tiếp với cử tri, với cơ sở. Dĩ nhiên, Quốc hội hoạt động thường
xuyên, mang tính chuyên nghiệp hoá sẽ xuất hiện những trở ngại đó, nhưng không
phải không có cách giải quyết, khắc phục. Vả lại, theo kinh nghiệm của nhiều nước
cũng như yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, chỉ có Quốc hội hoạt động thường
xuyên mới hoàn thành được chức năng lập pháp, mới có đủ khả năng thay đổi, bổ
sung luật, đạo luật theo kịp với yêu cầu của cuộc sống. Đó là điều cần suy nghĩ.
Chuyên nghiệp hoá Quốc hội cũng là hướng cần thiết. Nghị sĩ quốc hội phải làm
chức năng đại biểu mà muốn vậy, phải có tài năng, khả năng và phải dành thời gian
để làm tròn nghĩa vụ và thạo nghề đại biểu. Đó là chưa nói đến chuyện họ phải là
những người lập pháp thành thạo, có chuyên môn sâu, hay ít nhất cũng phải có năng
lực thẩm định, phản biện, chất vấn. Vấn đề tỷ lệ đại biểu chuyên trách đã được đặt ra
trong những khoá gần đây (hiện nay tỷ lệ đó vào khoảng 30%). Đó là hướng đi đúng,
nhưng đủ chưa. Ở đây, còn phải tính đến tỷ lệ đại biểu được tái cử và không được tái
cử. Như vậy, chỉ xoay quanh việc cải cách Quốc hội theo hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền cũng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề còn phải tiếp tục nghiên cứu, thử
nghiệm, thực hiện. Chính vì vậy mà cho đến nay, Đại hội X của Đảng vẫn khẳng



định: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội”(9).
2) Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Điều khác nhau căn bản với nhà nước pháp quyền tư sản là Nhà nước pháp quyền ở
nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hơn nữa, chế độ ta là chế độ một đảng. Nói chế
độ nhiều đảng dân chủ hơn chế độ một đảng là không chính xác, nhưng cũng phải
thấy rằng, trong chế độ một đảng, Đảng lãnh đạo như thế nào để đảm bảo dân chủ,
đảm bảo cho Nhà nước thực sự là quyền lực của nhân dân cũng là vấn đề phức tạp.
Đảng ta lãnh đạo Nhà nước không có mục đích nào khác hơn là đem lại quyền dân
chủ, quyền làm chủ cho nhân dân. Nhưng, lãnh đạo như thế nào để đạt được mục
đích đó là một bài toán không dễ. Thực tiễn trong hơn 20 năm đổi mới đã cho thấy
điều đó.
Không đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng thì quyền lực nhà nước sẽ bị biến dạng, biến
chất. Vả lại, trong thời đại hiện nay, có nhà nước nào lại không bị chi phối bởi một
đảng hay liên minh của một số đảng. Vì vậy, nếu không đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng thì sẽ xuất hiện một lực lượng chính trị nào đó chi phối quyền lực nhà nước.
Nhưng Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cách áp đặt, ra lệnh, bao biện làm thay công
việc của Nhà nước như trước đây thì quyền lực của nhân dân rất dễ rơi vào tình trạng
hình thức, Nhà nước sẽ trở nên thụ động, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Đó là
chưa nói đến bản thân chức năng lãnh đạo của Đảng cũng sẽ bị giảm sút và kém hiệu
quả. Hay, nói cách khác, sẽ làm suy yếu cả sự lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản
lý của Nhà nước.
Do vậy, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước một cách có hiệu quả,
Đảng phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo của mình trên cơ sở giải quyết đúng đắn
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phân định một cách khoa học, rõ ràng chức năng
của Đảng và của Nhà nước. Đây là vấn đề không đơn giản cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được một số
kết quả trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Chẳng hạn,
nếu trước đây, Quốc hội chủ yếu làm chức năng “hợp thức hoá” các văn kiện, nghị
quyết của Đảng thành quy phạm, mệnh lệnh của Nhà nước, thì hiện nay, Đảng đã

dành một không gian lớn hơn cho Quốc hội. Nhiều vấn đề, Đảng không cho quyết


định trước mà chỉ cho phương hướng để Quốc hội giải quyết, có những vấn đề Bộ
Chính trị cũng phải thay đổi khi Quốc hội có quyết định khác. Quốc hội càng ngày
càng có thực quyền hơn. Tuy nhiên, đến Đại hội X, Đảng vẫn cho rằng, “việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế”(10). Vì vậy, nhiệm vụ đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước vẫn được tiếp tục đặt ra. Nói về
nhiệm vụ đó, Văn kiện Đại hội X nhấn mạnh: “Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ
thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối
với Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và từng cấp, từng
loại hình tổ chức nhà nước”(11).

