Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

điều tra và thiết kế xây dựng mô hình hệ thống canh tác bền vững trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng nơi đất cao nhiều cát thuộc vùng núi An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 108 trang )


1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
BỘ MÔN KHOA HỌC CÂY TRỒNG
________________








ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG


ĐIỀU TRA VÀ THIẾT KẾ XÂY DỰNG MÔ HÌNH HỆ THỐNG
CANH TÁC BỀN VỮNG TRONG CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU
CÂY TRỒNG NƠI ĐẤT CAO NHIỀU CÁT
THUỘC VÙNG BẢY NÚI AN GIANG









Chủ nhiệm đề tài: NGUYỄN VĂN MINH


Cộng tác viên: TRẦN VĂN KHẢI

VÕ THỊNH VƯỢNG

LÊ VĂN NAM
LÊ PHƯỚC SANG

Long Xuyên, tháng 5 năm 2006

2

CẢM TẠ


Vô cùng biết ơn những tấm lòng đã hết sức giúp đở tác giả hoàn thành công trình nghiên
cứu nầy:
- GS.TS.NGND. Võ-Tòng Xuân, TS. Nguyễn Tri Khiêm những người thầy đã tận tình
hướng dẫn.
- PGS.TS. Nguyễn Bảo Vệ đã tận tình giúp đở về học thuật và kiến thức chuyên môn
cũng như sự quan tâm trong việc hiệu đính.
- KS. Nguyễn Văn Phương PGĐ. Sở Nông nghiệp & PTNT An Giang đã gợi ý, giúp đở
và ủng hộ đề tài nghiên cứu.
- Th.S. Nguyễn văn Mì Trưởng Phòng Nông nghiệp & PTNT đã tạo điều kiện thuận lợi
về chuyên môn và tiếp xúc địa phương.
- Chính quyền địa phương, Hội nông dân các xã Lương Phi, Lê Trì và Thị trấn Ba Chúc
đã tạo mọi điều kiện về tổ chức hội thảo, phỏng vấn nông hộ và tạo mọi thuận lợi trong quá trình
thực hiện nghiên cứu.
- Các đồng sự trong Bộ Môn Khoa Học Cây Trồng đã góp công sức vào quá trình thực
hiện trong đó có các thầy cô Trần Văn Khải, Phạm Huỳnh Thanh Vân, Võ thị Xuân Tuyền,
Trịnh Hoài Vũ đã sát cánh bên tôi từ những ngày đầu vừa mới triển khai nghiên cứu. Cô Nguyễn

thị Minh Châu đọc và sữa bản thảo
- Các sinh viên ĐH2PN Đại Học An Giang Võ Thịnh Vượng, Lê Văn Nam, Lê Phước
Sang đã cùng tôi phỏng vấn nông hộ tại các điểm nghiên cứu, tổng kết số liệu và trình bày bản
thảo.
- Các sinh viên ĐH2PN và ĐH3PN đã hợp tác trong các cuộc phỏng vấn nông hộ.





















3
LỜI NÓI ĐẦU



Vùng núi Dài gồm 3 xã Lương Phi, Lê Trì, Châu Lăng và Thị trấn Ba Chúc thuộc huyện
Tri Tôn là vùng bán sơn địa, đất đai không được phì nhiêu như đất ở đồng bằng của tỉnh An
Giang. Vì thế nó có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế-xã hội của vùng nói riêng và
toàn khu vực Bảy Núi nói chung.
Trước đây, trong thời kỳ còn chiến tranh, vì là vùng tranh chấp nên đời sống nhân dân
quá khó khăn. Đến nay, sau hơn 30 giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quê hương miền núi
nầy đã có những sự thay đổi to lớn về hạ tầng cơ sở cho đến sản xuất nông nghiệp và đang
hướng đến một nền nông nghiệp-du lịch sinh thái bền vững.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển sản xuất hướng đến một nền nông nghiệp bền vững
còn có những vấn đề bất cập cần phải quan tâm giải quyết. Đó là xu hướng độc canh cây lúa
đang thống trị ở một bộ phận lớn dân cư và các cấp lãnh đạo địa phương vì phát triển cây lúa tỏ
ra dễ dàng hơn các loại hoa màu khác.Thứ hai, năng suất, sản lượng cây trồng còn thấp so với
các vùng khác do tính chất đất đai kém màu mỡ hạn chế. Thứ ba, việc thiếu nước tưới trong
năm, đặc biệt ở mùa khô là một yếu tố quan trọng hàng đầu làm giới hạn việc thâm canh tăng vụ,
không phát huy được hết sức sản xuất của lao động nông thôn. Từ đó, tồn tại tình trạng một bộ
phận dân cư dưới mức ngưỡng nghèo và tái nghèo còn phổ biến ở vùng nầy. Ngoài ra, tập quán
không dùng phân chuồng, phân xanh, phân ủ để trả lại cho đất những chất do thu hoạch cây
trồng lấy đi mà chỉ dùng phân hóa học làm cho đất ngày càng xấu hơn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sự bền vững của môi trường.
Từ những suy nghĩ trên, nhu cầu cần phải có những nghiên cứu cơ bản về kinh tế hộ, các
hệ thống canh tác hiện hành, những khó khăn thuận lợi đối với nông hộ đang trực canh, những
ưu nhược điểm của điều kiện môi trường, cơ hội và tiềm năng phát triển của vùng, những nghiên
cứu về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, những biện pháp làm giàu đất trồng giúp khắc
phục sự xuống cấp và suy kiệt của môi trường là những việc làm cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ cách đặt vấn đề như thế, quá trình nghiên cứu chia thành 3 giai đoạn. Đầu
tiên, tìm hiểu tổng quát về hiện tình kinh tế hộ và các hệ thống canh tác phổ biến cùng với các
mô hình tiên tiến đang được thực hiện tại vùng, bằng các phương pháp tiếp cận nông dân và
phỏng vấn kinh tế hộ. Kế đến, khảo sát thí điểm các nông hộ có mô hình canh tác tiên tiến, hiệu
quả cao đồng thời đúc rút ưu khuyết điểm làm cơ sở để nhân rộng mô hình. Cuối cùng, triển khai
thực hiện các thử nghiệm về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng như các mô hình có sử

dụng phân bón từ nguồn gốc hữu cơ bảo vệ môi trường bền vững nhằm khuyến cáo nông dân






4
TÓM TẮT
Nhằm mục đích tìm hiểu về tình hình kinh tế hộ và hiệu quả kinh tế-môi trường của mô
hình hệ thống canh tác trên vùng đất xám nhiều cát 2 xã và 1 thị trấn điểm tại khu vực Núi Dài
thuộc huyện Tri Tôn An Giang, cuộc nghiên cứu đã được thực hiện trong vòng 2 năm 2004-2005
để giải đáp vấn đề trên.
Bằng cách dùng các công cụ của phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của
nông dân (PRA), phương pháp phỏng vấn nông hộ, phỏng vấn nhóm am hiểu sự việc (KIP) và
bằng quan sát trực quan, cuộc nghiên cứu đã tiến hành 3 hội thảo với qui mô trung bình 20 nông
dân đại diện ở 3 điểm xã, thị trấn cùng với 4 cuộc phỏng vấn các cấp lãnh đạo nông nghiệp
huyện, xã để tìm hiểu tổng quan về vùng nghiên cứu. Phỏng vấn 273 hộ nông dân gồm 3 nhóm
giàu, nghèo , trung bình theo tiêu chuẩn đánh giá của địa phương, được phân phối đều về các ấp,
khóm thuộc 3 điểm nghiên cứu với khoảng cách tối thiểu là 10 hộ. Tổng hợp và phân tích số liệu
thống kê mô tả bằng chương trình Excel với các số trung bình, tối đa, tối thiểu.
Kết quả cho thấy nguồn lực nông hộ đáp ứng tương đối tốt cho nhu cầu sản xuất.
Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, vùng nghiên cứu chia thành 2 tiểu vùng rõ rệt. Vùng ruộng
trên chỉ dựa vào nguồn nước mưa để tưới nên hàng năm chỉ sản xuất được 1 vụ nên kinh tế hộ
khó khăn. Trái lại, hộ nào có đất ở ruộng bưng hoặc có đất ở 2 nơi thì cuộc sống khá giả hơn. Cơ
cấu thu nhập hộ do sản xuất nông nghiệp chiếm trên 85% so với phi nông nghiệp, trong đó trồng
trọt 84%, chăn nuôi xấp xỉ 16%. Thu nhập của nhóm hộ nghèo dưới ngưỡng nghèo
200.000đ/tháng. Nhóm hộ trung bình có thu nhập khá hơn nhưng phần dư không nhiều trong khi
đó nhóm giàu cách biệt xa với 2 nhóm kia với thu nhập và phần dư cao hơn 10 lần.
Mô hình HTCT ruộng trên hiện nay chỉ 1 vụ với các loại cây trồng như lúa mùa, lúa Hè-

Thu, củ sắn, củ gừng, khoai mì, đậu xanh, đậu phộng, năng suất cây trồng thấp, thu nhập trung
bình 20 triệu đồng/ha/năm. Gừng và củ sắn cao hơn ( 81và 32 triệu đồng), nhưng chỉ số lợi tức
biên và hiệu quả đồng vốn không được cao lắm.
Mô hình HTCT ruộng bưng trong đê bao vững chắc gồm 2 vụ lúa, 3 vụ lúa, 2 luá 1 màu
là đậu xanh, dưa hấu với thu nhập cao trên 40 triệu đồng. Ruộng bưng không có đê bao thường
là 2 vụ gồm Hè –Thu sớm và cây vụ Đông như đậu xanh, dưa hấu Tết với thu nhập trung bình
trên dưới 25 triệu đồng.
Các mô hình đã được thiết kế và đề xuất căn cứ vào các tiêu chí của Nhà nước về phát
triển HTCT chuyển đổi bền vững, hiệu quả cao như sau:
- Ruộng trên có 3 mô hình: (1)Lúa HT - Đậu phộng vụ Đông; (2) Đậu phộng (Đậu xanh)
HT -Trồng cỏ nuôi bò (3) Đậu xanh HT – Lúa Nàng nhen mùa – Cây phân xanh với thu nhập
tuần tự là 20; 18; 25 triệu đồng/ha/năm
- Ruộng bưng có đê bao 2 mô hình:(1) Hai vụ lúa ĐX- HT- Đậu nành vụ Đông (2) Hai
vụ lúa HT-TĐ – Dưa hấu Tết với thu nhập tuần tự là 41; 34 triệu đồng/ha/năm
- Ruộng bưng không đê bao: (1) Lúa HT – Dưa hấu vụ Đông (2) Lúa mùa – Dưa hấu Tết
với thu nhập tuần tự là 27; 74 triệu đồng/ha/năm
Khó khăn lớn nhất là vốn đầu tư cho trồng trọt và chăn nuôi bò cần phải được quan tâm
đúng mức. Kế đến là nước tưới cho tiểu vùng ruộng trên. Nếu giải quyết được nước tưới cho
vùng nầy bằng cách xây dựng 2 hồ chứa nước lớn Ô vàng (Ba Chúc), Ô Tà Sóc (Lương Phi)
thuộc núi Dài sẽ mở ra khả năng thâm canh, tăng vụ tạo điều kiện cho các nông hộ vươn lên làm
giàu đồng thời phát triển du lịch sinh thái, danh lam thắng cảnh của thánh địa đạo Hiếu Nghĩa
góp thêm công ăn việc làm cho người dân sung túc hơn.






