MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XX, nền văn học dân tộc đã có những chuyển biến nhất
định. Văn học chuyển dịch theo hướng hiện đại hóa. Đó là sự xuất hiện của các
trào lưu văn học, các quan niệm thẩm mỹ, các hình tượng nghệ thuật, cũng như
các chủ đề, đề tài mới. Và đặc biệt phải kể tới sự thay đổi của hệ thống thể loại
văn học trong giai đoạn giao thời này. Sự phát triển của một nền văn học có thể
được nhìn nhận qua quá trình phát triển của các thể loại nên quá trình hiện đại
hóa nền văn học cũng được xem xét thông qua sự thay đổi cơ cấu thể loại và
những cách tân tìm tòi mới trong từng thể loại đó. Trong quá trình hiện đại hóa,
nền văn học Việt Nam đã xảy ra hiện tượng phá vỡ cơ cấu thể loại cũ. Những
thể loại vùng ngoại biên dần đi vào trung tâm, đồng thời xuất hiện những thể
loại mới du nhập từ nền văn học phương Tây. Sự cách tân nền văn học được thể
hiện rõ nhất qua sự phát triển và chiếm ưu thế của những thể loại văn xuôi cùng
với những đổi mới mạnh mẽ trong chính các thể loại đó.
Thể loại du ký hay còn gọi là thể tài du ký đã xuất hiện trong lịch sử văn
học Việt Nam từ rất sớm. Ngay trong nền văn học trung đại, người ta đã thấy
xuất hiện các bài thơ, bài phú, với nội dung ghi chép lại những sự kiện, cũng
như những danh lam thắng cảnh trong các cuộc du hành của những người lữ
khách. Đặc biệt cuối thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện của một loạt các tác phẩm
như: Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Tây hành nhật ký của Phạm Phú Thứ,
Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Dậu của Trương Vĩnh Ký…thể tài du ký mới dần phát
triển. Nhưng phải tới mấy thập niên đầu của thế kỷ XX, thể tài du ký mới thực
sự thành một dòng chảy liên tục, mà công đầu là của ông chủ bút báo Nam
Phong.
Đầu thế kỷ XX, giao thông phát triển, việc giao lưu văn hóa được mở
rộng… đã tạo điều kiện cho việc đi lại cho các nhà du ký. Từ đây, hàng loạt các
1
tác phẩm du ký đã được ra đời. Trong mỗi tác phẩm du ký, đằng sau những bức
tranh danh lam thắng cảnh, luôn chứa đựng những nỗi niềm ưu ái, những xúc
cảm chân thành nhất của người viết về quê hương đất nước, về cuộc sống. Bởi
mong muốn đem những cái hay, cái đẹp trong từng dặm đường của đất nước sẻ
chia với người đọc; cũng như muốn lưu giữ lại những phong tục tập quán,
những truyền thống văn hóa… cho các thế hệ sau, Phạm Quỳnh đã tạo một mục
du ký trên Nam Phong tạp chí. Mục du ký đã liên tục được đăng tải với sự đóng
góp của nhiều cây bút nổi tiếng như: Nguyễn Bá Trác, Đông Hồ, Mộng Tuyết,
Tùng Vân, Trần Trọng Kim… Trải qua 17 năm (1917 - 1934), đã có 62 tác
phẩm du ký được in trên Nam Phong tạp chí với những nội dung phong phú,
cũng như những đóng góp nghệ thuật mới mẻ.
Với hi vọng đem lại cái nhìn khái quát về thể tài du ký trên Nam Phong tạp
chí, cũng như những đóng góp của thể tài này trong quá trình hiện đại hóa nền
văn học dân tộc, trong khóa luận nghiên cứu này chúng tôi xin chọn đề tài:
Khảo sát thể du ký trên Nam Phong tạp chí (1917 – 1934).
2. Lịch sử vấn đề
Thể tài du ký đã ra đời rất sớm trong nền văn học trung đại, nhưng với số
lượng không nhiều, và xét về mặt thể loại, thể tài trước đó du ký không được
chú ý nhiều, nên việc nghiên cứu nhìn chung còn rất sơ lược. Một số công trình
nghiên cứu có nhắc tới thể tài du ký, nhưng phần lớn chỉ là điểm tên, hoặc nếu
không thì nói tới du ký trong khi bàn về thể ký nói chung.
Trong năm 1950, trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng
Hàm có nói tới du ký với tính chất sơ lược.
Năm 1989, trong tác phẩm Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nói sơ lược
về thể tài du ký khi nói tới nhóm nhà văn trong Nam Phong tạp chí, và ông cũng
có nhắc tới một số tác phẩm du ký như: chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi của
Trương Vĩnh Ký.