3) Vấn đề tạo lập những điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng những
điều kiện cho việc xây dựng đó còn có những hạn chế nhất định. Trước hết, đó là việc
chuẩn bị về mặt lý luận. Phải nói rằng, trong những năm đổi mới, chúng ta đã có
những bước khởi động và tập trung nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết từng vấn đề,
từng khía cạnh cụ thể lý luận Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tuy nhiên, việc thiết
kế mô hình cụ thể chưa thực sự thật chín muồi, không ít vấn đề còn phải được nghiên
cứu, trao đổi, tranh luận trên các diễn đàn, các trang sách báo. Liên quan đến lý luận
nhà nước pháp quyền còn phải nói đến một số lý luận khác, như xã hội công dân, kinh
tế thị trường. Những vấn đề này, cũng có thể nói, chưa được nghiên cứu đủ tầm cả về
bề rộng lẫn chiều sâu; hơn nữa, vẫn còn có những quan niệm chưa thống nhất, nhất là
về xã hội công dân. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở xã hội công dân.
Đến lượt mình, xã hội công dân chỉ có thể được hoàn thiện và phát triển thuận lợi trên
cơ sở nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, đi đôi với xây dựng nhà nước pháp quyền,
chúng ta phải tạo lập và hoàn thiện xã hội công dân. Xã hội nước ta đã là xã hội công

dân chưa, xây dựng và hoàn thiện xã hội công dân đòi hỏi những gì? Tất cả những
điều này phải có lý luận soi sáng, hướng dẫn. Hơn nữa, ở nước ta, thực tiễn của quá
trình đổi mới và xây dựng xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng đã xuất hiện một số
vấn đề phức tạp mà lý luận chưa giải thích được hoặc giải thích chưa có sức thuyết
phục. Trong quan niệm và quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, ranh giới


giữa tính nguyên tắc và bảo thủ, giữa tính linh hoạt, sáng tạo, tư duy mới và hữu
khuynh không phải là điều dễ dàng phân biệt rạch ròi…
Bên cạnh những vấn đề lý luận, còn phải nói đến những hạn chế về điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như chúng ta đã biết, tư tưởng nhà
nước pháp quyền xuất hiện từ rất sớm, nhưng phải đến thời đại cách mạng tư sản mới
có những điều kiện để phát triển thành học thuyết và hiện thực hoá trong thực tế. Ở
nước ta hiện nay, nếu nói chưa có điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền là
không đúng, nhưng phải thấy rằng, chúng ta vẫn còn những hạn chế nhất định, chẳng
hạn, về trình độ dân trí.
Không thể xây dựng một chế dân chủ cao trên một nền dân trí thấp kém được. Nói đến
trình độ dân trí, trước hết, là nói đến ý thức pháp luật, trình độ văn hoá pháp lý. Dân
chủ hiện đại đi đôi với pháp luật. Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng phải xây dựng được Hiến pháp và một hệ thống pháp
luật đảm bảo tính đồng bộ, phản ánh và đáp ứng các yêu cầu của tiến bộ xã hội. Từ
sau Đại hội VI đến nay, công tác lập pháp của Quốc hội nước ta đã có những tiến bộ
đáng kể, nhưng so với yêu cầu vẫn còn những hạn chế. Chúng ta vẫn còn thiếu những
đạo luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội; hơn nữa, bản thân những điều luật đã có
cũng cần phải được rà soát lại. Vì vậy, sau hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta vẫn yêu cầu
phải “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Đổi mới hơn nữa quy trình
xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh”(12). Nói đến ý thức pháp luật còn
phải nói đến trình độ am hiểu pháp luật của nhân dân. Không am hiểu luật, không thể
có ý thức pháp luật cao.
Nói đến trình độ dân trí còn phải nói đến đòi hỏi dân chủ của nhân dân. Đòi hỏi dân

chủ của nhân dân ta đã cao chưa? Đây là một câu hỏi cần phải được đặt ra. Không có
đòi hỏi dân chủ cao từ phía nhân dân, từ cuộc sống không thể xây dựng chế độ dân
chủ cao được. Nhân dân ta phần lớn đang ở trong tình trạng bị động, tin tưởng, chờ
đợi từ phía Đảng và Nhà nước. Thực tế đã chỉ ra rằng, xây dựng chế độ dân chủ theo
kiểu ban phát từ trên xuống, hoặc sẽ là rất hạn chế, hoặc sẽ trở nên hình thức. Trong
chế độ dân chủ tư sản hiện nay, sở dĩ người lao động có được một số quyền dân chủ
nhất định, đó tuyệt nhiên không phải là do “lòng từ thiện” của giai cấp tư sản, mà là
kết quả của cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài của quần chúng lao động dưới chủ nghĩa