5
KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT


ĐBSCL Đồng Bằng Sông Cửu Long
ĐX Đông Xuân
HT Hè Thu
HQKT Hiệu quả kinh tế
HTCT Hệ thống canh tác
KHKT Khoa học kỹ thuật
MHCT Mô hình canh tác
MBCR Marginal Benefit Cost Rate: Thu nhập biên hay Lợi tức biên
MRCR Marginal Revenue Cost Rate: Doanh thu biên
M Mùa
NN Nông nghiệp
PRA Participatory Rural Appraisal: Phương pháp đánh giá nông thôn có sự
tham gia của nông dân
PTNT Phát triển nông thôn
RAVC Return above variable cost: Thu nhập trên biến phí
SALT1 Sloping Argicultural Land Technology: kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc

SALT2 Simple Agro-livestock Technology: kỹ thuật canh tác nông súc đơn giản


SALT3 Sustainable Agroforest Land

Technology: kỹ thuật canh tác nông - lâm kết hợp
bền vững


SALT4 Small

Agro-fruit Livelihood Technology: kỹ thuật sản xuất nông nghiệp kết hợp

với cây ăn quả quy mô nhỏ

SWOT Strenght Weak Opportunity Threat: Phân tích mạnh, yếu, cơ hội và rủi ro
TĐ Thu Đông
TT Thị Trấn
UBND Ủy Ban Nhân Dân




6
CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU

Vùng đất cao nhiều cát ở Bảy Núi thuộc 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (An Giang) là một
vùng có tập quán trồng 1 vụ lúa mùa nhờ nước trời nên năng suất rất thấp hoặc sống nhờ vào
làm rẫy trồng màu. Chung quanh nhà có trồng thêm cây Tầm vông, xoài Thanh Ca và một vài
loại cây khác làm nguồn thu nhập phụ.
Vùng nghiên cứu gồm 2 xã Lương Phi, Lê Trì và thị trấn Ba Chúc có đến 24% dân số
thuộc người Khmer, số hộ người Khmer chiếm 23%. Đặc biệt xã Lê Trì hộ người Khmer chiếm
đến 53% và chiếm 28,8% dân số.
Do đặc tính đất xám nghèo dinh dưỡng, vùng ruộng trên nước lũ hằng năm không ngập
đến nên việc canh tác lệ thuộc vào nước mưa và nguồn nước ngầm rất hạn chế nên chỉ trồng
được một vụ lúa hoặc màu trong năm. Nguồn thu của nông hộ chỉ nhờ vào một vụ lúa hoặc rau
màu và được tăng thêm nhờ vào thu nhập của xoài, tầm vông. Vùng ruộng bưng đất thấp nước lũ
hằng năm đều ngập và đã có các hệ thống dẫn nước từ kinh Vĩnh Tế và kinh Tám ngàn vào từ
giữa thập niên 90 đến nay nên đã có thể tăng lên 2 vụ lúa là phổ biến; một số ít hộ trồng 1 lúa 1
màu và cũng đã có những hộ tăng lên 3 vụ ở nơi có đê bao chủ động được nước tưới. Nhìn
chung, hệ thống canh tác của vùng nghiên cứu vẫn còn là độc canh cây lúa.
Trước tình hình giá lúa gạo, lương thực bấp bênh trong những năm gần đây khiến cho các

hộ lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế. Do vậy, tìm giải pháp để phá thế độc canh cây lúa
đồng thời tăng thu nhập cho các hộ nông dân là thực sự cần thiết.
Theo xu thế chung của đất nước, yêu cầu chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn mà
trong đó sự chuyển đổi cây trồng sang một hệ thống canh tác mới đa canh bền vững, có hiệu quả
là một yêu cầu khách quan và bức xúc. Điều này cũng nhằm mục đích tránh bị động vào giá lúa
gạo và cũng nhằm nâng cao mức sống cho nông hộ. Tỉnh đã triển khai một số chương trình hệ
thống canh tác cho 2 huyện miền Núi nhằm vào mục đích chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo
hướng có lợi cho người nông dân.

A. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. MỤC TIÊU
Đề tài” Điều tra và thiết kế xây dựng mô hình hệ thống canh tác bền vững trong
chuyển đổi cơ cấu cây trồng nơi đất cao nhiều cát thuộc vùng Bảy Núi An Giang.” được
thực hiện nhằm các mục tiêu tổng quát là tập trung vào nghiên cứu các mô hình tiên tiến có
hiệu quả kinh tế so với mô hình trồng đại trà là 1 hoặc 2 vụ lúa để làm cơ sở cho việc thiết kế
xây dựng các mô hình hiệu quả hơn.
Mục tiêu cụ thể gồm có:
- Đánh giá tình hình kinh tế hộ và hiệu quả kinh tế-tài chính của các hộ đang thực hiện các
mô hình canh tác đại trà và tiên tiến.
- So sánh và tìm ra những mô hình tiên tiến hiện có mang tính bền vững và hiệu quả cao.
- Thiết kế xây dựng ít nhất 2 mô hình canh tác đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu
cây trồng của vùng nghiên cứu.
II. NỘI DUNG

7
- Dùng các phương pháp nghiên cứu hệ thống canh tác như phiếu phỏng vấn nông hộ,
PRA, SWOT, phỏng vấn chuyên gia, quan sát thực tế … để điều tra và đánh giá tình hình kinh tế
hộ, phân loại thành 3 nhóm hộ giàu, trung bình, nghèo nhằm phân tích thu nhập và phần dư tài
chính của nông hộ và nhân khẩu, phản ảnh một cách trung thực mức sống của nông dân tại điểm
nghiên cứu.

- Sử dụng các chỉ tiêu phân tích tài chính như lãi thuần (RAVC), hiệu quả đồng vốn,
lãi/vốn, lãi/vật tư, doanh thu biên tế, lợi tức biên tế để đánh giá hiệu quả kinh tế từng mô hình hệ
thống canh tác và so sánh các mô hình có hiệu quả cao, tiên tiến với mô hình trồng đại trà, phổ
biến tại vùng nghiên cứu.
- Từ các phân tích trên, đúc kết, lựa chọn và kiến nghị các mô hình HTCT có hiệu quả cao
nhằm tăng thu nhập cho nông hộ và bảo đảm tính bền vững của môi trường. Đề tài cũng là cơ sở
cho những nghiên cứu tiếp theo về chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi tại vùng đất xám cao
nhiều cát vùng Bảy Núi vốn là nơi nghèo so với các nơi khác trong Tỉnh
B. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
I. ĐỐI TƯỢNG
Đối tượng nghiên cứu là các hộ nông dân đang thực hiện các HTCT trên vùng đất xám
quanh chân núi Dài thuộc Huyện Tri Tôn.
II. PHẠM VI
Phạm vi không gian:
Quanh chân núi Dài có 4 xã: Châu Lăng, Lương Phi, Lê Trì và thị trấn Ba Chúc.
Các xã, thị trấn nầy được phân chia ranh giới địa lý đều có núi và đất bằng. Chọn 3 điểm Lương
Phi, Lê Trì và TT. Ba Chúc làm đại diện cho vùng nghiên cứu.
Phạm vi kinh tế, xã hội:
- Chỉ chọn các hộ nông dân trực tiếp sản xuất không chọn các hộ xâm canh, tiểu
thương, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp
- Không phân biệt hộ người Kinh hay Khmer
C. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Đặc điểm chung kinh tế nông hộ, nông nghiệp, nông thôn
1.1. Thế nào là kinh tế nông hộ, nông nghiệp, nông thôn
Theo Lâm Quang Huyên (2003) cho rằng “ Nông hộ (hộ nông dân) là gia đình sống bằng
nghề nông, là một đơn vị về mặt chính quyền, là gia đình sống bằng nghề nông. Hộ nông dân là
một đơn vị sản xuất cơ bản, một đơn vị sản xuất “rất ổn định” và là “phương tiện tuyệt vời để
tăng trưởng và phát triển nông nghiệp”. Hộ nông dân có những đặc trưng riêng biệt, không
giống như những đơn vị kinh tế khác, do đó có thể thấy rằng: nông hộ là một đơn vị kinh tế xã

hội khác biệt.
Định nghĩa của Đào Công Tiến (2003) về kinh tế nông hộ như sau:
Kinh tế nông hộ là đơn vị sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế nông thôn. Kinh tế nông
hộ dựa chủ yếu vào lao động gia đình để khai thác đất và các yếu tố sản xuất khác nhằm đạt thu
nhập thuần cao nhất. Kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, căn bản dựa vào sự tự tích lũy, tự

8
đầu tư để sản xuất kinh doanh nhằm thoát khỏi cảnh nghèo đói và vươn lên giàu có, từ tự túc tự
cấp rồi lên sản xuất hàng hóa gắn với thị trường.
1.2. Vì sao hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ
Là đơn vị kinh tế tự chủ có nghĩa là mỗi hộ nông dân tự quyết định mục tiêu và quá trình
sản xuất kinh doanh, trực tiếp quan hệ thị trường nếu có sản phẩm hàng hóa, tự hạch toán, lời ăn
lỗ chịu (Lâm Quang Huyên, 2003). Hoặc theo Đào Công Tiến (2003) đơn vị kinh tế tự chủ “ là
tự chịu trách nhiệm cao về sản xuất và tiêu dùng, căn bản dựa trên sự cân bằng giữa nguồn lực
sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của gia đình.”
2. Thực trạng kinh tế nông hộ Việt nam
2.1. Tình hình nông hộ ở nông thôn
Lâm Quang Huyên (2003) cho rằng, nước ta hiện nay và nhiều năm tới vẫn còn là một
nước nông nghiệp. Dân số và lao động ở nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số dân và lao
động cả nước (từ 70 – 80%).
Tỷ trọng số hộ nông dân trong tổng số hộ gia đình ở vùng nông thôn cao nhất là miền
núi và trung du Bắc Bộ chiếm 91,2%. Đồng bằng Sông Hồng chiếm 91,13% rồi đến khu 4 cũ
chiếm 83,16%; Tây Nguyên chiếm 76,78%; Duyên hải miền Trung chiếm 74,37%; ĐBSCL
chiếm 69,94% và thấp nhất là miền Đông Nam Bộ chiếm 48,42% (Lâm Quang Huyên, 2003).

