Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tiểu luận Những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước của chủ tịch Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.28 KB, 13 trang )

Sinh viên: Giang Thụy Khánh Ngân
Lớp 23- Khóa 36
Môn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài:
HỒ CHÍ MINH VÀ
HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
TÓM TẮT SƠ LƯỢC VỀ TIỂU SỬ
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lãnh
đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Ông là người
viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch
nước trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969, kiêm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng từ 10/1956 đến 1960. Cuộc đời Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình
huyền thoại. Trong chuyến hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc
mình (từ năm 1911 cho đến năm 1941) , ông đã tới nhiều quốc gia khác nhau để trực
tiếp quan sát những chuyển biến tại các nước châu Phi, châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ và
Trung Đông - một việc mà không có lãnh tụ nào khác làm được trong thế kỷ 20.
LÒNG YÊU NƯỚC VÀ QUYẾT ĐỊNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Chủ tịch Hồ Chí Minh (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 – mất ngày 2 tháng 9 năm
1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung là con trai thứ của nhà nho Nguyễn Sinh
Sắc . Quê ông ở làng Sen xứ Nghệ . Ông sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình trí
thức truyền thống nhưng nghèo khó , cơ hàn. Thưở nhỏ, lòng yêu nước của Người đã
bắt đầu từ những lời ru của mẹ. Tình yêu ấy theo Người đến cả cuộc đời vì dân vì
nước. Khi súng Tây vẫn nổ, xóm làng mù mịt trong bom đạn, nước nhà đắm chìm
trong cảnh nô lệ, bi thương đầy nước mắt, Nguyễn Sinh Cung càng thấm sâu nỗi đau
xót mất nước. Ngôi nhà của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là nơi thường diễn ra cuộc
gặp mặt giữa những nhà yêu nước và thế là lại nung nấu trong trái tim chàng trai trẻ
những tình cảm, suy nghĩ về một ước mơ cháy lòng: giành lấy đất nước cho dân ta.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước của
nhân dân ta phát triển mạnh mẽ. Nổi lên những phong trào yêu nước của các


nhà nho, tầng lớp tiểu tư sản trí thức mà tiêu biểu là phong trào Đông Du của
Phan Bội Châu, phong trào Đông kinh nghĩa thục của Phan Chu Trinh, các
phong trào của Việt Nam nghĩa đoàn, Hội Hưng Nam, Đảng Thanh niên…
Các phong trào đã tạo nên những tiếng vang trong xã hội nhưng đã nhanh
chóng bị thực dân Pháp đàn áp hoặc bế tắc về đường lối. Lúc bấy giờ cha2ng
trai Ng~ Sinh Cung chỉ mới 15 tuổi. Anh đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh
thống khổ của đồng bào. Lúc này, Người đã có tư tưởng đánh đuổi thực dân Pháp,
giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh
khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội
Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của họ
Qua việc nghiên cứu những bài học lịch sử của các bậc cha ông và khảo nghiệm trong
thực tiễn, Nguyễn Tất Thành thấy rằng mọi cách thức tiến hành ở trong nước, hay đi
ra nước ngoài, sang Trung Quốc, hay Nhật Bản đều không thể thành công. Những con
đường mà các bậc sĩ phu đã đi đều bị kết thúc bằng những thất bại đau đớn. Phải tìm
con đường khác, con đường mới; phải đi ra nước ngoài nhưng theo một hướng khác.
Đó là kết luận rất quan trọng của người thanh niên trẻ .Anh với lòng yêu nước mãnh
liệt và một cách suy nghĩ táo bạo, một trí tuệ hết sức minh mẫn quyết khám phá bằng
được con đường đi đến giải phóng cho đồng bào.
Bắt đầu con đường cứu nước , Người lấy tên là Nguyễn Tất Thành . Tháng 5 năm
1909, Nguyễn Tất Thành từ giã Huế theo cha vào huyện Bình Khê thuộc tỉnh Bình
Định (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) nhân ông Nguyễn Sinh Sắc được cử
nhận chức tri huyện ở đó. Để tiếp tục việc học tập, từ tháng 9 năm 1909, Nguyễn Tất
Thành được cha gửi đến Quy Nhơn để học tại Trường tiểu học Pháp - bản xứ Quy
Nhơn theo chương trình lớp cao đẳng. Vào một ngày đầu thu (tháng 8-1910), Nguyễn
Tất Thành tạm biệt Quy Nhơn, đi vào Sài Gòn.
Lần theo ven biển đi đến Phan Rang, Người thấy một cảnh tượng đau lòng mà mấy
năm sau, Người còn nhắc lại với một người bạn: Những người Pháp ở Pháp phần
nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Ở đâu chúng
nó cũng thế. Ở ta, tôi cũng thấy chuyện như thế xảy ra ở Phan Rang. Bọn Pháp cười
sặc sụa trong khi đồng bào ta chết đuối vì chúng nó. Đối với bọn thực dân, tính mạng