2
Năm 1965, trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế
Ngũ có bàn tới thể tài du ký nhưng là du ký riêng trong sáng tác của Phạm
Quỳnh. Ông đã đưa ra những nhận xét: “Du ký Phạm Quỳnh thiên về biên khảo,
văn nghị luận nhiều hơn văn cảm giác. Như bài Trẩy chùa Hương mở đầu bằng
một khúc đại luận về tôn giáo, rồi dọc đường chi thấy những lời bình phẩm, suy
xét về phong tục, tín ngưỡng của người mình(...)Phạm Quỳnh đã biết thuật
chuyện có duyên, biết điểm vào những đoạn tả cảnh xinh tươi, nhất là khéo biết
sử dụng một lời văn thanh thoát trang nhã. Nhưng từ 1925 trở đi, ngòi bút hướng
vào giản dị và chuẩn xác hơn”
Năm 1967, Tạp chí văn học số 02, có bài Về thể ký của tác giả Tầm Dương.
Trong bài viết này tác giả đã phân loại thể ký, và du ký được cho là một phần
của ký sự: “Du ký là “ký” lại các sự (những điều mắt thấy tai nghe) trong lúc
“du””.
Cùng năm ấy, Tạp chí văn học số 06, tác giả Nam Mộc trong bài viết Thể
ký và vấn đề viết về người thật việc thật có viết: “Có thứ bút ký phản ánh người,
việc và cảm nghĩ diễn biến trong không gian theo bước đi của nhà văn đó là du
ký ”.
Năm 1968, khi thực hiện công trình Mục lục phân tích Nam Phong tạp chí,
1917 - 1934, nhà thư mục Nguyễn Khắc Xuyên xác định du ký là một trong 14
bộ môn và nêu nhận xét về thể tài du ký, còn được ông gọi là du hành trên Nam
Phong tạp chí: “Nhiều khi chúng ta tự cảm thấy, sống trong đất nước với giang
sơn gấm vóc mà không được biết tới những cảnh gấm vóc giang sơn. Thì đây,
theo tờ Nam Phong chúng ta có thể một phần nào làm lại cuộc hành trình qua tất
cả các phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp đẽ nhất của đất nước chúng ta từ Bắc chí
Nam”.
Trong cuốn Quá trình hiện đại hóa văn học, do nhà nghiên cứu Mã Giang
Lân chủ biên, cũng có nói tới thể tài du ký: “Thể loại văn học đầu tiên viết bằng
chữ quốc ngữ phải kể đến du ký. Đây là một hình thức bút ký văn học được ghi
lại bằng văn xuôi, thuật lại những chuyến đi của tác giả đến những vùng đất
3
khác nhau…Nguồn gốc của du ký cần tìm trong những hình thức tùy bút, ký sự
truyền thống”.
Trong các công trình trên, du ký đã được nhắc tới sơ lược, nhưng chưa có
định nghĩa cụ thể nào về thể tài này. Cho tới cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, do
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, du ký mới được định
nghĩa một cách khá hoàn chỉnh: “Du ký - một thể loại văn học thuộc loại hình
ký mà cơ sở là sự ghi chép của bản thân mình đi du lịch, ngoạn cảnh về những
điều mắt thấy tai nghe của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi ít
người có dịp đi đến…”.
Các công trình trên tuy có nhắc tới thể du ký, nhưng chưa đi sâu tìm hiểu
về nó. Thể du ký chỉ thực sự được chú ý về sau này. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Hữu Sơn, đã dành nhiều chú ý nhất cho du ký, điều ấy được thấy rõ qua hàng
loạt các bài nghiên cứu của ông.
Báo Văn nghệ quân đội số 10 năm 2000, ông có bài: Thể tài du ký về Hà
nội nửa đầu thế kỷ XX.
Báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 06, năm 2000, có bài Phác thảo
du ký Hà Nội trước Cách mạng tháng Tám.
Báo Văn nghệ Hạ Long, số Tết năm 2002 có bài Du ký Quảng Ninh nửa
đầu thế kỷ XX
Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 06, năm 2004, có bài Du ký Ninh Bình nửa
đầu thế kỷ XX.
Tạp chí Kiến thức ngày nay số 570 năm 2006 có bài: Thể tài du ký và các
tác gia Nam Bộ từ nửa cuối thế kỷ XIX đến 1945.
Tạp chí Nghiên cứu văn học số 04 năm 2007, có bài Thể tài du ký trên tạp
chí Nam Phong (1917 - 1934). Trong bài viết này, Nguyễn Hữu Sơn đã đi sâu
vào các đặc trưng của thể du ký.
4
Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 619, có bài viết Du ký về vùng văn hóa Sài
Gòn – Nam Bộ của Nguyễn Hữu Sơn, bàn về du ký Phạm Quỳnh qua tác phẩm
Một tháng ở Nam Kỳ.
Cùng năm đó, bộ Du ký Việt Nam, tạp chí Nam Phong (1917 - 1934) gồm 3
tập đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn dày công biên soạn và giới thiệu.
Sau khi bộ Du ký Việt Nam ra đời, đã có hàng loạt các bài viết bàn về thể tài
du ký trên Nam Phong tạp chí.