Bảng 1: Số nông hộ ở các vùng (1994) Đvt: hộ
Khu vực Số lượng (%)
Miền núi và Trung Du Bắc Bộ 1.892.900 9,88
Đồng Bằng Sông Hồng 2.558.100 13,36
Khu 4 cũ 1.522.500 7,95

Duyên Hải Miền Trung 957.800
5,00
Tây Nguyên 393.800
2,06
Đông Nam Bộ 484.000
2,53
Đồng Bằng Sông Cửu Long 1.766.300
9,22
Cả nước 9.575.700
50,00
Tổng 19.151.100
100,00
Nguồn: Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, 2003.


2.2. Tình hình đất đai của nông hộ
Theo Lâm Quang Huyên (2003), diện tích đất nông nghiệp bình quân của hộ nông dân
nước ta rất thấp và ngày càng giảm. Cao nhất là ĐBSCL – 10.149 m
2
, rồi đến Đông Nam Bộ –
9.169 m
2
và Tây Nguyên – 7.412 m
2
. Các tỉnh có diện tích ruộng đất bình quân của hộ nông dân
cao nhất là Minh Hải cũ – 15.923 m
2
, Kiên Giang – 14.963 m
2
và Sóc Trăng – 14.737 m

2
. Thấp
nhất là Hải Phòng – 1.997 m
2
, Hà Nội – 2.117 m
2
và Thái Bình – 2.179 m
2
.

Bảng 2: Diện tích đất nông nghiệp bình quân nông hộ (1994) Đvt: 1.000m
2

Khu vực Diện tích (%)
Miền núi và trung du Bắc Bộ 4,31 9,49
Đồng bằng Sông Hồng 2,28 5,02

9
Khu 4 cũ 3,00 6,60
Duyên hải Miền Trung 4,13
9,09
Tây Nguyên 7,41 16,31
Đông Nam Bộ 9,17
20,18
Đồng Bằng Sông Cửu Long 10,15
22,34
Cả nước 4,98
10,96
Tổng 45,43
100,00

Nguồn: Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, 2003.


2.3. Tình hình nhân khẩu và lao động
Lâm Quang Huyên (2003) cho rằng: bình quân nhân khẩu của hộ nông dân trong cả
nước năm 1994 là 4,47 người và bình quân lao động là 2,35 người. Bình quân lao động của hộ
nông dân cao nhất là ĐBSCL – 2,67 người, Đông Nam Bộ –2,51 người, thấp nhất là Đồng bằng
Sông Hồng – 1,97 người và Khu 4 cũ – 2,05 người.

Bảng 3: Cơ cấu hộ nông dân theo quy mô đất nông nghiệp trong cả nước (1994)
Quy mô diện tích Số hộ (%)
Hộ không có đất 672.000 6,64
Hộ có dưới 0,2 2.567.689 25,37
từ 0,2 – 0,5 4.189.179 41,39
từ 0,5 – 1 1.556.642 15,38
từ 1 – 3 1.022.523 10,10
từ 3 – 5 93.347 0,92
từ 5 – 10 18.572 0,18
Trên 10 1.832 0,02
Tổng 10.121.784 100,00
Nguồn: Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, 2003.

Còn đối với các hộ nông dân sản xuất rau hoa quả, cây cảnh, cây công nghiệp, chăn nuôi
gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng,… thì với qui mô diện tích nhỏ hay lớn đều
hướng về sản xuất nông sản hàng hóa là chủ yếu, và khối lượng, tỷ suất nông sản hàng hóa ít
phụ thuộc vào qui mô đất đai. Một số hộ với 500 – 1.000 m
2
trồng hoa, cây cảnh có thể thu nhập
hàng trăm triệu đồng/năm với tỷ suất hàng hóa đạt 100% (Lâm Quang Huyên, 2003).
2.4. Tình hình năng lực và trình độ sản xuất của nông hộ

Về năng lực và trình độ sản xuất, kinh tế hộ nông dân hiện nay đã và đang hình thành 4
loại hộ (Lâm Quang Huyên, 2003):
* Loại hộ nông dân nghèo: Thiếu đất, thiếu vốn, thiếu vật tư kỹ thuật và công cụ sản
xuất, thiếu kiến thức và năng lực quản lý sản xuất nông nghiệp, đôi khi thiếu cả lao động nên
trình độ sản xuất thấp kém. Kết quả là năng suất cây trồng vật nuôi thấp, làm không đủ ăn.
Nhóm này chiếm khoảng 15 – 20% tổng số hộ nông dân.
* Loại hộ nông dân trung bình: Có quỹ đất khá hơn nhưng thiếu vốn và vật tư kỹ thuật,
quản lý sản xuất khá hơn loại trên nhưng cũng còn hạn chế nên năng lực sản xuất cũng chỉ đóng
khung ở mức sản xuất tự túc là chủ yếu, sản lượng và tỷ suất nông sản hàng hóa chưa đáng kể.
Loại hộ này chiếm khoảng trên dưới 50% tổng số hộ nông dân.

10
* Loại hộ nông dân khá: Có quỹ đất nhiều hơn trung bình, có vốn để mua vật tư kỹ
thuật và ứng dụng khoa học công nghệ mới, có kinh nghiệm và năng lực quản lý kinh tế khá, có
khả năng đi vào thâm canh, tăng năng suất sản xuất nông sản để tự túc và sản xuất nông sản
hàng hóa với khối lượng khá, chiếm khoảng 50% tổng sản lượng nông sản làm ra. Nhóm hộ này
chiếm khoảng 25 – 30% tổng số hộ nông dân trong cả nước. Riêng vùng ĐBSCL chiếm 45 –
50% và đang có xu thế tăng lên.
* Loại hộ nông dân giàu: Có quỹ đất nhiều, có vốn lớn, có trình độ quản lý kỹ thuật
khá, có năng lực sản xuất mạnh, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào quản lý sản xuất,
đã trở thành hộ nông dân sản xuất nông sản hàng hóa là chủ yếu với khối lượng nhiều, tỷ suất
hàng hóa cao. Loại hộ này chưa nhiều, mới chỉ 10% tổng số hộ nông dân cả nước nhưng đang
có xu thế tăng lên trong quá trình đi lên CNH đất nước.
2.5. Thực trạng sản xuất nông nghiệp của nông dân ở nước ta
Theo Lâm Quang Huyên (2003), loại hộ nông dân khá và giàu sản xuất nông sản hàng
hóa theo mô hình trang trại hiện nay rải rác ở các vùng đều có nhưng tập trung ở những nơi sản
xuất lúa hàng hóa như vùng lúa Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên (ĐBSCL), vùng trồng
cây công nghiệp xuất khẩu như: cà phê, cao su, chè ở vùng đồi núi Đông Nam Bộ, Tây Nguyên,
miền núi và Trung du Bắc Bộ và vùng nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản ở ven biển.
Lâm Quang Huyên (2003) cho rằng, ở vùng đồng bằng, kinh tế hộ nông dân đã sản xuất

ra trên 90% lúa gạo, hoa màu, rau quả, thịt lợn, thịt gia cầm, trứng sữa, các cây con đặc sản.
Theo Nguyễn Sinh Cúc (2003) trước sự đổi mới kinh tế, An Giang chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp, phát triển mạnh chăn nuôi, thủy sản, công nghiệp và dịch vụ đi đôi với thâm canh lúa
màu, cây công nghiệp, cây ăn quả. Cây rau đậu có giá trị kinh tế cao và có thị trường tiêu thụ
như bắp lai, đậu đỏ, bông vải, chuối cấy mô, đậu xuất khẩu, mía giống mới, đậu mè (vừng).
3. Đất xám
3.1. Diện tích và phân bố
Đất xám ở Đông Nam Bộ chiếm diện tích lớn thứ hai sau nhóm đất đỏ vàng với 744.652
ha, chiếm 31,75% tổng diện tích tự nhiên toàn vùng; chúng phân bố thành khối lớn và tập trung
ở tỉnh Tây Ninh (48,19%) và tỉnh Sông Bé cũ (36,94%).
Các đất xám điển hình trên phù sa cổ hoặc trên granite thường xuất hiện ở các địa hình
cao (đỉnh hoặc sườn thoải các đồi gợn sóng). Đất xám có tầng kết von – đá ong thường xuất
hiện ở phần cuối dốc, chân đồi. Đất xám mùn thường có mặt ở những địa hình thấp vừa; ở các
triền đồi phẳng cuối bề mặt dốc hoặc phần giữa hai đồi lượn sóng. Đất xám gley và đọng mùn
xuất hiện ở những địa hình thấp nhất, xen lẫn với các đất xám khác nhất là đất xám mùn và đất
xám có dạng đá ong (Phan Liêu, 1992).
Đất xám vùng Châu thổ sông Cửu Long trải dài dọc theo biên giới Việt Nam –
Campuchia từ huyện Đức Hòa (Long An) đến huyện Hà Tiên (Kiên Giang). Tổng diện tích là
148.522 ha(Lê Phát Quới,1992), bao gồm đất xám phù sa cổ và đất xám ven núi vùng Tịnh
Biên, Tri Tôn (An Giang) và Kiên Lương, Hà Tiên (Kiên Giang). Theo Phạm Quang Khánh
(1997), tổng diện tích đất xám ĐBSCL là 149.122 ha chiếm 72,8% quỹ đất dốc, trong đó đất
xám trên phù sa cổ là 115.542ha (56,4%), đất xám trên granite và đá cát 33.580 ha (16,4%) tập
trung tại vùng Bảy núi và ở Hà Tiên, Kiên Lương (Kiên Giang).
3.2. Đặc điểm hình thành và các loại hình đất xám
Đất xám Đông Nam Bộ hình thành trên hai mẫu chất khác nhau:
(i) Trên mẫu chất phù sa cổ (Pleiostocen muộn).