của người thuộc địa da vàng hay da đen cũng không đáng một đồng xu.
Từ nửa sau tháng 9-1910 đến trước tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành dạy học ở
Trường Dục Thanh (Phan Thiết). Thời gian đầu, thầy Thành ở nhờ nhà cụ Hồ Tá
Bang, sau chuyển ra ở cùng với học sinh nội trú của trường tại nhà Ngư trong vườn cụ
Nguyễn Thông. Thầy Thành được phân công dạy chữ Hán và chữ quốc ngữ cho học
sinh lớp nhì. Thầy dạy rất tận tâm, hết lòng thương yêu, chăm sóc học sinh. Thầy đã
trao đổi tâm tư về thân phận người dân mất nước nhiệm vụ cứu nước của mỗi người
dân Việt Nam, trước hết là thanh niên có học thức với các thầy giáo và học sinh. Vấn
đề thầy Thành đặt ra cũng là nỗi băn khoăn chung của thầy và trò, nên đã có ngay
được sự đồng cảm sâu sắc, cùng nhau đào sâu chí căm thù và bồi dưỡng lòng tự hào
về truyền thống yêu nước của dân tộc, bày mưu tính kế đánh đuổi quân thù.
Sau mấy tháng dạy học ở Trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành rời trường đi vào
Sài Gòn, thực hiện hoài bão từng nung nấu là tìm cách đi sang Pháp và các nước
phương Tây để xem "họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào chúng ta".
Trước ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bàn với một số người bạn thân về
chuyến đi ra nước ngoài. Anh nói: tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước
khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.
Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm Anh
muốn đi với tôi không?
Khi người bạn hỏi lấy đâu ra tiền mà đi, anh Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay:
- Đây, tiền đây chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống
và để đi.
CUỘC HÀNH TRÌNH
Ngày 2 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành xin làm việc ở tàu Amiran Latusơ
Tơrêvin, một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn bị
rời Cảng Sài Gòn đi Mác Xây, Pháp.
Ngày 3 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu làm việc ở tàu Amiran Latusơ
Tơrêvin, nhận thẻ nhân viên của tàu với tên mới: Văn Ba.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang
Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn

học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Người thanh niên 21 tuổi
ấy ra đi với mục đích to lớn. Hơn mười năm sau chính anh đã trả lời nhà báo, nhà thơ
Nga ÔXip Mandenstan rằng: Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tôi được nghe những
từ TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là
người Pháp. Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy.
Một lần khác, trả lời nhà văn Mỹ Anna luy Xtirông, Người nói: Nhân dân Việt Nam,
trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường hỏi nhau ai là người giúp mình
thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có
người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ
làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi.
Trong khoảng thời gian làm việc trên tàu, có một lần ông Bùi Quang Chiêu kỹ sư
canh nông người Việt vào quốc tịch Pháp, đi vé tàu hạng nhất cùng với gia đình sang
Pháp du lịch, trông thấy anh Thành liền gọi anh lại bảo : « Tại sao con lại làm cái
nghề khó nhọc này ? Bỏ nghề này đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn
».Không, anh Thành đã chọn cách đi riêng của anh. Lao động đối với anh là phương
tiện để đi tìm chân lý. Sự nghiệp của anh bắt đầu bằng đôi bàn tay trắng. Nhưng đôi
tay sẽ làm nên tất cả, bất chấp gian nguy và khổ cực, bất chấp sóng dữ và những chân
trời xa lạ không có người quen. Người thanh niên có chí lớn và sự táo bạo ấy cũng là
người Việt Nam yêu nước đầu tiên tự dấn mình vào con đường « vô sản hóa ». Tuổi
trẻ, khi tình yêu Tổ quốc đã bùng lên, bao giờ cũng đẹp, đầy dũng khí và niềm tin.
Anh Thành lăn mình vào cuộc sống của quần chúng vô sản chính là đang tạo ra cho
lòng anh mảnh đất thuận lợi cho giác ngộ giai cấp nẩy mầm.
Ngày 8-6, tàu tới Xin-ga-po thuộc địa Anh. Ngày 14-6, tàu tới Cô-lôm-bô, lại
thuộc địa Anh. Ngày 30-6, tàu tới Po Xa-ít, vẫn thuộc địa Anh. Thời ấy mặt
trời không bao giờ lặng trên đế quốc Anh. . Ngày 6-7, tàu cập bến Đa-răng
trong cảng Mác-xây. Đây là đất Pháp đầu tiên mà anh trông thấy và đặt chân
lên, nơi đầu tiên trông đời anh thấy có những người Pháp gọi anh bằng «ông
». Một ngày ở lại Mác-xây, đi thăm phố xá, anh Ba nhận xét : Thì ra, người
Pháp ở bên Pháp không ác như thực dân Pháp ờ Việt Nam. Thì ra, bên Pháp