tư bản. Dưới chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến xây dựng
chế độ dân chủ, mong muốn xây dựng một chế độ dân chủ cao, rộng rãi đối với nhân
dân. Nhưng rõ ràng điều đó vẫn chưa đủ. Dân chủ phải là sự nghiệp của quần chúng,
phải là “tác phẩm” của bản thân quần chúng. Đảng chủ trương xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhằm mục đích xây dựng một chế độ dân chủ cho
nhân dân, một chế độ dân chủ triệt để, đầy đủ và thực sự cho nhân dân. Muốn vậy,
phải tiếp tục nâng cao trình độ dân trí cho cán bộ, đảng viên và quảng đại quần chúng
nhân dân.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình lâu dài.
Với quyết tâm chính trị cao của Đảng trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những thành tựu nhất định, song trong quá trình
xây dựng cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh
nghiên cứu, tìm kiếm, thử nghiệm. Do vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đang là nhiệm vụ cấp bách đặt ra trước chúng ta./.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị – Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 698.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr. 56-57.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr.368.

(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr. 8.
(5) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.120, 121.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội,1991, tr. 20.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 131.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 146.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.
126.


10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.
275.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd,
tr. 138.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd.,
tr. 132.


SỰ THỐNG NHẤT GIỮA Đ
ẤU TRANH GIAI CẤP VÀ XÂY DỰNG KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM TRONG TƯ TƯ
ỞNG HỒ CHÍ
MINH

NGUYỄN VĂN THẾ (*)
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở Việt Nam

theo hai nội dung: 1) Hồ Chí Minh nghiên cứu, nhận thức sâu sắc bản chất cách
mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp và đoàn kết
giai cấp, dân tộc, quốc tế; 2) Hồ Chí Minh phân tích một cách cụ thể mối quan hệ
giữa các giai tầng trong xã hội và chủ động kết hợp đấu tranh giai cấp với xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, không tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ mặt nào trong suốt quá
trình cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã khẳng định giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề này trong tình hình hiện nay.

Thời gian vừa qua đã xuất hiện những quan điểm sai trái, lệch lạc và cả những quan
điểm thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc.
Trong đó, nổi lên là quan điểm cho rằng, trong điều kiện hiện nay, nói tới đấu tranh
giai cấp là bảo thủ, lạc hậu, là gây nên sự chia rẽ, phân hoá nội bộ… làm phá vỡ khối
đại đoàn kết dân tộc. Bằng sự lập luận một cách phiến diện, thiếu khách quan, phản
khoa học, một số người đã đi đến kết luận rằng, giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn


kết dân tộc là hai mặt luôn loại trừ nhau, xét cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
Theo họ, hiện nay, chúng ta cần phải từ bỏ giáo điều về đấu tranh giai cấp để tập
trung vào củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Do vậy,
có thể nói, việc nâng cao nhận thức khoa học về sự thống nhất giữa đấu tranh giai
cấp và đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh để qua đó, góp phần đấu
tranh phòng, chống những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay là một vấn đề khoa học, có ý
nghĩa chính trị - thực tiễn cấp thiết.
1. Hồ Chí Minh nghiên cứu, nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế.
Sinh thời, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bàn nhiều về đấu tranh
giai cấp và chỉ rõ những cái mới trong lý luận về vấn đề này. Điều đáng nói là, do
nhu cầu của thực tiễn lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung nhấn mạnh đấu

tranh giai cấp, coi đó là động lực trực tiếp của lịch sử. Nhưng các ông không bao giờ
xem đấu tranh giai cấp là mục đích, là công cụ vạn năng, duy nhất để giải quyết mâu
thuẫn xã hội, mà đó chỉ là phương tiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Quan điểm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính nhân văn, nhân
đạo sâu sắc. Về vấn đề đoàn kết giai cấp, dân tộc và quốc tế, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã đưa ra những chỉ dẫn quý báu. Đoàn kết giai cấp, dân
tộc, quốc tế phải theo lập trường giai cấp công nhân, lấy sự thống nhất về những lợi
ích căn bản làm cơ sở để đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng và phân hoá, cô
lập các lực lượng thù địch. Trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh
giai cấp và liên minh giai cấp, đoàn kết giai cấp, dân tộc và quốc tế là những cái
không hoàn toàn đối lập nhau.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, nắm vững thực chất của những vấn đề mang ý nghĩa
phương pháp luận trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về đấu tranh giai cấp và
đoàn kết giai cấp, dân tộc và quốc tế. Ngay từ khi còn học ở Đại học Phương Đông,
Hồ Chí Minh đã được học tập “nguyên lý đấu tranh giai cấp”. Đây là một trong
những nội dung quan trọng mà nhà trường giảng dạy cho cán bộ cách mạng. Gắn lý
luận với thực tiễn, Người đã nghiên cứu, khảo sát các cuộc đấu tranh giai cấp tiêu
biểu trên thế giới. Từ đó, Người đã phê phán quan điểm sai trái về đấu tranh giai cấp,