11
(ii) Trên đá granite, giàu thạch anh, nghèo kiềm kiềm thổ.
Trên bản đồ đất 1/200.000, đất xám được chia thành 3 đơn vị bản đồ:

(i) Đất xám trên phù sa cổ.
(ii) Đất xám đọng mùn gley
(iii) Đất xám trên đá granit (Phạm Quang Khánh, 1995).
Đặc điểm hình thành và loại hình đất: Theo Phan Liêu (1992), phân chia đất xám thành 6
loại:
1). Đất xám trên phù sa cổ 2). Đất xám trên phù sa cổ có tầng kết von đá ong
3). Đất xám trên granit 4). Đất xám mùn
5). Đất xám gley 6). Đất xám đọng mùn gley

Theo Phạm Quang Khánh (1995) chia đất xám ra 3 loại hình chính:
1). Đất xám trên granit 2). Đất xám trên phù sa cổ
3). Đất xám trên phù sa cổ đọng mùn gley

Theo FAO/UNESCO chia đất xám (ACRISOLS ) làm 5 loại hình:
1). Haplic Acrisols: Đất xám điển hình 2). Chromic Acrisols:Đất xám vàng
3). Ferric Acrisols: Đất xám có kết von 4). Gleyic Acrisols: Đất xám gley
5). Arenic Acrisols: Đất xám cơ giới nhẹ


Bảng 4: Hàm lượng mùn, đạm, lân, kali trên đất xám (Phạm Quang Khánh, 1995)
3.3. Tính chất đất xám
3.3.1. Đất Đông nam bộ
Đất xám trên phù sa cổ có tầng thường rất dày, cơ giới nhẹ, dễ thoát nước, thuận lợi cho
cơ giới hóa và thích hợp với các loại cây trồng cạn. Tuy vậy, rất nghèo các chất dinh dưỡng, nên
khi sản xuất yêu cầu đầu tư cao về phân bón.
Tính chất hóa học hạn chế chính trên đất xám (Haplic Acrisols) là P và K (Công Doãn
Sắt, 1997). Ngoài ra, đối với đậu phộng trồng trên đất xám, yếu tố hạn chế năng suất là P, K,
Mg, S và Mo.
3.3.2. Đất đồi núi ở Tịnh Biên, Tri Tôn – An Giang
Tầng đất Mùn Tổng số (%) Dễ tiêu (mg/100g đất)

(cm) % N P
2
O
5
K
2
O C/N P
2
O
5
K
2
O
Đất xám trên granit
0-25 0,98 0,09 0,03 2,10 6,10 1,01 3,61
25-50 0,82 0,08 0,03 2,28 6,70 0,60 2,43
40-85 0,74 0,07 0,03 2,24 5,90 1,51 1,26
85-140 0,47 0,03 0,03 2,26 9,60 1,02 1,23
Đất xám đọng mùn gley

0-20 19,70 0,34 0,08 0,02 33,00 14,90 3,10
20-40 11,40 0,32 0,06 0,01 20,00 8,90 2,60
40-70 3,10 0,10 0,02 0,01 18,00 1,50 2,50
70-95 2,80 0,08 0,02 0,01 17,00 1,50 1,00

12
Theo Địa chí An Giang (2003):
Đất đồi núi An Giang chiếm diện tích khoảng 29.320 ha, chiếm 9,6% tổng diện tích đất
của tỉnh. Chủ yếu phân bố ở hai huyện Tri tôn và Tịnh Biên chỉ một phần nhỏ ở huyện Thoại
Sơn (vùng Ba Thê). Thành phần thuộc loại cát pha sét, chủ yếu là cát pha ít bột và sét, có nơi

hàm lượng cát chiếm trên 60% như ở xã An Hảo, An Cư (Tịnh Biên). Đất hầu như không có độc
tố nhưng hàm lượng chất hữu cơ thường rất thấp từ 1,08 – 0,2% ở tầng bên dưới. Đất đồi núi tại
đây được phân thành các loại sau:
• Đất sườn tích tại chỗ
Đất sườn tích tại chỗ là đất phong hóa của đá mẹ rồi trầm tích tại chỗ dọc theo các sườn
núi. Bề dày tùy theo dốc đứng hay thoải, nhưng không quá 5 m. Đất phong hóa ở núi Cấm, núi
Phú Cường, Tà Pạ tương đối giàu dinh dưỡng và thành phần cơ giới lớn, tỷ lệ giữa cát và sét
khoảng 1,25–1,8. Tuy nhiên, phần lớn ở các núi khác như Cô Tô, núi Trà Sư, núi Két…thì nghèo
dinh dưỡng và tỷ lệ cát/ sét từ 2,5–2,8; gồm các hỗn hợp đá từ đá tảng, cuội, dăm đến cát.
• Đất yếm phù
Đây là đất phong hóa từ các nơi được dòng lũ mang đến tích tụ ở nơi có địa hình thấp hơn.
Loại đất này phân bố thành vành đai thấp chạy từ chân đồi Tức Dụp đến Ba Chúc (Tri Tôn).
Thành phần chủ yếu là sét, pha sét với hàm lượng chất hữu cơ thường cao. Đất có màu xám đen.
• Đất thềm cao
Đất thềm cao là loại đất cát, quanh chân núi hay còn được gọi là đất “ruộng trên”. Đất chủ
yếu là cát mịn, hàm lượng độc tố thấp, nhưng chất hữu cơ nghèo, có màu nâu xám lẫn một ít
thực vật. Phân bố tương đối rộng ở các chân núi của hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên.
Việc sử dụng đất tập trung trong mùa mưa, khi có nước; cây trồng chủ yếu là lúa một
vụ/năm, một số nơi có trồng thêm đậu xanh, màu, khoai mì.
• Đất dọc theo các rãnh, khe núi
Đất dọc theo các rãnh núi, khe núi gồm cát, sạn sỏi bở rời từ trên núi do mưa lũ kéo
xuống. Đất hầu như chủ yếu là cát, có lẫn một ít hữu cơ; loại này có diện tích không nhiều (Địa
Chí An Giang, 2003).
3.3.3. Kiến nghị sử dụng đất xám
Chỉ nên khai thác đất xám trên phù sa cổ cho sản xuất nông nghiệp. Trong đó ưu tiên
cho việc trồng các loại cây như cao su, điều vì nó có khả năng bảo vệ cải tạo đất tốt. Trong sử
dụng đất phải chú ý:
- Biện pháp chống xói mòn và rửa trôi, tăng cường bón phân bổ sung dinh dưỡng nhất là
các loại phân hữu cơ (Phạm Quang Khánh, 1995).
- Thế mạnh của đất xám là thích hợp cho cây công nghiệp và hoa màu, trở ngại là thiếu

nước mùa khô và đất nghèo (Phan Liêu, 1992).
- Trong hội thảo về tiềm năng đất dốc đã ghi nhận thêm đất xám trên phù sa cổ cũng
thích hợp cho cây ăn trái và đặc biệt là các loại hoa màu cạn như sắn, lạc, mía, thuốc lá, đậu đổ,
rau xanh (Hội thảo về đất dốc, 1997).
4. Mô hình sản xuất nông nghiệp trên đất dốc ở nước ngoài
Theo Chiu và Chen (2000) các mô hình sản xuất nông nghiệp trên đất dốc ở nước ngoài
gồm có 4 loại:

13
- SALT1: Kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc (Sloping Argicultural Land
Technology).

- SALT2: Kỹ thuật canh tác nông súc đơn giản (Simple Agro-livestock Technology).

- SALT3: Kỹ thuật canh tác nông - lâm kết hợp bền vững (Sustainable Agroforest Land

Technology).
- SALT4: Kỹ thuật sản xuất nông nghiệp kết hợp với cây ăn quả quy mô nhỏ (Small

Agro-fruit Livelihood Technology).
Nội dung của các kỹ thuật nầy như sau:
4.1. Mô hình kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT1)
Đây là một mô hình tổng hợp dựa trên mô hình phối hợp tốt các biện pháp bảo vệ đất với
sản xuất lương thực mà người nông dân có thể thực hiện được như sau:
Trong mô hình, người ta bố trí những cây cố định trên những băng rộng 4 – 6 m tùy theo
độ dốc, nếu dốc mạnh thì băng hẹp (4 m), nếu dốc nhẹ thì băng trồng rộng (6 m). Các băng đó
được trồng theo đường vành nón ngang dốc, một số băng trồng cây hàng năm như lúa, lạc, đỗ,
ngô xen kẽ với một số băng trồng cây dài ngày như chanh, chuối, ca cao. Nhờ vậy mà có được
thu hoạch đều đặn trong cả năm và nếu bị rủi ro mất mùa đối với cây này thì còn cây khác được
thu hoạch để bù đắp một phần.

Giữa các băng cây còn được trồng xen những hàng cây cố định đạm để giữ đất chống xói
mòn, làm phân xanh và lấy củi đun. Cây cố định đạm được trồng dày theo hàng đôi ngang dốc
để tạo thành rào xanh. Khi cây cao 1,5 – 2 m, chừa lại một phần gốc cao 40 – 50 cm để tiếp tục
đâm chồi, cắt phần trên xếp vào gốc vừa chặn dòng chảy vừa bón lại cho đất. Cây cố định đạm
thường được dùng là cây keo dậu, muồng hoa pháo, muồng ba lá dài.
Cơ cấu cây được sử dụng để đảm bảo được sự ổn định và có hiệu quả nhất là 75% cây
nông nghiệp và 25% cây lâm nghiệp. Trong cây nông nghiệp thì 50% là cây hằng năm và 25% là
cây lâu năm.
Hằng năm, người nông dân thu thập được một lượng hàng hóa tăng gấp rưỡi so với cách
trồng sắn độc canh của họ. Thu nhập bình quân của một gia đình bằng mô hình này ở phía Nam
Philippin được hơn 50 đô la Mỹ trong 1 tháng. Đó là chưa kể những lợi ích thu được về nhiều
mặt khác nhờ có tác dụng phòng chống xói mòn giữ đất, giữ nước tăng 4 lần, tăng được năng
suất cây trồng gấp 5 lần, hoàn trả và duy trì được độ phì đất, đa dạng hơn được sản phẩm thu
hoạch, tăng thêm được việc làm, tận dụng được mọi nguồn lao động trong gia đình.
Đây là mô hình sử dụng đất dốc tổng hợp nhưng đơn giản, cần vốn ít, đầu tư thấp. Các
hộ gia đình chỉ cần một số vốn nhỏ để mua giống và phân bón với công cụ cuốc xẻng thông
thường và một số hiểu biết về cây trồng và kỹ thuật canh tác là có thể thực hiện được.
4.2. Mô hình kỹ thuật nông – súc kết hợp đơn giản (SALT2)
Đây là một mô hình sử dụng đất tổng hợp dựa trên cơ sở phát triển mô hình kỹ thuật
canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT1) nói trên bằng cách dành một phần đất trong mô hình đó
để chăn nuôi theo phương thức nông – lâm – súc kết hợp.
Ở Philippin, người ta chú trọng ứng dụng việc nuôi dê trong hệ thống để lấy thịt và sữa.
Một phần tư héc ta đất trồng được dành để trồng cây lương thực có hàng rào xanh và hàng cây
ngang dốc theo cách làm mô hình kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc để chống xói mòn, bảo
vệ đất và ngăn chặn súc vật phá hoại hoa màu. Một phần tư héc ta đất trồng khác trồng cây cỏ

14
làm thức ăn cho dê. Bằng cách đó, mỗi nhà nuôi 14 con dê, mỗi ngày mỗi con dê có thể cho 2 lít
sữa nếu có đầy đủ thức ăn.
Cơ cấu sử dụng đất thích hợp ở mô hình này là 40% dành cho sản xuất nông nghiệp,