cũng có người nghèo như bên ta. Sau một thời gian ngắn ở đây, nhà yêu
nước trở lại tàu đô đốc Latouche-Tréville. Rồi con tàu rời tới Le Havre,
Dunkirk và trở lại Marseille 3 tháng sau đó. Nguyễn Tất Thành đã viết một lá
thư cho Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin được tham dự Trường Thuộc địa
(Colonial) với tư cách là một thực tập sinh. Trường này được thành lập vào
năm 1889 để đào tạo các quan chức chính phủ đảm nhiệm các vị trí ở Đông
Dương khi đó. Nguyễn Tất Thành nuôi hi vọng đây có thể là con đường
hướng tới tự do ở đất nước mình.
Trong khi chờ câu trả lời, Nguyễn Tất Thành trở lại Sài Gòn, với hi vọng được
gặp cha. Nhưng mọi nỗ lực tìm kiếm cha đều thất bại. Các anh chị em đã
tham gia phong trào phản kháng vũ trang và chị gái đã bị binh lính thực dân
bắt hai lần. Cha của Nguyễn Tất Thành cũng bị bắt giam năm 1912 và khi
được thả ông bị người Pháp vẫn tiếp tục theo dõi.
Trở lại tàu, Nguyễn Tất Thành tới Marseille lần thứ ba và nhận được tin
trường Colonial đã từ chối mình.
Ngày 15-7, tàu anh Ba tới Lơ Ha-vrơ, một cảng ờ miền Bắc nước Pháp, để
sửa chữa, đưa tất cả thủy thủ, nhân viên sang làm ở một tàu khác của hãng
để trở lại Đông Dương. Anh Ba không theo, bèn lên bộ đi làm thuê. Cách bến
Lơ Ha-vrơ khoảng hai ki-lô-mét ngay bên cạnh biển, có một thị trấn xinh đẹp
xây trên một ngọn đồi nhìn thẳng xuống cảng La Ha-vrơ. Đấy là thị trấn Xanh-
tơ An-đrét-xơ. Dọc những con đường yên tĩnh đầy bóng râm uốn khúc lưng
đồi là những biệt thự nhiều cây và vườn hoa. Anh Ba được thuê làm vườn
cho viên chủ tàu. Lúc ấy, cách chỗ anh ở vừa đúng 200 ki-lô-mét, cũng có
một người Nga yêu nước đến ở Pháp. Đấy là Lê-nin, lãnh tụ của phong trào
cách mạng Nga, ngụ tại nhà số 4, phố Ma-ri Rô-dơ, quận 14, Pa-ri.
Anh bỏ nghề làm vuờn ở Xanh-tơ An-drét-xơ, trở lại làm nghề thủy thủ trên
một tàu chở hàng của hãng Năm Sao chạy vòng quanh châu Phi. Người ta
cho anh biết : khí hậu châu Phi rất khắc nghiệt, tàu chở hàng chạy không êm
như tàu chờ khách, đi rất mệt, hành trình lại dài mà anh Ba một thân một
mình, không có bầu bạn. Anh Ba hăng hài ra đi và anh nói : « Tôi là thanh

niên, tôi khỏe, tôi chịu được. Tôi chỉ muốn đi xem các nước ».
Với sự giúp đỡ của người chủ tàu, Nguyễn Tất Thành nhận được việc làm tại
Messageries Maritimes (công ty hàng hải cũ của Pháp), đi khắp các thuộc địa
ở châu Phi. Trong một lần dừng ở Dakar, Nguyễn Tất Thành thấy một nhóm
người châu Phi bị người Pháp yêu cầu lặn xuống cảng trong mưa bão để cứu
các thuyền nhỏ. Nhiều người đã bị chết đuối. Nguyễn Tất Thành sau đó viết:
“Người Pháp ở Pháp đều tốt. Nhưng người Pháp ở thuộc địa lại bạo tàn và
vô nhân đạo. Ở đâu cũng vậy. Tôi đã chứng kiến sự đối xử tương tự ở Phan
Rang. Người Pháp đã cười phá lên đầy vui vẻ trong khi những người yêu
nước của chúng ta đang bị chết đuối. Đối với thực dân, mạng sống của một
người châu Á, châu Phi không là gì”.
Nguyễn Tất Thành đã lênh đênh trên biển trong một thời gian dài, nhờ vậy
mà tới được nhiều nơi như Rio de Janeiro, Buenos Aires, New York cùng
Boston. Trong khi ở Boston, Nguyễn Tất Thành đã viết thư cho cụ Phan Chu
Trinh và thông báo đang làm phụ bếp tại Khách sạn Parker House. Đi và
quan sát, sống với những người cùng khổ ở các chân trời khác nhau, từ Địa
Trung Hải, qua kênh Xu-ê, biển Đỏ đến Ấn Độ Dương rồi Đại Tây Dương,
anh Ba thấy rõ ở đâu nhân dân thuộc địa cũng khổ và anh càng thấy tính cấp
bách của sự phá xiềng.
Giữa tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, cùng với việc lao
động kiếm sống, Người dành phần lớn thời gian cho học tập, nghiên cứu
cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. nước Mỹ, nơi sinh ra bản Tuyên ngôn độc
lập năm 1776 với những lời bất hủ : « Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được ;
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc ».
Nhưng anh nhanh chóng nhìn thấy phía sau tượng thần Tự Do ở lối vào cảng
Niu-oóc là tôi ác man rợ của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Anh đi làm thuê ở Brúc-
clin và anh thường xuyên đến thăm khu người da đen ở Hác-lem. Anh vô
cùng xúc động trước điều kiện sống của người da đen và anh phẫn nộ đến