về “lý luận hợp tác giai cấp” của những người theo chủ nghĩa cải lương - một trào
lưu chính trị trong phong trào công nhân, đối lập với chủ nghĩa Mác.
Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm duy vật lịch sử, coi đấu tranh giai cấp chỉ là
phương tiện để đạt mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Đối với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, tầng lớp trong nội bộ nhân dân,
Người chỉ rõ mục đích của cuộc đấu tranh này không phải để loại trừ, gạt bỏ những
người sai trái, tội lỗi (dù họ thuộc thành phần giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội), mà
đấu tranh bằng những hình thức phù hợp để cải tạo, hạn chế mặt tiêu cực, phát triển
mặt tích cực, góp phần vào xây dựng và hoàn thiện con người. Nổi bật trong phương
pháp tư tưởng của Người không phải là khơi sâu mâu thuẫn vốn có (kể cả mâu thuẫn

đối kháng), mà tập trung mọi nỗ lực cao nhất để tìm kiếm sự thống nhất, sự hiểu biết,
gần gũi, sự đoàn kết hoà hợp theo những nguyên tắc có lý, có tình. Ngay cả khi buộc
phải giải quyết mâu thuẫn bằng việc sử dụng bạo lực cách mạng thì khi đó, tư tưởng
nhân văn, nhân đạo và hoà bình của Người vẫn luôn toả sáng.
2. Hồ Chí Minh đã phân tích một cách cụ thể mối quan hệ giữa các giai tầng trong xã hội
và chủ động kết hợp đấu tranh giai cấp với xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, không
tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ một mặt nào trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội vốn đa
dạng, phức tạp, luôn biến đổi trong những điều kiện nhất định. Để thực hiện kết hợp
một cách khoa học đấu tranh giai cấp với xây dựng, củng cố khối đoàn kết dân tộc,
đòi hỏi phải phân biệt rõ tính chất của các mâu thuẫn: mâu thuẫn đối kháng giữa địch
- ta và mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp trong nội bộ nhân dân; trên cơ sở đó, đề
ra chính sách phù hợp để đoàn kết các lực lượng có thể đoàn kết được nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh giai cấp trong từng giai đoạn cụ thể. Đối với cuộc
đấu tranh giai cấp trong nội bộ nhân dân, Hồ Chí Minh nhận thấy đây là một vấn đề
không đơn giản, mang tính nhạy cảm chính trị rất cao, liên quan trực tiếp tới việc xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó, nếu giáo điều, máy móc trong việc vận dụng
nguyên lý Mác - Lênin, kinh nghiệm của nước ngoài về đấu tranh giai cấp vào điều kiện
cụ thể ở Việt Nam sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng, khó lường.
Bằng phương pháp "phân tích cụ thể tình hình cụ thể", Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, dưới
chế độ thực dân phong kiến, nhân dân Việt Nam vừa bị đế quốc, vừa bị phong kiến


áp bức bóc lột; tư bản dân tộc không phát triển được vì bị đế quốc áp bức và phong
kiến ngăn trở; tư sản mại bản là tay sai của đế quốc chống lại lợi ích của nhân dân;
công nhân thì rất khổ và thất nghiệp; nông dân vốn đã nghèo khổ, lại bị sưu cao thuế
nặng; tiểu tư sản có khá hơn nhưng sinh hoạt của họ cũng không chắc chắn. Vì lẽ đó,
“muốn giải phóng thì nhân dân, tức là công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc phải
đoàn kết để đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến và tư sản mại bản”(1). Như vậy, có
thể khẳng định, ngay từ khi chúng ta chưa có chính quyền dân chủ nhân dân, vấn đề