20% cho trồng cây lâm nghiệp và 20% dành cho chăn nuôi, phần đất còn lại làm nhà ở và
chuồng trại. Phân chuồng được bón trả lại cho cây trồng trong mô hình.
Tác dụng của mô hình này rất rõ ràng, ngoài lợi ích về chống xói mòn bảo vệ đất và các
nông lâm sản thu được còn có thịt, sữa và phân bón cho đất nên việc canh tác và sử dụng đất
được lâu bền hơn.
4.3. Mô hình kỹ thuật canh tác nông – lâm kết hợp bền vững (SALT3)
Đây là một mô hình sử dụng đất tổng hợp dựa trên cơ sở kết hợp trồng rừng quy mô nhỏ
với việc sản xuất lương thực thực phẩm.
Ở đây, người nông dân dành phần đất nơi thấp hơn là phần sườn dưới và chân đồi núi để
trồng các băng cây lương thực xen với các hàng rào xanh cây cố định đạm theo kiểu mô hình
kinh tế canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT1). Còn phần đất cao ở phía trên, thường là sườn
trên hoặc đỉnh đồi núi thì trồng rừng hoặc để rừng phục hồi. Cây lâm nghiệp được chọn để trồng
theo thời gian thu hoạch được chia ra thành các loại từ 1 – 5; 6 - 10; 11 - 15; 16 – 20 năm sao
cho có thể thu được sản phẩm cao nhất và đều đặn. Ở Philippin thường dùng các cây mọc nhanh
và cho gỗ nhỏ để làm củi, làm giấy, làm cột ... vừa có tác dụng cải tạo đất như keo dậu Philippin,
bản xe lá phượng, lõi thọ, tếch và được trồng theo băng hoặc theo đám xen kẽ nhau.
Cơ cấu sử dụng đất thích hợp ở đây là 40% dành cho nông nghiệp và 60% cho lâm
nghiệp. Bằng cách đó đất đai được bảo vệ có hiệu quả hơn, đồng thời vẫn có đủ lương thực, thực
phẩm, gỗ củi và nhiều sản phẩm phụ khác, tăng được thu nhập cho người nông dân.
Mô hình này tuy đòi hỏi đầu tư cao hơn cả về vốn liếng cũng như sự hiểu biết và thời
gian nhưng khả năng sinh lợi không nhỏ, không chỉ cho trước mắt nhất thời mà cả về lâu dài nhờ
có hỗ trợ nhiều mặt của rừng.
4.4. Mô hình sản xuất nông nghiệp với cây ăn quả quy mô nhỏ (SALT4)
Đây là một mô hình sử dụng đất tổng hợp được xây dựng và phát triển từ năm 1992 dựa
trên cơ sở hoàn thiện các mô hình nói trên.
Trong mô hình này, ngoài đất đai dành để trồng cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây
hàng rào xanh còn dành ra một phần để trồng cây ăn quả. Tập đoàn cây ăn quả nhiệt đới được
chú ý đặc biệt do sản phẩm của nó có thể bán để thu tiền mặt và cũng là những cây lưu niên có
thể duy trì được sự ổn định và lâu bền hơn về môi trường sinh thái so với cây hằng năm.
Ở Philippin, trong các mô hình canh tác nông nghiệp đất dốc (SALT1), người ta thường

dành 3000–4000 m
2
hoặc 5000–7000 m
2
để trồng cây ăn quả như đu đủ, chuối, cam, chanh,
xoài, dứa, dừa ...và cả một số cây công nghiệp có giá trị như cà phê, ca cao, chè .... Đối với các
loại cây này đòi hỏi đất đai phải tốt và có sự đầu tư thâm canh cao hơn về các biện pháp cày
cuốc, làm đất, bón phân, chọn giống, chăm sóc. Tuy nhiên, đây cũng là những loại cây gần gũi
quen thuộc với người nông dân, chỉ cần giúp họ hiểu biết về khoa học kỹ thuật bằng cách cho họ
tham gia trình diễn là họ có thể ứng dụng được.
Cũng như các mô hình trên, trong mô hình này, cây cố định đạm cũng được đặc biệt chú
ý, ngoài các tác dụng đã biết, nó còn có tác dụng che bóng và phủ đất cho cây ăn quả và cây
công nghiệp. Có 9 tiêu chuẩn để chọn lựa cây hàng rào xanh cố định đạm là: dễ gieo trồng; cho
năng suất sinh khối cao; nguồn giống dễ kiếm; khả năng hoai mục các cành khô, lá rụng nhanh;

15
có khả năng cố định đạm; có thể làm củi; làm thức ăn cho gia súc; chịu hạn và chống chịu được
sâu bệnh hại.
Ở Philippin người ta đã chọn được 5 loại cây đáp ứng được các tiêu chuẩn trên là cây
Phomingia macrophyla, Desmodium rensonii, Glyricidia sepium, keo dậu chịu đất chua và
muồng hoa pháo. Những cây này tuy không có ở nước ta nhưng cũng đã có những khảo nghiệm
bước đầu có một số cây có triển vọng phát triển tốt ở một số vùng như cây muồng hoa pháo ở
Hòa Bình, Sơn La; cây Gliricidia trồng ở Bắc Thái, Đồng Nai (Nguyễn Xuân Quát, 1999). Các
cây hoa màu được trồng trong hệ thống gồm rau đậu, ngũ cốc và rau cải.
4.5. Các mô hình khác
Các tài liệu sau đây có liên quan đến mô hình canh tác đất dốc tại Philippin, Thái Lan,
Đài Loan, Inđônêsia gần giống với điều kiện canh tác của Việt Nam.
Theo Chiu và Chen (2000) tại Indonesia, các hệ thống canh tác trên cơ sở bảo tồn đất
được áp dụng nhiều để chống xói mòn đất do mưa, chảy tràn và mất đất làm tăng năng suất cây
trồng, bảo đảm an ninh lương thực. Các thí nghiệm đưa ra hệ thống canh tác thích hợp như bắp -

màu (bắp - đậu nành, bắp - đậu phộng, đậu xanh) cho năng suất và lợi tức cao đồng thời sử dụng
thân lá để làm chất tủ gốc, chất phủ đất.
Tại Hàn quốc, Chiu và Chen (2000) khuyến cáo trồng các loại cây tùy theo độ dốc. Độ
dốc 2% trồng lúa, 2-7% hoa màu cạn, 7-12% cây ăn trái hoặc dâu tằm, 15-45% trồng cỏ và
>45% trồng rừng.
Tại Đài Loan, chính sách đa canh và thâm canh đất nông nghiệp nói chung chia làm 3
thời kỳ. Từ 1945-1973 chính sách gia tăng nông nghiệp khuyến khích thâm canh đất trồng. Thời
kỳ hai từ 1974-1983 nhằm vào sản xuất lúa, các chỉ tiêu đa canh giảm dần. Thời kỳ ba từ 1984-
1999 giảm sản xuất lúa, đa canh giảm liên tục và đạt đến điểm thấp nhất ( Fenn, Ho & Hoang,
2001).
5. Mô hình sản xuất nông nghiệp đất dốc trong nước
Tại miền Bắc Việt Nam, lúa, sắn chè, lạc là những cây trồng quan trọng nhất ở trung du
(Lê Trọng Cúc, 1990). Xây dựng rừng tự nhiên trên đất trống đồi núi trọc các mô hình trồng
rừng và các biện pháp quản lý cỏ dại, làm thức ăn gia súc như: thỏ ăn cỏ, búp non, một vài thứ
thức ăn thừa; gà ăn sâu bọ, lá xanh, quả rụng, hạt; vịt làm sạch dòng nước, ăn cỏ, rong tảo, thân
củ, ăn sâu, bọ, sên, ốc; ngỗng ăn cỏ hòa thảo, cỏ họ đậu; các mô hình chăn nuôi gia súc có sừng
(Lê Trọng, 2004).
Tại miền Đông Nam bộ, Phạm Quang Khánh (1995) đã nghiên cứu hệ thống sử dụng đất
xám. Theo đó trong 10 hệ thống sử dụng đất không được tưới có đến ba hệ thống lấy cây bắp
làm chính xen cây họ đậu trong đó có đậu xanh. Ngoài ra còn có hệ thống trồng lúa mùa địa
phương. Các hệ thống canh tác trên đất xám có tưới và không tưới được trình bày trong bảng 5.
Bảng 5: Các hệ thống canh tác chính trên đất xám Đông nam bộ
Đvt: (1000 đ/ha)
Hê thống canh tác Chi Thu Lãi Lãi/vốn Hiệu quả
+Có tưới

-Lúa 2 vụ: ĐX+Mùa 4.017 8.071 4.055 1,01 Trung bình
-Lúa 2 vụ: ĐX+HT 2.991 7.705 4.760 1,59 Cao
-Lúa mùa+Thuốc lá ĐX 16.657 23.586 6.930 0,42 Rất thấp
-Lúa mùa+Bí xanh ĐX 24.308 16.500 8.850 1,16 Cao

-Lúa mùa+Củ sắn ĐX+Dưa leo HT 11.328 36.200 24.872 2,20 Rất cao
-Lúa mùa+Củ sắn XH 5.544 15.890 10.347 1,87 Cao
-Lúa mùa+Lạc xen đậu xanh ĐX 5.376 8.543 3.166 0,59 Thấp
+Không được tưới


16
-Điều 1.512 5.200 3.688 2,12 Rất cao
-Khoai mì 870 2.000 1.130 1,30 Trung bình
-Bắp HT+ Khoai mì mùa 2.845 5.417 2.572 0,90 Thấp
-Bắp HT+ Đậu xanh mùa 2.908 4.617 1.709 0,59 Thấp
-Bắp HT+ Đậu phộng mùa 3.074 4.750 1.676 0,55 Thấp
-Đậu phộng HT+Đậu xanh mùa 2.324 5.750 3.426 1,47 Trung bình
-Đậu phộng HT+Lạc xen đậu xanh mùa 5.250 8.750 3.500 0,67 Thấp
Theo báo cáo của Nguyễn Duy Cần (1996) trong hệ thống canh tác của nông dân tiên
tiến Phạm Văn Nhỏ tại xã Lê Trì đã cho biết hình thức xen canh ở đất dốc là khoai mì + đậu
xanh cho năng suất khoai mì là 30 t/ha và đậu xanh là 500 kg/ha.
Theo Nguyễn Bảo Vệ (2001) đã đề xuất một mô hình chung cho vùng đất xám cao vùng
đất cát Bảy Núi, vùng chân núi là hệ thống canh tác tổng hợp bao gồm trồng cỏ chăn nuôi bò và
trồng rau màu (lúa, đậu, bắp) và hệ thống cây chắn gió (cây lâm nghiệp hoặc cây ăn trái phân
tán) cộng với cỏ ngăn dòng chảy (trồng cỏ Vetiver phân tán chống xói mòn).
Trong bài tham luận tại Đại hội Đại Biểu Nông Dân Sản Xuất Kinh Doanh Giỏi Lần I
Huyện Tri Tôn của ông Nguyễn Thành An là nông dân xã Tân Tuyến – Tri Tôn – An Giang. Mô
hình 2 Dưa Hấu + 1 Lúa trên đất ruộng trong điều kiện đủ nước tưới rất có hiệu quả: vụ lúa
Đông Xuân đạt năng suất 8 tấn/ha/vụ; vụ dưa hấu tết đạt năng suất 25 tấn/ha/vụ, giá bán từ 1.600
- 2.500đ/kg trong khi giá thành sản xuất chỉ 700 – 850 đ/kg. Với diện tích đất 1 ha mỗi năm ông
An thu nhập gần 120 triệu đồng (Hội nông dân huyện Tri Tôn, 2004)
6. Hệ thống nông nghiệp bền vững
6.1. Định nghĩa
- Nền nông nghiệp lựa chọn (alternative agriculture)