cùng cực trước hành động hung ác của bọn phân biệt chủng tộc Mỹ. Chủ
nghĩa tư bản đã làm sống lại chế độ nô lệ ngay trên nước Mỹ, và người da
đen mà anh được tận mắt thấy phải chịu những nổi thống khổ ghê gớm về
tinh thần và vật chất. Anh quan tâm đến số phận của màu da có nhiều đau
khổ ấy. Hình ảnh bọn đế quốc tra tấn, hành hạ người da đen làm anh không
bao giờ nguôi căm giận : một đám đông người da trắng lôi ra một người da
den, xô đẩy, đấm đá, giày xéo, đánh đập, chửa rủa, trói người da den vào gốc
cây, tưới dầu xăng vào người, bẻ dần từng chiếc răng và móc mắt người đó,
gí miếng sắt nung đỏ vào lưỡi rồi châm lửa đốt. Người da đen bị nướng chín,
thui vàng, cháy thành than trong tiếng vỗ tay reo hò của bọn giết người.
Những người da trắng nào dám bên vực người da đen cũng bị đối xử tàn
nhẫn như thế. Anh Ba phải thốt lên : « Văn minh là như vậy đó sao ! ». Anh
thông cảm vô cùng với những người da đen, giống người bị áp bức và bóc lột
nặng nề nhất. Anh đi đến kết luận : tất cả bọn đế quốc đều phản đông và tàn
ác. Anh đi với một tư duy sâu sắc và cuộc khảo sát phong phú ấy vào buổi
đầu thế kỷ là vốn quý của anh và cũng là của cách mạng Việt Nam. Anh đã
nhìn thấy biết bao nhiêu đất nước và cuộc sống khác nhau, biết bao nhiêu
màu da và nỗi khổ khác nhau. Vào tuồi 25, anh đã là người đi nhiều nhất
trong những người Việt Nam ở bất cứ thời nào. Anh đi cho Dân tộc và Dân
tộc qua anh nhích gần đến thế giới và loài người. Những chặng đường anh đi
vào thời điểm ấy là lịch sử cả một thế giới đang chuyển động mạnh.
Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), người từ Mỹ trở về Anh,
Nguyễn Tất Thành rời Boston và đến London. Công việc đầu tiên của Nguyễn Tất
Thành tại đây là quét dọn tuyết tại một trường học, nhưng do không thể chống chọi
được với cái giá lạnh đóng băng trong suốt nhiều giờ, Thành đã tìm một công việc
khác, đó là làm than. Nhưng công việc này thậm chí còn cực nhọc hơn công việc
trước, phải ở trong tầng hầm tối, nóng kinh hoàng từ sáng sớm cho tới đêm khuya.
Câu chuyện được kể lại theo tư liệu sưu tầm của nhà báo Hồng Hà trong quyển sách
“Thời thanh niên của Bác Hồ” và theo lời kể của ông Nam, ông từng là thành viên
trong Ban chấp hành Công đoàn cứu quốc hải ngoại và từng là bạn thân của Bác suốt