đấu tranh giai cấp và đoàn kết dân tộc đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu một cách
khoa học và cụ thể.
Sau khi chúng ta có chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh vẫn nhất quán phương
pháp kết hợp nguyên tắc đấu tranh giai cấp với xây dựng khối đoàn kết dân tộc phù
hợp với tình hình mới. Tại “Hội nghị giảm tô và cải cách ruộng đất”, ngày 31 - 10 -
1955, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai
cấp”, một cuộc cách mạng long trời chuyển đất, có ảnh hưởng tới mọi giai tầng trong
xã hội ta. Trong cuộc đấu tranh giai cấp này, lực lượng của địch là giai cấp địa chủ
và những khuyết điểm của cán bộ, những khuyết điểm đó là đồng minh đắc lực của
địch; lực lượng của ta có Đảng, Chính phủ, Mặt trận dân tộc thống nhất, quân đội,
bần cố trung nông, công an, du kích. Việc xác định lực lượng địch, ta như thế là một
quan điểm chính trị thật sự khoa học, hoàn toàn khác với quan điểm máy móc phân
chia đơn thuần ai là địch, ai là ta và chỉ cần thủ tiêu bên địch để còn lại “ta với ta”…
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm trong cải cách ruộng đất, nổi lên
là việc thực hiện đoàn kết nông thôn. Người yêu cầu cần sửa chữa những khuyết
điểm, như không dựa vào bần cố nông, không đoàn kết chặt chẽ với trung nông,
không thực hiện liên hiệp với phú nông. Đối với giai cấp địa chủ, nông dân cũng
không “vơ đũa cả nắm” mà có phân biệt. Riêng đối với địa chủ thì phải chiếu cố
những địa chủ kháng chiến, ủng hộ cách mạng và địa chủ có con là bộ đội, cán bộ;
đối với địa chủ thật thà theo pháp luật thì giúp đỡ cải tạo; "đối với những địa chủ
cường hào gian ác, đã có nhiều nợ máu, lại ngoan cố phá hoại thì mới trừng trị. Giáo
dục cải tạo là chính"(2). Hồ Chí Minh nhấn mạnh một điểm rất nhạy cảm, cần nhận
thức cho đúng là xem xét thành phần giai cấp và quan hệ gia đình để không rơi vào
quan điểm thành phần chủ nghĩa. Theo Người, thành phần giai cấp nhất định có ảnh


hưởng đến tư tưởng của con người, nhưng nó không phải là ảnh hưởng quyết định…,
điều quyết định vẫn là do bản thân mỗi người.
Hồ Chí Minh còn xác định rõ, để tiến hành đấu tranh giai cấp, đồng thời xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, cần phải cải tạo và xây dựng các thành phần kinh tế theo

đường lối, chính sách của Đảng. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1945 - 1954), Hồ Chí Minh luôn quan tâm chỉ đạo việc xây dựng và phát triển
các thành phần kinh tế, như kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã, kinh tế địa chủ
phong kiến, kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghiệp, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản quốc gia. Sau 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Người vẫn nhất quán tư tưởng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đưa
ra những nguyên tắc để vừa bảo đảm sự phát triển kinh tế, vừa củng cố khối đại đoàn
kết dân tộc. Đó là các nguyên tắc: “công, tư đều có lợi”, “chủ thợ đều lợi”, “công
nông giúp nhau”, “lưu thông trong ngoài thuận lợi”. Và, Người khẳng định rõ: “Kinh
tế ta sẽ phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa chứ không theo hướng chủ nghĩa tư
bản”(3).
Đối với tư sản dân tộc, Người đã nói rõ khi trả lời một nhà báo nước ngoài: “Chúng
tôi không chủ trương giai cấp đấu tranh vì một lẽ tầng lớp tư sản Việt Nam đã bị kinh
tế thực dân đè nén không cất đầu lên được, khiến cho kinh tế Việt Nam đã bị tiêu
diệt, dân cùng, tài tận. Trái lại, chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát
triển”(4). Khi nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với “đặc điểm to
nhất” là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(5), Hồ Chí Minh đã chỉ ra một
việc cần kíp là “cải tạo hoà bình đối với giai cấp tư sản dân tộc”. Cụ thể là, “về kinh
tế, chúng ta không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại. Về
chính trị, chúng ta vẫn cho họ có quyền lợi thích đáng, họ vẫn giữ được địa vị một
thành viên trong Mặt trận Tổ quốc”(6), đoàn kết họ trong “đại gia đình toàn dân Việt
Nam”.
“Dân”, "nhân dân", "toàn dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một khái niệm rất
rộng lớn, bao gồm tất cả những người dân nước Việt có lòng ái quốc, căm thù giặc,
không phản lại quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Theo Người, để tập hợp lực lượng
cách mạng, phát huy sức mạnh của nhân dân phải thực hiện đại đoàn kết toàn dân.