Theo Hội đồng nghiên cứu quốc gia Mỹ (1989):
Một nền nông nghiệp lựa chọn là bất cứ một hệ thống sản xuất lương thực hoặc chất xơ
nào theo đuổi một cách có hệ thống các mục đích sau:
- Kết hợp một cách triệt để hơn các quá trình tự nhiên như chu trình dưỡng chất, sự cố
định đạm và mối quan hệ dịch hại - vật ăn mồi trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
- Giảm sự sử dụng đầu vào ngoài nông trại có nhiều khả năng gây nguy hại cho môi
trường hoặc sức khỏe của nông dân và người tiêu thụ.
- Sử dụng được ngày càng nhiều hơn tiềm năng sinh học và di truyền của các loài thực
vật và động vật.
- Cải thiện sự phù hợp giữa mô hình trồng trọt, tiềm năng sản xuất và sự giới hạn tự
nhiên của đất nông nghiệp nhằm đảm bảo tính bền vững lâu dài của trình độ sản xuất hiện tại.
- Sản xuất có lợi nhuận và có hiệu quả bằng sự quản trị nông trại cải tiến và bảo tồn đất,
nước, năng lượng, tài nguyên sinh học.
- Nông nghiệp bền vững (sustainable agriculture)
Theo Mai văn Quyền (1998):
Tính bền vững của một hệ thống cây trồng dựa vào 4 điều kiện sau:
- Hệ thống đó ổn định được năng suất kinh tế trong các điều kiện môi trường bất thuận
và giữ được môi trường không suy thoái trong thời gian dài.

17
- Sau một thời gian ngắn thu được hiệu quả kinh tế ngay đồng thời duy trì được hiệu quả
kinh tế như vậy trong theo gian dài dù rằng có những điều kiện bất lợi tác động lên hệ thống.
- Các hệ thống cây trồng bền vững cũng ngụ ý chỉ một số khía cạnh về phúc lợi xã hội
như bình đẳng xã hội, công việc ít nặng nhọc, nam nữ và trẻ em đều bình đẳng.
- Hệ thống có khả năng uyển chuyển và thích ứng được với các điều kiện môi trường
khác nhau.
Theo Trung Tâm thông tin về Hệ thống Nông nghiệp lựa chọn (AFSIC): Quốc Hội Mỹ
đã thông qua điều luật về nền nông nghiệp bền vững định nghĩa như sau:
Nền nông nghiệp bền vững là một hệ thống canh tác tổng hợp cây trồng và vật nuôi
được áp dụng riêng biệt trong một thời kỳ dài mà nó sẽ:

- Thỏa mãn nhu cầu lương thực và chất xơ cho con người.
- Tăng cường chất lượng môi trường và nền tảng của nguồn tài nguyên thiên nhiên mà
nền kinh tế nông nghiệp dựa vào.
- Sử dụng tổng hợp có hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên không hồi phục và nguồn tài
nguyên trong nông trại một cách thích đáng, tự nhiên.
- Áp dụng các chu trình sinh học và kiểm soát.
- Làm bền vững khả năng tồn tại và phát triển quá trình hoạt động của nông trại.
- Tăng cường chất lượng cuộc sống cho nông dân và xã hội nói chung.
Theo Võ-Tòng Xuân (2005) khuyến cáo không nên làm 3 vụ lúa đại trà ở ĐBSCL như
sau:
Quan điểm phát triển nền nông nghiệp bền vững là không nên phát triển đại trà lúa 3 vụ ở
ĐBSCL. Hãy cho đất nghỉ, đưa lũ tràn vào để lấy phù sa, diệt trừ sâu bệnh. Nông dân còn có
nguồn lợi tự nhiên để khai thác, đa dạng loại hình kinh tế, tăng thu nhập. Còn nếu canh tác vụ ba
trong đê bao thì nên hướng đến canh tác lúa giống, cây màu nhưng đặc biệt cũng cần xen lẫn
những vụ nghỉ để lũ vào đồng. Ngay cả trồng màu, các địa phương cũng phải chú ý đến vấn đề
đầu ra. Đó là cái khó của ĐBSCL, không giải quyết được nó thì người dân vừa cực vừa nghèo
thêm…
Hiện nay, nhiều địa phương có đê bao đang chạy theo thành tích báo cáo lên trên để nông
dân ồ ạt sản xuất lúa vụ 3. Thậm chí còn làm 7 vụ/2 năm. Tôi biết chắc những nông dân này
không thể nào làm giàu từ mảnh ruộng của mình trong khi phân bón thuốc men phải dồn dập đổ
xuống dẫn đến suy thoái đất vì mất cân bằng dưỡng chất.
Xây dựng đê bao, bờ bao đã khó, đã tốn kém (chưa nói đến đúng hay sai), nhưng làm sao
để các công trình đó hoạt động theo đúng thiết kế xem chừng còn khó hơn. Tôi biết có đê bao
làm xong một, hai năm được bữa ra cho lũ vào, nhưng sau đó kiên cố luôn để không cho một
giọt lũ nào vào đồng. Lý do địa phương đưa ra là không còn đất, còn cừ để hàn lại đê bao nếu cứ
làm như vậy, nhưng còn có lý do không nói ra là áp lực của cái lợi trước mắt. Thậm chí, nhiều
đê bao được thiết kế cống bọng để chủ động điều tiết lũ vào đồng, nhưng suốt nhiều năm liền
không thấy giọt lũ nào vào đồng, ngoài chuyện làm giảm năng suất, ô nhiễm môi trường sinh
hoạt sống và đất đai nông nghiệp cũng đến mức báo động.
6.2. Vai trò cây phân xanh đối với HTCT bền vững trên đất dốc

Theo Thái Phiên và Nguyễn Tử Siêm (1998) cho biết vai trò cây phân xanh phủ đất đối
với nền nông nghiệp sinh thái bền vững trên đất dốc thể hiện ở chỗ:

18
• Tạo một lớp phủ nhanh chóng bảo vệ đất chống xói mòn và dòng chảy bề mặt.
• Giữ dinh dưỡng khỏi trôi theo chiều sâu và kéo dinh dưỡng dưới sâu lên tầng canh
tác.
• Bổ sung vào chất lượng dinh dưỡng cây trồng đáng kể, đặc biệt là đạm (từ 200 -
300kg N/ha) và kali (300 -500kg/ha), chống giữ chặt lân và giải phóng lân dễ tiêu.
• Nâng cao dung tích hấp thu và thành phần kim loại kiềm trong dung tích hấp thu.
• Tạo cấu trúc đất, làm cho đất tơi xốp, tăng độ thấm nước, giữ nước.
• Điều hòa tiểu khí hậu khu vực và môi trường đất xung quanh hệ rễ.
• Cải thiện căn bản thành phần nông phẩm vùng đồi núi, tăng thành phần protein trong
bữa ăn con người và thức ăn gia súc.
• Tăng thêm nguồn gỗ củi đun và góp phần cải thiện môi trường.
Cũng theo Thái Phiên và Nguyễn Tử Siêm (1998) cho biết năm 1927 nhà nông học Pháp
Chauvin đã thu thập và thử nghiệm tại Pleiku một tập đoàn cây phân xanh gồm 62 giống bản địa
và nhập nội từ Jakarta. Kết quả chọn được 12 giống phân xanh thích hợp để làm cây tiên phong
cải tạo đất hoặc trồng xen trong vườn cây lâu năm như chè, cà phê, cao su, cây ăn quả. Đó là:
Đậu triều (Cajanus indicus) Đậu lông (Calopogonium mucunoides)
Đậu bướm (Centrosema pubescens) Sục sạc mũi mác (Crotalaria anagyroides)
Sục sạc lá tròn (Crotalaria striata) Sục sạc lá dài (Crotalaria urasamoiensis)
Hàn the (Desmodium gyroides) Tràm dây (Desmodium gyroides)
Trinh nữ (Mimosa invisa) Cốt khí (Tephrosia candida)
Cốt khí (Tephrosia maxima) Cốt khí (Tephrosia vogelii)
Từ năm 1949-1952 tại Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp Blao (Lâm Đồng) một tập
đoàn cây phân xanh phủ đất thuộc họ Đậu đã được khảo nghiệm bởi A. Chavaney & J.
Lanfranchi. Sau 6 năm nghiên cứu hai ông đã rút ra kết luận trên đất đỏ bazan có 5 cây phủ đất
tốt nhất, trong đó cây quì dại là cây cho năng suất chất xanh cao nhất, tới 100 t/ha chất xanh:
Đậu triều (Cajanus indicus), Cốt khí (Tephrosia maxima) Cốt khí (Tephrosia vogelii), Muồng

hôi (Cassia hirsita), Quì dại (Tithonia diversifolia)
Đến những năm 2000-2005, Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền nam trong
chương trình hợp tác với Đại Học Công giáo Leuven, Vương quốc Bỉ về làm giàu quỹ lân cho
đất Đông nam bộ và Tây nguyên trên các điểm thí nghiệm xã Đà Loan (Lâm Đồng), xã Đak
Nhau (Bình Phước) và xã Nghĩa Hòa, xã Iablang (Gia Lai) kết luận:
• Cây tóp mỡ (Flemigia sp), đậu mèo (Mucuna pruriens), sắn dây dại (Pueraria
phaseoloides) và quì dại (Tithonia diversifolia) có tiềm năng cho năng suất thân lá cao và ổn
định (trên 10 tấn/ha). Năng suất thân lá tươi trung bình của tóp mỡ, đậu mèo và sắn dây dại qua
các điểm nghiên cứu đạt từ 11,0- 12,5 t/ha/năm. Đặc biệt đối với cây quì dại đạt trên 20 t/ha/năm
(Phan Thị Công, Roel Merckx, Công Doãn Sắt, Nguyễn Quang Chơn, Nguyễn Bình Duy, 2005).
7. Sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Theo Võ-Tòng Anh (2005) định nghĩa :
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi là tập trung vào việc chuyển đổi từ cây trồng có
giá trị thấp sang cây có giá trị cao hơn, sang chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Mặc dù “cây có giá
trị thấp” được xác định băng giá trị của nó trên một đơn vị trọng lượng, song hợp lý hơn cả có
thể xác định đó là những cây trồng mang lại lợi ích kinh tế cao trên một đơn vị diện tích ruộng
đất hoặc công lao động.