những ngày họ cùng làm việc tại tiệm ăn Các-tơ-tông nổi tiếng của Luân Đôn bấy giờ.
Sau hàng tháng trời lênh đênh trên biển khơi, anh Ba đến Mác-xây rồi tới Lơ Havrơ.
Sau đó, anh lại theo con tàu của hãng Năm Sao tiếp tục hành trình đến Đông Dương,
vòng quanh châu Phi rồi lại sang Mỹ. Vào cuối năm 1913, Bác Hồ lúc này lấy tên
Nguyễn Tất Thành đã rời Mỹ sang Anh.
“Anh lên bộ đi kiếm việc làm ở Luân Đôn. Nhưng dường như thành phố nhiều sương
mù ấy không ưu đãi anh. Để sống giữa những ngày đông buốt rét nhất, anh phải đi cào
tuyết cho một trường học. Hai ngày sau, anh phải chuyển sang một nghề khác: đổ
than, đốt lò cho một chủ người Anh”.
Bác từng tâm sự với ông Nam :
“Công việc cào tuyết là một công việc rất mệt nhọc. Mình mẩy tôi đẫm mồ hôi mà tay
chân thì lạnh cóng và cuốc được đống tuyết cũng rất khó khăn vì tuyết trơn. Sau tám
giờ làm công việc này, tôi mệt lử và đói bụng…”
“…Sau đó tôi tìm được một việc khác. Lần này thì phải đốt lò. Cả ngày không nhìn
thấy mặt trời và lửa lò nóng hầm hập. Từ năm giờ sáng, tôi chui xuống hầm để nhóm
lửa. Ở đây thật đáng sợ! Luôn luôn ở trong cảnh tranh tối tranh sáng. Tôi không biết
người ta làm cái gì ở tầng trên vì không bao giờ tôi lên đấy…”
Ngày làm việc mệt nhọc, khó khăn, đêm Bác về phòng. Giữa hoàn cảnh khí hậu khắc
nghiệt lạnh buốt da thịt, rét cóng cả người, không như ở quê nhà nhưng Bác chẳng hề
từ bỏ ước mơ của mình. Mỗi sáng trước khi đi làm, Bác đặt một viên gạch trong lò
sưởi của chủ nhà rồi tối trở về, Bác lấy ra để dưới giường nằm. Viên gạch hồng đã
sưởi ấm cho Người trong những ngày đông giá rét tại Luân Đôn. Dù tiền công rẻ mạt,
Bác vẫn cố gắng làm việc dành dụm để có tiền học thêm tiếng Anh với một giáo sư
người Ý. Dẫu hoàn cảnh gian khổ vẫn không làm chùn bước người trai có chí lớn.
trong tác phẩm “Người đi tìm hình của nước”, Chế Lan Viên cũng đã nhắc lại điều
này :
“…Có nhớ chǎng, hỡi gió rét thành Ba Lê?
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa bǎng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?”

Rồi không lâu sau Nguyễn Tất Thành được thuê làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại
Haymarket. Kỹ năng và phong cách của Nguyễn Tất Thành đã gây ấn tượng được với
đầu bếp nổi tiếng Escoffier và Thành được chuyển từ rửa bát sang làm bánh. Tranh
thủ thời gian rảnh rỗi, Nguyễn Tất Thành học tiếng Anh và tham gia vào Hiệp hội
công nhân nước ngoài, hiệp hội có mục đích cải thiện điều kiện làm việc ở các nhà
máy của Anh.
Năm 1917 Nguyễn Tất Thành nghỉ việc ở khách sạn Carlton và qua eo biển
Anh tới Pháp. Lúc bấy giờ, Cách mạng tháng mười Nga thành công. Đó là sự
kiện có ảnh hưởng quyết định đến tư tưởng cứu nước và hoạt động yêu
nước của NTT. Người hòa mình trong phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi
của nước Pháp và tham gia Đảng Xã hội Pháp, sống và hoạt động ở Pháp cho
đến năm 1923. Sau những năm bôn ba, làm đủ nghề để kiếm sống, hòa mình
trong phong trào quần chúng, người lao động ở các nước đế quốc tư bản,
Người đã nhận rõ ở đây cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo,
người áp bức và người bị áp bức.
Các hoạt động chính trị của Nguyễn Tất Thành trong những năm tháng ở
London vẫn còn chưa được biết đến. Phải khi trở lại Pháp, Nguyễn Tất Thành
bắt đầu tham dự các cuộc họp của Đảng Xã hội Pháp. Nguyễn Tất Thành
định thành lập cơ quan liên lạc với các nhóm công nhân giữa Anh Quốc và
Pháp. Các hoạt động công đoàn của Nguyễn Tất Thành nhanh chóng đưa
ông liên hệ với các chính trị gia cánh tả và các nhà văn. Tại cuộc họp hàng
tuần của họ, Nguyễn Tất Thành thỉnh thoảng được mời phát biểu để nói về
điều kiện ở Đông Dương. Khi đứng lên giữa cuộc họp, Nguyễn Tất Thành
không phải là một con người bình thường, ông được chú ý bởi “đôi mắt đen
bừng sáng mỗi khi ông nói và dường như xuyên thấu tâm hồn của người
quan sát”.