Tháng 3 - 1944, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Hiện nay ở trong nước không cần nêu khẩu

hiệu “Đoàn kết các đảng phái”, vì điều này đã trở thành hiện thực, mà còn phải mở
rộng khối đại đoàn kết đến toàn dân”(7). Về nguyên tắc là “không được phép bỏ một
lực lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia”. Trong hệ thống phương pháp đại đoàn kết
Hồ Chí Minh, điểm mấu chốt, xuyên suốt là lấy cái chung, cái tương đồng để khắc
phục cái dị biệt, lấy nhân ái để giải quyết bất đồng. Người luôn phê phán những biểu
hiện sai trái, như chia rẽ, bênh vực lớp này, chống lại lớp khác… mà quên mất phải
đại đoàn kết để thực hiện mục tiêu chung của nhân dân, của dân tộc. Tuy nhiên, Hồ
Chí Minh luôn nhắc nhở phải chủ động đấu tranh để tăng cường đoàn kết, đồng thời
phải thấy rõ sự khác nhau căn bản giữa đấu tranh trong nội bộ nhân dân Việt Nam
với đấu tranh giải quyết mâu thuẫn đối kháng địch - ta. Tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh dựa trên phương pháp luận duy vật lịch sử, giải quyết hài hòa
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã
hội đã "hóa giải" được những đối kháng về quyền lợi bộ phận trong những hoàn cảnh
nhất định để quy tụ mọi người, tập trung cao nhất cho quyền lợi của toàn dân tộc.
Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh đã nắm được "cái hồn" và vận dụng một cách sáng
tạo lý luận đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt
Nam, nhờ đó mà vừa tạo ra được động lực phát triển của cách mạng thông qua giải
quyết mâu thuẫn khách quan, vốn có trong nội bộ nhân dân, dân tộc; vừa tập trung
được lực lượng vào khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong tư
tưởng và hành động của Hồ Chí Minh không có sự đối lập, loại trừ nhau giữa đấu
tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, kiên
quyết đấu tranh, phê phán tư tưởng thành phần chủ nghĩa biểu hiện trong cả lĩnh vực
chính trị, tư tưởng và kinh tế.
3. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và đại
đoàn kết dân tộc trong tình hình hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và đại đoàn kết dân
tộc đã được hiện thực hoá và ngày càng khẳng định tính khoa học và cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, Đảng ta đã vận dụng
đúng tư tưởng của Người, song cũng còn không ít những thiếu sót, hạn chế trong vấn
đề rất nhạy cảm và hệ trọng này. Thực tế cho thấy, quan điểm đấu tranh giai cấp và



đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã từng có lúc được nhận thức và vận dụng
một cách máy móc, một chiều, gây nên những tổn thất cả về mặt chính trị lẫn kinh tế.
Biểu hiện rõ là, trong tiến hành cải cách ruộng đất, trong cải tạo công thương nghiệp
tư nhân ở miền Nam và hợp tác hoá nông nghiệp… Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận
những sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức và tổ chức thực tiễn và rút ra nhiều bài
học có giá trị về tiến hành đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
trong điều kiện mới. Điều này thể hiện rất rõ trong đường lối đổi mới của Đảng ta
trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các giai cấp, các
tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và
hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng”; “nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá
của các thế lực thù địch bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã
hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”; “động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân”(8). Đại hội X của Đảng, khi tổng kết những thành tựu
và bài học của 20 năm đổi mới, đã tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(9). Đại hội đã chỉ rõ,
chúng ta phải lấy “mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” làm điểm tương đồng để xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo đó, cần xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt
đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; phải tôn trọng những ý kiến khác nhau

không trái với lợi ích dân tộc; xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng
hướng tới tương lai. Với quan điểm đó, Đảng, Nhà nước ta đã có những chính sách
đổi mới, tập hợp, lôi cuốn ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào


định cư ở nước ngoài trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc góp phần tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm đúng đắn
của Đảng là cơ sở để đấu tranh khắc phục những nhận thức giản đơn, phiến diện
hoặc cường điệu, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp, đồng thời phòng, chống tư tưởng
“thành phần chủ nghĩa” hoặc đoàn kết một cách vô nguyên tắc.
Tuy nhiên, tình hình mới cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết cả về
phương diện lý luận lẫn thực tiễn, có liên quan đến vấn đề đấu tranh giai cấp và xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang
tiếp tục diễn ra một cách khá gay gắt và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc đang đứng trước nhiều thách thức, khó khăn mới. Các thế lực thù địch
chưa từ bỏ ý đồ phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra
sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo loạn lật đổ, với
những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra sức
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém, sự suy
thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp
nhân dân nhằm tạo ra mâu thuẫn, xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế
độ ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đề
cao cảnh giác, làm cho nhân dân các dân tộc, tôn giáo gắn bó với cộng đồng dân tộc,
với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; quan tâm giải quyết lợi ích đúng đắn của nhân
dân, tạo nên sự ổn định chính trị - xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ,
phá hoại của các thế lực thù địch. Tiếp tục nghiên cứu để thấy rõ đặc điểm, nội dung,
hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập khu vực và quốc tế. Thực tế cho
thấy, chúng ta không được phép tuyệt đối hoá hoặc xem thường đấu tranh giai cấp,

cũng không đơn giản chỉ thấy đấu tranh giai cấp là đấu tranh địch - ta; tách rời đấu
tranh giai cấp và đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời, phải quán triệt sâu sắc, đầy đủ và
thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước ta. Chủ động, tích cực
đấu tranh có hiệu quả chống lại các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đấu tranh giai cấp và đại
đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.r



(*) Tiến sĩ triết học, Phó chủ nhiệm Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị
Quân sự .
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.209.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.139.
(3)

Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr. 248.
(4)

Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 169 - 170.
(5)

Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr. 13.
(6)

Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr. 15.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr. 465.
(8)

Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 85, 86.

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 116.

ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRÊN CƠ SỞ ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI

ĐẶNG HỮU TOÀN (*)
Lịch sử nhân loại nhiều thế kỷ, lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam đã cho thấy giá trị to lớn, ý nghĩa quyết định của đồng thuận xã
hội trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Trong bài viết này, sau khi làm rõ
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giá trị và ý nghĩa đó của đồng thuận xã
hội trong công cuộc đổi mới đất nước, tác giả đã đề xuất và luận giải tính khả thi
của một số giải pháp cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở tạo
dựng và củng cố đồng thuận xã hội. Đó là: 1) Xây dựng một xã hội dân chủ, xã hội
công dân; 2) Thường xuyên khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng
đất nước, phát huy tinh thần tự lực tự cường; 3) Phát triển kinh tế thị trường đi đôi
với khắc phục những biểu hiện tiêu cực của nó; 4) Nắm vững và vận dụng thành
công bài học đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh; 5)
Xây dựng Đảng lãnh đạo thật sự trong sạch, vững mạnh, xây dựng một hệ thống
chính trị tiên tiến, có hiệu quả và hiệu lực.



Lịch sử nhân loại nhiều thế kỷ, nhất là trong những thế kỷ nhiều biến cố lịch sử gần
đây, cũng như lịch sử nhiều nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam, đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, bất cứ một dân tộc nào xây dựng được
khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội đều chiến thắng không chỉ
trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền và độc lập dân tộc, mà
cả trong hoà bình xây dựng đất nước. Trong chiến tranh cách mạng cũng như trong
hoà bình xây dựng đất nước, giai cấp nào, lực lượng xã hội nào, đảng chính trị nào
muốn chiến thắng đều phải có lực lượng, phải tổ chức thành một lực lượng thống

nhất và lực lượng đó phải có đủ sức mạnh để chiến thắng, nhất là phải, như các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, tự mình trở thành dân tộc, phải
giương cao ngọn cờ dân tộc. Và, muốn có lực lượng, hơn nữa lại là lực lượng có đủ
sức mạnh để chiến thắng, thì không có con đường nào khác là phải thực hành đoàn
kết, bởi đoàn kết, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, chính là lực lượng. Nói
cách khác, đoàn kết, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được coi là vấn đề
chiến lược, có ý nghĩa sống còn và mang tính quyết định. Với lực lượng đoàn kết của
toàn dân trên cơ sở đồng thuận xã hội thì không một sức mạnh nào có thể chiến
thắng nổi.
Lịch sử dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX đã cho thấy, nhờ giương cao ngọn cờ hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền của các quốc gia, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại, đã xây dựng được khối đoàn kết rộng rãi với tất cả các lực lượng, các
quốc gia trên thế giới tôn trọng và ủng hộ độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Trong
khuôn khổ dân tộc, nhờ đồng thuận xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tạo nên khối đại đoàn kết vững chắc toàn dân tộc. Đoàn kết dân tộc kết
hợp chặt chẽ với đoàn kết quốc tế - đó chính là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhận thức rõ việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã
hội là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh tổng hợp,
là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ


nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định một trong những phương hướng
cơ bản để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh là: “Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước
mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các

nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các
nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(1). Một lần nữa khẳng định phương
hướng cơ bản này, tại Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Lấy mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các
tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước
ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai
cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao
truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì
sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội(2).
Điều đó không chỉ cho thấy sự nhất quán trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội, mà
còn cho thấy rõ nguyên tắc nền tảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó
là, đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc
và những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động. Bởi lẽ, trong xã hội, dân tộc và
quốc tế có rất nhiều mối quan hệ lợi ích chồng chéo: cá nhân và tập thể, gia đình và
xã hội, bộ phận và toàn thể, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế…, và do vậy, chỉ
khi nhận thức và giải quyết đúng đắn những mối quan hệ lợi ích này mới có thể xây
dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội.
Thực hiện nguyên tắc nền tảng này luôn đòi hỏi chúng ta phải tìm kiếm, trân trọng và
phát huy những yếu tố tương đồng, thống nhất để khắc phục và giải quyết những yếu
tố khác biệt, mâu thuẫn, lấy mẫu số chung của toàn dân tộc thay cho việc đào sâu sự
cách biệt, đặt tiến trình đi lên của lịch sử trên nền quy tụ thay cho loại trừ.
Lợi ích tối cao của dân tộc, như Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhiều lần khẳng định, là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây


cũng là một truyền thống quý báu trong lịch sử của dân tộc Việt Nam; là chân lý, là
sức mạnh của dân tộc Việt Nam, và như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

“Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”(3). Đây
cũng là ngọn cờ đoàn kết dân tộc, là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt
Nam. Đây còn là cái bất biến trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở để Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra mẫu số
chung của khối đại đoàn kết dân tộc là: Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân.
Những lợi ích căn bản của nhân dân lao động được kết tinh trong phạm trù độc lập,
tự do, dân chủ và hạnh phúc. Những lợi ích đó được biểu hiện cụ thể trong từng thời
kỳ của lịch sử dân tộc, nhưng với Đảng Cộng sản Việt Nam, với Chủ tịch Hồ Chí
Minh thì độc lập dân tộc bao giờ cũng phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân
dân, bởi “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì”(4).
Thực hiện nguyên tắc căn bản này để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ
sở đồng thuận xã hội, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tư tưởng chủ đạo là: Khơi dậy và phát huy đến
mức cao nhất sức mạnh dân tộc, đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất nước và của
con người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở đồng thuận xã hội để xây dựng các chủ
trương, chính sách kinh tế - xã hội. Nếu trước đây, Đảng xác định sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập
cho dân tộc, thì giờ đây, trong công cuộc đổi mới đất nước, sức mạnh đó được Đảng
xác định là sức mạnh để chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời, Đảng cũng đã
nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển
đất nước, tạo ra sự đồng thuận xã hội với quy mô ngày càng rộng lớn.
Những tư tưởng chủ đạo này đã được thể hiện nhất quán và ngày càng cụ thể hoá
trong các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt
Nam trong những năm đổi mới. Trước nhất, về phương diện chính trị, tư tưởng,
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc trên
cơ sở mở rộng đồng thuận xã hội; mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; xoá bỏ mọi



định kiến, mặc cảm, hận thù trong quá khứ; đoàn kết mọi lực lượng, mọi người Việt
Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất
nước; lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nòng cốt của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Thứ hai, về kinh tế - xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
Việt Nam chủ trương khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài,
xác lập chủ quyền của người lao động trong lĩnh vực kinh tế, khuyến khích mọi
người làm giàu chính đáng theo pháp luật, cho phép cả đảng viên cộng sản làm kinh
tế tư nhân; đồng thời thực hiện các chính sách xã hội, như “đền ơn đáp nghĩa”, “xoá
đói giảm nghèo”. Thứ ba, về đường lối đối ngoại, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước Việt Nam chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại theo phương châm “Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước vì hoà bình, độc lập, hợp tác và phát triển”.
Nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội, tháng 11 năm 1993, Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết
07/QĐ-TW “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”.
Tại Đại hội VIII và nhất là, tại các Đại hội IX và X của Đảng, vấn đề xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở đồng thuận xã hội, lấy phát huy sức mạnh của cả
cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân
tộc, thực hiện mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng đã đạt được ở một tầm cao mới.
Để tạo ra bước phát triển mới cho Mặt trận dân tộc thống nhất và nâng cao hơn nữa
hiệu quả hoạt động của tổ chức chính trị này, tháng 6 năm 1999, lần đầu tiên, Luật về
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được ban hành, trong đó khẳng định: Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của Nhà nước Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân và là
nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tổ chức sự hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động
của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn

lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các

×