19
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là thực hiện một bước chuyển từ trạng thái cơ cấu
cây trồng vật nuôi cũ sang trạng thái cơ cấu cây trồng, vật nuôi mà mình mong muốn để có thể
đáp ứng được những yêu cầu của chuyển đổi. Thực chất của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi là thực hiện một loạt các biện pháp chính sách nhằm thúc đẩy phát triển cơ cấu cây
trồng, vật nuôi mới có triển vọng về thị trường.
Theo chủ trương chuyển cơ cấu nông nghiệp nông thôn của tỉnh cho hai huyện miền núi
Tri Tôn và Tịnh Biên là: vùng đất ruộng bưng trũng chịu một mùa lũ kéo dài năm tháng nên phát
triển diện tích trồng tràm, trồng khoai mì hoặc một vụ lúa mùa + một vụ rẫy đông xuân; vùng
ruộng trên có thể áp dụng một trong bốn hệ thống: đồng cỏ chăn nuôi, đậu xanh Hè Thu + lúa
mùa (KDM 105), chuyên rẫy màu Hè Thu – màu Thu Đông, chuyên rẫy khoai mì (Sở nông
nghiệp và phát triển nông thôn An Giang, 2001).


II. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương tiện nghiên cứu
- Các phiếu điều tra.
- Dùng chương trình Microsoft Excel (máy tính) để phân tích và tổng hợp số
liệu.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thể thức thống kê
Hình thức nghiên cứu là phỏng vấn, điều tra kinh tế hộ các nông hộ làm nông nghiệp để
lấy số liệu. Tiến hành điều tra 273 hộ chọn ngẫu nhiên trong 3 xã theo tỷ lệ: 91 hộ nghèo: 91 hộ
trung bình: 91 hộ giàu. Tính trung bình các chỉ tiêu giữa các nông hộ.
2.2. Phương pháp tiến hành
2.2.1 Chọn vùng và điểm nghiên cứu
Vùng các xã chung quanh chân núi Dài gồm các điểm hộ nông dân thuộc 2 xã Lương
Phi, Lê Trì và thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Chung quanh núi Dài gồm có 4
xã, chọn 3 xã điểm đại diện như trên đều có núi và đất bằng.
2.2.2. Thu thập các số liệu thứ cấp:
- Điều kiện tự nhiên.
- Kinh tế - xã hội: Các báo cáo của các cơ quan nông nghiệp, báo cáo kế hoạch
năm của UBND xã điểm và huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
- Bản đồ các loại.
2.2.3. Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân
(PRA).
Tổ chức các cuộc hội nghị có sự tham gia của người dân tại các xã điểm gồm các nông
dân am hiểu tình hình địa phương với sự quan sát của Hội nông dân xã và tổng hợp kết quả bằng
các công cụ của phương pháp nầy.
2.2.4. Điều tra bằng phương pháp phỏng vấn với bảng câu hỏi
- Chọn mẫu điều tra: 273 hộ nông dân (phỏng vấn có dư 300 phiếu để chọn lọc lại)
+ Phân phối đều trong các ấp (17 khóm, ấp): 1 khóm, ấp từ 12 - 16 mẫu điều tra.
+ Phân phối ngẫu nhiên trong các hộ: từ 10 – 15 hộ tiến hành điều tra 1 hộ.


20
- Nội dung và hình thức điều tra: điều tra theo phiếu điều tra đã thiết kế sẵn theo mẫu của
Viện Hệ Thống Canh Tác Đại học Cần Thơ.
- Tổng hợp và phân tích mẫu điều tra: Hoàn chỉnh các phiếu điều tra và tiến hành nhập
số liệu (bảng biểu đã thiết kế sẵn).
- Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý bằng Microsoft Excel. Các giá trị được tính là: Giá trị
trung bình (mean), giá trị lớn nhất (max), giá trị nhỏ nhất (min), giá trị phần trăm (%).
- Bổ sung số liệu: Các phiếu còn thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch thì tiến hành
phỏng vấn lại và nhập số liệu bổ sung.
3. Phân tích thống kê mô tả các chỉ tiêu
Tính trung bình tất cả các chỉ tiêu của các nông hộ như:
- Phân tích nguồn lực nông hộ
+ Nguồn lực về lao động.
+ Nguồn lực về đất đai.
+ Nguồn lực về phương tiện sinh hoạt gia đình: phương tiện giao thông, tài sản
gia đình phục vụ cho hoạt động vui chơi giải trí, công cụ lao động phục cho hoạt động sản xuất
nông nghiệp,…
+ Nguồn lực về việc sử dụng nước.
- Cơ cấu thu nhập của nông hộ
+ Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp: trồng lúa, trồng màu, chăn nuôi,…
+ Thu nhập từ phi nông nghiệp và dịch vụ.
+ Chi tiêu gia đình trong một năm.
+ Tích lũy (hay tiền để dành) hàng năm.
- Phân tích sản xuất các mô hình canh tác (mùa vụ, cây trồng, lợi nhuận,…)
+ Cơ cấu mùa vụ sản xuất lúa 2 vụ.
+ Cơ cấu mùa vụ trồng màu.
+ Cơ cấu mùa vụ trong chăn nuôi.
+ Tương hỗ giữa chăn nuôi và trồng trọt.
+ Những thuận lợi và khó khăn chung của nông dân.

+ Vai trò của giới trong sản xuất nông nghiệp.
+ Các ý kiến đề xuất của nông dân.
- Phân tích hiệu quả kinh tế các mô hình canh tác của nông hộ.
+ Doanh thu, chi phí, lợi nhuận từ sản xuất lúa 2 vụ.
+ Doanh thu, chi phí, lợi nhuận từ trồng màu.
+ Doanh thu, chi phí, lợi nhuận từ chăn nuôi.
4. So sánh các chỉ tiêu tài chính các mô hình canh tác phổ biến và tiên tiến
Dùng các chỉ tiêu lợi nhuận, lãi/vốn, lãi/vật tư, lãi/lao động để đánh giá hiệu quả
kinh tế mô hình và các chỉ tiêu doanh thu biên, lợi tức biên để so sánh các mô hình hiệu quả cao,
tiên tiến với mô hình trồng đại trà.
4.1. Các chỉ tiêu phân tích mô hình
Các chỉ tiêu sau dùng để phân tích hiệu quả kinh tế của mô hình (Nguyễn Văn Sánh,
1997); (Nguyễn Thị Song An, 2001).
4.1.1. Lợi nhuận (RAVC: Return Above Variable Cost)

21
Thu nhập trên biến phí
TVCGRRAVC −=


Trong đó: GR = Sản lượng X Đơn giá;
(GR: Gross Revenue)
TVC = Phí vật tư + Phí lao động
(TVC: Total Variable Cost )
Mục đích: tính lợi nhuận của các mô hình sản xuất, đánh giá được các mô hình này có lợi
nhuận cao hay thấp so với mô hình sản xuất tiên tiến.
4.1.2. Hiệu quả đồng vốn
TVCE=
TVC
RAVC

( Lãi/vốn)
(TVCE: Total Variable Cost Efficiency)

Mục đích: Tính được 1 đồng vốn biến phí mang lại bao nhiêu đồng lãi
4.1.3. Lợi tức/nhân tố đầu tư


AFACTOR
TVCGR
..

. Trong đó: nhân tố A (factor A) là lao động hoặc vật tư
Mục đích: Đánh giá mức sử dụng đồng vốn và công lao động so với lợi nhuận thu được
từ các mô hình sản xuất.
4.2. Các chỉ tiêu so sánh giữa 2 mô hình
Các chỉ tiêu sau dùng để so sánh hiệu quả kinh tế giữa mô hình HTCT đang được trồng
đại trà (mô hình phổ biến) với mô hình có hiệu quả cao (mô hình tiên tiến) tại vùng nghiên cứu
(Kay, 1988).
4.2.1. Tỉ số lợi nhuận mô hình tiên tiến/ phổ biến
là tỉ số suy ra từ phép
phân tích điểm hòa vốn (Break-even budgeting analysis) trong phân tích kinh tế toàn nông trại
(Whole Farm Analysis).

Theo phương pháp tính nầy, trước hết là năng suất sau đó là sản lượng và giá đầu ra của
mô hình mới phải cao hơn mô hình hiện đang canh tác thì nông dân mới chấp nhận chuyển đổi
sang mô hình mới. Do đó, phải thỏa mãn điều kiện của hệ phương trình:
RAVC
n
= 0 (1)
Trong đó: - RAVC

n
: lợi nhuận của mô hình tiên tiến
RAVC
n
≥ RAVC
f
(2)
- RAVC
f
:

lợi nhuận của mô hình phổ biến

Thông thường, RAVC
n
phải cao hơn

RAVC
f
của nông dân ít nhất 30% để kích thích
nông dân áp dụng mô hình mới, nghĩa là

RAVC
n


= 1,3

RAVC
f


4.2.2.. Tỉ

số

doanh thu/chi phí biên
(MRCR: Marginal Revenue Cost Rate)
là tỉ số giữa mức thu tăng thêm và mức chi tăng thêm trên một đơn vị diện tích 1 ha của mô hình
tiên tiến so với mô hình phổ biến. Ý nghĩa: nếu mức chi tăng thêm 1 đồng thì mức thu sẽ tăng
thêm A lần/1 đồng.

12
12
TVCTVC
GRGR
MRCR


=

Trong đó:
GR
2
: Tổng thu mô hình sản xuất có hiệu quả cần so sánh (tiên tiến).
GR
1
: Tổng thu mô hình sản xuất được trồng đại trà (phổ biến).

TVC
2

: Tổng chi phí mô hình sản xuất có hiệu quả cần so sánh (tiên tiến).
TVC
1
: Tổng chi phí mô hình sản xuất được trồng đại trà (phổ biến).

22
Mục đích: so sánh doanh thu tăng thêm giữa các mô hình sản xuất tiên tiến và mô hình
sản xuất phổ biến.

Nếu MRCR > 1: Doanh thu mô hình sản xuất tiên tiến có hiệu quả hơn mô hình sản xuất
phổ biến .

Nếu MRCR = 1: Hiệu quả đầu tư không thay đổi.

Nếu MRCR < 1: Doanh thu mô hình sản xuất tiên tiến không hiệu quả.
4.2.3. Thu nhập biên
(Marginal Return Rate) là tỉ số giữa lợi nhuận tăng
thêm và chi phí tăng thêm trên một đơn vị diện tích 1 ha.
12
12
TVCTVC
RAVCRAVC
MRR


=

Trong đó: RAVC
2
: Lợi nhuận mô hình sản xuất tiên tiến.