Giới chức Pháp ở Đông Dương ngày càng để ý tới hoạt động của Thành. Vào
tháng 6/1917, toàn quyền Đông Dương đã thành lập một cơ quan tình báo để
theo dõi tất cả các cá nhân được xem là mối nguy hiểm an ninh cho thuộc địa

châu Á này cũng như trong lòng nước Pháp. Họ đã tuyển những người Việt
Nam biết nói tiếng Pháp làm điệp viên để theo dõi các hoạt động hàng ngày
của Thành.
Mùa đông năm 1918, ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là một mùa đông vô
cùng khắc nghiệt, thiếu nhiên liệu, chất đốt nghiêm trọng trên toàn nước Pháp. Vào
ban đêm người ta phải mang rèm cửa ra để ủ ấm thêm. Nạn thất nghiệp lan tràn khắp
nơi. Thành lúc đó đang sống với cụ Phan Chu Trinh và đã giúp đỡ cụ trong studio
phục chế ảnh.
Vào đầu năm 1919 Nguyễn Tất Thành biết được tin về Hội nghị Hòa bình Quốc tế
được tổ chức ở Versailles. Ông đã chuẩn bị một đơn kiến nghị gửi đến Ngoại trưởng
Mỹ với hi vọng có sự can thiệp để giải phóng Việt Nam khỏi chế độ thuộc địa. Ngày
19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất
Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam
gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng
thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng
thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị. Bản yêu sách này do một nhóm các
nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường
và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc. Từ đây,
Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên này trong
suốt 30 năm sau đó. Giữa năm 1919, người Pháp đã “liệt” Nguyễn Ái Quốc là “người
nổi loạn nguy hiểm nhất”, đe dọa đến an ninh Pháp ở Đông Dương.
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa của Lenin. Được sự giúp đỡ của nhiều đồng chí cách mạng Pháp, trong đó
có Mácxen Casanh, Pôn Vayăng, Cutuyariê, Mông-mút-xô… Người càng thấy
rõ hơn Quốc tế thứ ba và bản luận cương của Lênin thật sự đáp ứng nguyện
vọng tha thiết của Người là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng báo. Từ bản
luận cương của Lênin, Người đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ
bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng
Việt Nam. Sau này, Người đã nhắc lại cảm tưởng của mình khi được đọc
luận cương của Lênin: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phẩn

khởi, sáng tỏ, biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng
bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta””. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc Tế thứ
ba.
Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng
12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở
thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã
hội.
Như vậy năm 1920 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc, Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc ta, đó là: kết
hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp tinh thần yêu nước với tinh thần
Quốc tế vô sản. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác- Lênin.
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tập
trung mọi nỗ lực vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin trong phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho sự ra đời của một Đảng cách mạng tiền phong của giai cấp công nhân Việt
Nam.
Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên
hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les
colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc.
Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người
cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột
của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án
chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do
Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn
bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ nhất
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học
Phương Đông. Tại đây ông đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp

từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), ông được bầu vào Ban chấp hành và
Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ
ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), ông được cử làm ủy viên Ban
Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Năm 1924, tại thành phố Moskva, ông viết và nộp cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế
một bản Báo cáo về tình hình Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Nhận thấy phong
trào đấu tranh giai cấp tại Việt Nam có sự khác biệt với phong trào đấu tranh
giai cấp bên Tây phương đương thời, ông có nhận xét về các tầng lớp địa chủ,
tăng lữ, của Việt Nam như sau:“
Những địa chủ ở đây chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với
họ ở châu Âu và châu Mỹ (…). Không có vốn liếng gì lớn…, đời sống của địa chủ
cũng chẳng có gì là xa hoa”, “An Nam chưa bao giờ có tăng lữ…”.
Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927)
Qua gần 4 năm tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
không ngừng rèn luyện và nâng cao trình độ lý luận, khả năng tuyên truyền, tổ chức,
với cương vị là ủy viên Ban Đông Phương phụ trách cục Phương Nam của Quốc Tế
Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Quảng Châu (Trung Quốc) với mục đích tạo ra
một địa bàn hoạt động mới để gây dựng phong trào cách mạng trong các tầng lớp
nhân dân ở Đông Nam Á theo đường lối của Quốc Tế Cộng Sản.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy,
làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ
Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
Tháng 6 năm 1925, ông thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được
phiên âm là Mác–Lê-nin) vào Việt Nam. Cuốn Đường Kách mệnh, mà ông là tác giả,
tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách
mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.[21]
Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và
ông làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung

Quốc và Việt Nam, ông rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô. Tháng 11
năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn
chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
Những năm 1928, 1929
Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Xiêm La, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền
và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm.
Cuối năm 1929, ông rời khỏi Vương quốc Xiêm La và sang Trung Quốc.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (九九, Kowloon) thuộc Hương Cảng, ông
thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên
là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là
"Đảng Cộng sản Việt Nam").
Từ khi có đảng lãnh đạo, phong trào cách mạng tại Việt Nam chuyển dần từ tự phát
sang tự giác và giành được nhiều thắng lợi to lớn nâng dần chất và lượng.
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại
Trung Hoa.
Những năm 1931 - 1933
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), Nguyễn Ái Quốc bị nhà
cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông
Dương. Tờ L'Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã
chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá nhà tù tại Hồng Kông đồng thời tố cáo đây là âm
mưu của thực dân Pháp câu kết với thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương[24]. Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình
của luật sư Frank Loseby[25], Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932.
Ông đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
Thời kỳ ở Liên Xô lần thứ hai
Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở
Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Ông dự Đại hội lần thứ 7 Đệ Tam Quốc tế (từ
ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban thư
ký Dalburo với tên Linov[26]. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị buộc ở

Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do ông được
nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do[27]. Trong những năm 1931-1935, ông đã bị
Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư
sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đệ Tam
Quốc tế[28][29].
Trong, một bức thư kể cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế hay về phong trào cách mạng vô
sản tại Đông Dương được viết vào tháng 3 năm 1935, Nguyễn Ái Quốc bị phê phán
nặng nề. Bức thư này có ghi nhận về “tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn
với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của đảng của các đồng chí Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc”. Trong thư này cũng có
đoạn: “Những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự
phát triển chủ nghĩa cộng sản. Cuộc tranh đấu không nhân nhượng chống những học
thuyết cơ hội này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Thanh niên là rất cần
thiết (…). Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một cuốn sách để tự phê bình những
khuyết điểm đã qua”. [20]
Theo Giáo sư-Tiến sĩ sử học Mạch Quang Thắng, lý do Nguyễn Ái Quốc bị phê phán
trong bức thư nêu trên là vì tổ chức Đệ Tam Quốc tế có những tư tưởng thiên về
hướng tả, không đúng đắn, cùng lắm thì cũng thiếu thực dụng đối với hoàn cảnh của
các xứ nằm dưới chế độ thực dân thời bấy giờ. Nói cách khác, Đệ Tam Quốc tế cho
rằng, trong đấu tranh giai cấp thì tất cả các lực lượng không thuộc về giai cấp vô sản
đều phải bị chống đối. Theo nhìn nhận của Giáo sư Nguyễn Quang Thắng thì quan
điểm thiên về hướng tả của Đệ Tam Quốc tế như sau“
Chống đế quốc, chống phong kiến, chống tư sản, chống tôn giáo, chống lực lượng xã
hội dân chủ. Chống tất cả, chỉ độc có công nông là cách mạng mà thôi (…). Quốc tế
Cộng sản hừng hực khí thế xông lên, tưởng là cách mạng nhưng kỳ thực không phải
vậy. ”
—Nguyễn Quang Thắng[20]
Trong khi nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc thì đề cao chủ nghĩa dân tộc, ông cho
rằng: [20]“Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc
nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho

những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ
nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp
và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách
mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917. ”
—Nguyễn Ái Quốc
Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang,
Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý
Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc
và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938.
VỀ NƯỚC
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trước yêu cầu mới của tình hình và được
Quốc tế Cộng sản chấp nhận, ngày 28 tháng 1 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường
về nước. Khi bước tới cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung (thuộc xã Trường Hà,
huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), Người đứng lặng hồi lâu, xúc động.
Ngày 8 tháng 2 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc ở hang Cốc Bó (hang Cốc Bó thuộc địa
phận làng Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, với bí danh Già
Thu). Từ đây, Người trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần
thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương. Trên cơ sở đánh giá tình
hình giai cấp và xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh thế giới, với quan điểm
lý luận gắn với thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh nêu cao vấn đề giải phóng dân
tộc, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: "Trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn
đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng". Tiếp thu tư
tưởng chỉ đạo của Người, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương ghi rõ: "Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân
tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được". Đồng thời, Hồ Chí Minh sáng lập ra

Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn
kết mọi lực lượng yêu nước, chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, không phân biệt
dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo Nhằm phát huy sức mạnh của ba dân tộc Việt,
Miên, Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, theo sự chỉ đạo của Hồ
Chí Minh, Hội nghị chủ trương: ở Lào và ở Campuchia thành lập mặt trận thống nhất
riêng của hai dân tộc: Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh. Sau
khi cách mạng thắng lợi, mỗi quốc gia sẽ thành lập một chính phủ riêng và độc lập.
Đối với nước ta, Hội nghị chủ trương thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
lấy cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cánh ở giữa làm quốc kỳ. Để đoàn kết toàn dân một
cách rộng rãi, thực hiện chủ trương cứu nước do Hội nghị Trung ương lần thứ tám nêu
ra, trong bản Chương trình hành động, Việt Minh đã đề ra những chính sách cụ thể
nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước.
Từ khi bị giam ở Trung Quốc cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh
nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội
đoàn được ông tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc.
Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân ông sử dụng tên Hồ Chí Minh. Ông khai
nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều".
Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi
đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua
khoảng 30 nhà tù. Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942
đến tháng 9 năm 1943). "Nhật kỳ trong tù" là một tác phẩm được những tác giả người
Việt Nam, người phương Tây và cả người Trung Quốc, như Quách Mạt Nhược, Viên
Ưng hay Hoàng Tranh đề cao.[34] Các đồng chí của ông (Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Vũ Anh ) ở Việt Nam tưởng lầm là ông đã chết (sau này nguyên nhân
được làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp nghe và hiểu sai ngữ nghĩa)[35]. Họ
thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông (Phạm Văn Đồng làm văn
điếu) cũng như "mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại
làm kỉ niệm" (lời của Võ Nguyên Giáp). Vài tháng sau họ mới biết được tình hình

thực của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.
Sau khi được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp
hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Từ trước đó, Việt Minh cũng
đã ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Ông cũng cố gắng tranh
thủ Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Quốc
Dân Đảng, nhưng kết quả là hạn chế.
Cuối tháng 9 năm 1944, ông trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của ông ở Liên
tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng đã quyết định tiến
hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Ông ngăn chặn thành
công quyết định này[36]. Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và
căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Ông trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội
quân mang tính chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các
đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh. Cuối năm 1944, ông lại trở lại Côn
Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, ông ốm nặng, tưởng
không qua khỏi [37].
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân
Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ
Chí Minh làm chủ tịch.
Cùng với Kính cáo đồng bào của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), ngày 6 tháng 6
năm 1941, những chính sách cụ thể, hợp lòng dân của Việt Minh đã quy tụ toàn dân
dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa Cách mạng tháng Tám 1945
đến thắng lợi.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đọc bản Tuyên ngôn Độc
lập tại Quảng Trường Ba Đình (Hà Nội), tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Nhưng nhân dân Việt Nam giành được độc lập chưa bao lâu thì thù trong giặc ngoài
câu kết với nhau đẩy nước lâm vào cảnh "nghìn cân treo sợi tóc". Dưới sự lãnh đạo
của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp lần thứ hai.
Đường lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng đã dẫn dắt nhân dân
ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, lập lại hòa bình ở Đông
Dương.
Hòa bình được lập lại, nhưng đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Hồ Chí
Minh cùng Trung ương Đảng đã sớm xác định rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới là đế quốc Mỹ, và vạch ra đường lối cùng một lúc thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân tộc,
dân chủ; miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa, nửa phong kiến, được một Đảng
Cộng sản lãnh đạo đã cùng một lúc tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược và quá độ lên
chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện ấy, tư tưởng Hồ
Chí Minh ngày càng phát triển và thấm sâu vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Ngày 2 tháng 9 với lòng thương tiếc vô hạn của toàn dân, chủ tịch HCM qua đời.
Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân ta bản Di chúc thiêng liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên niềm tin tất thắng ở
sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi
của cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra những phương sách lớn để xây dựng lại đất
nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: "Xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới". Bản Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy tâm
huyết, thắm đượm tình người của Chủ tịch Hồ Chí Minh; một di sản vô cùng quý báu
của dân tộc và nhân loại.
Thực hiện lời dạy của Người, cùng với xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhân
dân ta đã đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược cùng chính quyền tay sai giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trong cả nước vào ngày 30/4/1975. Tiếp tục vững bước xây dựng chủ
nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chủ tịch HCM là một vị anh hùng kiệt xuất, biểu tượng cho sự quyết tâm và ý chí
giành lại độc lập tự do của cả một dân tộc, Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự

nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, đóng góp to lớn vào cuộc đấu
tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới. Người đã cùng toàn thể nhân dân Việt Nam làm nên một thời đại huy
hoàng nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc- thời đại Hồ Chí
Minh. Và muôn đời về sau con cháu Việt Nam sẽ luôn ghi nhớ công ơn Người:
“Vì sao? Trái Đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người: Hồ Chí Minh
Như một niềm tin, như dũng khí
Như lòng nhân nghĩa, đức hi sinh.”
Theo chân Bác - Tố Hữu
Bài làm có tham khảo những tư liệu sau
“Nguyễn Ái Quốc những năm đầu tìm đường cứu nước” tác giả Laura Lam báo
Dtinews (trang tiếng Anh của báo Dân trí điện tử)
Thời thanh niên của Bác Hồ, tác giả Hồng Hà, nhà xuất bản thanh niên
Hồ Chí Minh- Tiểu sử
Nhà xuất bản chính trị quốc gia hà nội Chủ biên- TS Chu Đức Tính

×