RAVC
1
: Lợi nhuận mô hình sản xuất phổ biến.
TVC
2
: Tổng phí mô hình sản xuất tiên tiến.
TVC
1
: Tổng phí mô hình sản xuất phổ biến
Mục đích so sánh: Tính được lợi nhuận tăng thêm khi chi phí gia tăng của các mô hình
tiên tiến so với mô hình phổ biến.
5. Lựa chọn mô hình hiệu quả tài chính cao
Dùng các chỉ tiêu tài chính như hiệu quả đồng vốn, lợi nhuận, tỉ số lợi nhuận, MBCR,
MRCR trong đó 2 chỉ tiêu lợi nhuận so sánh và MBCR cao có tính quyết định là mô hình tiên
tiến hiệu quả hơn hay không so với mô hình phổ biến. Nếu hai chỉ tiêu nầy bằng nhau mới xét
đến các chỉ tiêu kế tiếp.
6. Đề xuất mô hình HTCT có hiệu quả cao và bền vững
Dùng các tiêu chí của Phân viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp để chọn lựa các mô
hình HTCT gồm có:
1. Gia tăng lợi nhuận nông hộ
2. Thỏa mãn mục tiêu Nhà nước
3. Thúc đẩy tiềm năng sản xuất vùng
4. Bảo vệ môi trường bền vững
Mỗi tiêu chí được đánh giá bằng thang điểm 1 đến 3 .
Điểm 1: *** Hiệu quả cao
Điểm 2: ** Hiệu quả trung bình
Điểm 3: * Hiệu quả thấp
Mô hình nào đạt được ít nhất 2 tiêu chí với hiệu quả cao thì được chọn. Từ các
mô hình được chọn sẽ thiết kế được ít nhất 2 mô hình có hiệu quả cao và bền vững để khuyến
cáo nhân rộng cho toàn vùng nghiên cứu.











23
CHƯƠNG II


KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU & PHÂN TÍCH KẾT QUẢ

A. MÔ TẢ ĐIỂM
I. MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM VÙNG NGHIÊN CỨU
Vùng nghiên cứu bao gồm 2 xã Lương Phi, Lê Trì và thị trấn Ba Chúc nằm quanh chân
núi Dài thuộc huyện miền núi Tri Tôn. Địa hình đất đai đa dạng bao gồm đồi núi có diện tích
trồng rừng lớn, đồng bằng trồng lúa và nhiều loại hoa màu rất phong phú về tiềm năng. Tuy
nhiên, tại các vùng trên cũng tồn tại những khó khăn nhất định: địa hình rất phức tạp, đất đai
phân tán, bậc thang, đất thường thiếu nước vào mùa khô. Mặc dù có nhiều khó khăn, song với sự
nỗ lực vượt khó cải thiện trong hệ thống canh tác của các nhà lãnh đạo các xã cùng với sự ủng
hộ nhiệt tình của nhân dân trong xã nhà nên đã đạt nhiều thành tựu nổi bật. Diện tích đất nông
nghiệp qua nhiều năm được cải tạo, nay đã trở thành đất thuộc canh tác lúa 2 vụ, diện tích gieo
trồng lên đến 66.281,6 ha (2003) trên tổng diện tích. Vùng nghiên cứu có tổng số dân là 29.565
người (2003), trình độ dân trí của người dân hiện tại tăng lên đáng kể, tỷ lệ con em đang học phổ
thông, THCN, cao đẳng, đại học ngày càng cao.
Vùng nghiên cứu có phần lớn người dân sống bằng nghề nông, nên tính kiên trì chịu khó,

cần cù sáng tạo của người dân trong xã thể hiện rất cao. Từ đó việc triển khai kế hoạch
Kinh tế -
Xã hội
luôn đạt hiệu quả cao nhưng tốc độ còn chậm, nhất là sự phát triển các ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi của tỉnh đề ra.
1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Lương Phi, Lê Trì và thị trấn Ba Chúc có tổng diện tích đất tự nhiên là 15.208 ha, trong
đó diện tích đất nông nghiệp là 10.693 ha, đất lâm nghiệp là 1.973 ha, đất chuyên dùng là 1.021
ha, đất ở là 408 ha, đất chưa sử dụng là 1.123 ha (Niên giám thống kê huyện Tri Tôn, 2003). Ba
xã Lương Phi, Ba Chúc, Lê Trì nằm ở dưới chân núi Dài nối liền nhau qua hương lộ Tri Tôn –
Lương Phi – Ba Chúc – Lê Trì (Hình 1)
Lương Phi là xã miền núi thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Hướng Đông giáp xã
Châu Lăng; hướng Tây giáp xã Vĩnh Phước, xã Lương An Trà, xã An Tức; hướng Bắc giáp thị
trấn Ba Chúc, xã Lê Trì. Tại xã Lương Phi, diện tích đất tự nhiên là 4.011 ha. Trong đó, diện tích
đất nông nghiệp là 2.414 ha, đất lâm nghiệp là 940 ha, đất chuyên dùng là 222 ha, đất thổ cư là
209 ha, đất hoang hóa (đất chưa sử dụng) là 226 ha. Nếu phân loại diện tích đất theo hệ thống
canh tác thì có 240 ha đất ruộng trên, 210 ha đất vườn tạp, 997 ha đất lâm nghiệp, 10 ha đất núi,
232 ha đất chuyên dùng và 175 ha đất ở (Niên giám thống kê huyện Tri Tôn, 2003).
Thị trấn Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn, cách trung tâm huyện 18 km. Với vị trí địa lí:
hướng Đông giáp xã Lê Trì, hướng Tây giáp xã Lương An Trà, hướng Nam giáp xã Lương Phi
và hướng Bắc giáp xã Lạc Quới. Tổng diện tích tự nhiên 2.056 ha, trong đó diện tích đất núi
chiếm 700 ha, diện tích đất nông nghiệp chiếm 721 ha. Thị trấn có ba dân tộc sinh sống chủ
yếu: Kinh, Khmer và Hoa. Tổng dân số của thị trấn là 3.605 hộ (15.499 khẩu), trong đó hộ dân
tộc Khmer 183 hộ (844 khẩu), dân tộc Hoa 60 hộ (308 khẩu). Dân số sống bằng nghề mua bán
như dịch vụ thương mại, tiểu thủ công
nghiệp chiếm tỷ lệ 30%, còn lại 70% chủ yếu sống bằng
nghề sản xuất nông nghiệp (Báo cáo ĐU-UBND Thị trấn Ba Chúc, 2004).


24









Hình 1: Bản đồ vị trí vùng và các điểm nghiên cứu








NÚI DÀI
NÚI CẤM

Điểm nghiên cứu
Vùng nghiên cứu




25
Lê Trì là xã vùng sâu huyện Tri Tôn với địa hình bán sơn địa, có cộng đồng người
Khmer khá cao chiếm 65% dân số toàn xã, dân cư phân bố không đồng đều tập trung chủ yếu ở
các phum sóc và cặp theo tuyến lộ Ba Chúc – Lê Trì – An Cư. Hiện tại xã có ba ấp: An Thạnh,

Trung An, Sóc Tức. Hướng Đông giáp xã An Cư – An Nông thuộc huyện Tịnh Biên. Hướng Tây
giáp thị trấn Ba Chúc. Hướng Nam giáp xã Lương Phi, Châu Lăng. Hướng Bắc giáp Lạc Quới.
2. Mặt cắt sinh thái vùng nghiên cứu
Căn cứ vào địa hình, thủy văn, điều kiện đất đai và hiện trạng canh tác mặt cắt sinh thái
của vùng nghiên cứu từ trên núi Dài đi xuống có thể chia thành 4 vùng có đặc điểm tương đối
khác nhau rõ rệt:
- Vùng trên núi: Với độ cao 571 m, nhiệt độ mát hơn nên thích hợp với cây trồng chịu
lạnh như su su, dó bầu, cây ăn trái. Độ sâu tầng đất canh tác rất biến thiên, có nơi rất mỏng nhỏ
hơn 0,3 m ở triền dốc đá, có nơi lại sâu hơn trên 3 m dọc theo triền suối hoặc thung lũng. Nói
chung, đất bạc màu vì bị xói mòn dữ dội trong vài ba chục năm qua nhưng từ 10 năm trở lại đây
nhờ trồng rừng nên đất được bảo vệ tương đối.

-
Vùng chân núi: Đất dốc trên 13
o
nên bị xói mòn mạnh, bị rửa trôi nên đất bạc màu.
Thêm vào đó, do cát từ trên núi bồi tụ, sa cấu chứa rất nhiều cát có nơi lên đến 60-70% nên đất
rất phù hợp với các loại củ như củ sắn, khoai mì, gừng. Vấn đề nước tưới rất nan giải, chủ yếu
nhờ nước trời ngoại trừ những nơi gần suối có thể bơm nước bằng ống dây hoặc mương máng
nổi. Nơi đây tập trung đông đảo nhà ở của đại bộ phận dân cư, có đường nhựa giao thông, hệ
thống ống cấp nước tiêu dùng và đường dây dẫn điện cho toàn vùng.

-
Vùng ruộng trên: Đất dốc dưới 8
o
thuộc loại cát pha thịt, ít bị rửa trôi hơn vùng trên,
nước tưới nhờ vào nước mưa nhưng đã có thể bơm bằng máy bơm dẫn từ các kênh mương thủy
lợi tuy nhiên không phải lúc nào cũng đủ nước tưới. Đặc điểm quan trọng của vùng nầy là nước
lũ hằng năm không ngập tới được. Hoa màu phổ biến là bắp, củ sắn, khoai mì, gừng. Cũng có
những xóm nhà của dân cư ở rải rác.

- Vùng ruộng bưng: Đất bằng, độ dốc nhẹ, mặt đất lồi lõm có nhiều bưng trũng. Sa cấu
thuộc loại thịt pha cát. Nơi đây đã có hệ thống thủy lợi để thâm canh tăng vụ, một số nơi đã có
đê bao hoàn chỉnh giúp tăng lên 3 vụ lúa. Ngược lại với vùng ruộng trên, vùng nầy hằng năm
chịu một thời gian ngập lũ kéo dài 4 đến 5 tháng từ tháng 8 đến tháng 11 dương lịch và cũng
chính vì lý do nầy mà đất được bồi tụ một lượng phù sa lớn làm tăng độ phì nhiêu. Cây trồng
chủ yếu ở đây ngoài lúa 2-3 vụ còn luân canh với cây họ đậu hoặc các loại rau cải, dưa các loại
đặc biệt là dưa hấu, hành lá (Hình 2)
3. Thực trạng sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp phát triển đáng kể trong những năm gần đây:
*Tại xã Lương Phi
Về trồng trọt: Diện tích sử dụng và canh tác đất nông nghiệp trên địa bàn xã tăng lên
hàng năm. Năm 2000 tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 4.690,4 ha, đến năm 2005 tăng
lên 4.958 ha. Tổng sản lượng lương thực của năm 2000 là 19.477 tấn, đến năm 2005 sản lượng
lương thực tăng lên 27.800 tấn. Theo
Báo Cáo Tổng Kết Tình Hình Kinh Tế - Chính Trị - Xã Hội

của xã nhiệm kỳ 2000 – 2005
cho biết, bình quân lương thực đầu người năm 2000 là 2.310
kg/người/năm, năm 2004 là 2.650 kg/người/năm.

×