Báo Doanh nghiệp ra ngày 13.05.2007, có bài viết của Trung Sơn với nhan
đề Viết của sự Đi. Bài viết đã nêu lên một vài đặc điểm nổi bật của du ký trên
Nam Phong tạp chí, đó là điều kiện ra đời, những đặc trưng không gian - thời
gian… trong du ký. Và cuối cùng tác giả nhận định: “Bộ du ký Việt Nam trên
Tạp chí Nam Phong là một kho tư liệu quý, một chứng tích của thời gian”.
Báo Tuổi trẻ ra ngày 23.03.2007, Phạm Xuân Nguyên có bài Đọc sách để
đi chơi. Tác giả Xuân Nguyên cũng đã đưa ra ý kiến đánh giá của mình về du
ký: “Đọc du ký, để hiểu biết, có thêm thông tin tri thức là một lẽ. Đọc những tác
phẩm du ký này còn để hiểu thêm suy nghĩ, cảm xúc của những con người đứng
ở buổi đầu nền văn học hiện đại, muốn truyền tải và gửi gắm tới quốc dân trong
một nước đang tìm cách thoát lạc hậu đến văn minh”.
Báo Văn hóa và Thể thao, ra ngày 27.04.2007, có bài viết Du ký như một
thể tài của tác giả Linh Lê. Trong đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn khi trả
lời phỏng vấn của tác giả Linh Lê, đã khẳng định: “Du ký cần quan niệm như là
một thể tài. Thể tài du ký cần phải hiểu là nhấn về phía đề tài, nội dung và cảm
hứng nghệ thuật của người viết chứ không phải về phía thể loại”.
Báo Người đại biểu nhân dân, ra ngày 01.04.2007, tác giả Phong Lê có bài
viết Du ký trên tạp chí Nam Phong.
Báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, ra ngày 10.04.2007, có bài viết Du ký
Việt Nam - một bộ sách quý của Trần Hữu Tá
5
Báo An ninh thủ đô số ra ngày 15.04.2007, tác giả Thiên Lương có bài: Về
bộ sách Du ký Việt Nam - Nam Phong tạp chí, khát vọng chân thành của người
trí thức….
Báo Thể thao và Văn Hóa số 49 ra ngày 21.04.2007, có bài Chuyện đi xứ
người của Nguyễn Vĩnh Nguyên…..
Báo Văn hóa số 1355, số ra ngày 30.03.2007, có bài Đọc Du ký Việt Nam:
ngồi một chỗ mà thấy ngoài muôn dặm, của Nguyễn Anh.
Như vậy, có thể nói vấn đề nghiên cứu về du ký trên Nam Phong tạp chí,
nhìn chung còn khá sơ lược. Trước những giá trị và đóng góp của du ký đối với
nền văn học hiện đại Việt Nam, chúng tôi cho rằng cần có nhiều hơn nữa những
nghiên cứu đi sâu tìm hiểu vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong văn học trung đại, thể du ký đã xuất hiện với một số tác giả, tác
phẩm, nhưng chỉ sang thế kỷ XX trong giai đoạn văn học giao thời (1900 -
1930), du ký mới thực sự phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong những thể
tài chiếm vị trí trung tâm của đời sống văn học. Mục du ký trên Nam Phong tạp
chí đã phần nào chứng minh cho sự phát triển đó. Tuy nhiên xung quanh vấn đề
du ký nói chung, du ký trên Nam Phong tạp chí nói riêng, nhìn chung chưa có
nhiều công trình nghiên cứu. Nhận thấy đây còn là một vấn đề mới, chúng tôi
muốn đi vào nghiên cứu với mục đích khảo sát du ký trên các phương diện chủ
yếu như: sự ra đời, các giá trị chính về nội dung và nghệ thuật, chỉ hi vọng đem
tới một cái nhìn khái quát về du ký trên Nam Phong tạp chí.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các tác phẩm du ký đăng trên Nam Phong tạp chí (1917 - 1934). Bao gồm
62 tác phẩm của 36 tác giả. Trong đó, chúng tôi lần lượt đi vào nghiên cứu thể
tài du ký dưới góc độ lí luận, các điều kiện ra đời và phát triển của thể loại du ký
trên Nam Phong tạp chí, và những giá trị chính về nội dung và nghệ thuật của du
ký.
6
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp mà chúng tôi sử dụng trong niên luận này là các phương
pháp sau: phương pháp phân tích thể loại. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng
phương pháp khác như: so sánh, phân tích tổng hợp.
6. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận chia thành 3 phần, ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội
dung cơ bản gồm 3 chương
Chương I: Thể du ký trên Nam Phong tạp chí
Chương II: Du ký trên Nam Phong tạp chí - Bức tranh hiện thực rộng lớn.
Chương III: Những đặc trưng nghệ thuật của thể loại du ký trên Nam
Phong tạp chí
7
NỘI DUNG
Chương I: Thể du ký trên Nam Phong tạp chí (1917 - 1930)
1.1. Tạp chí Nam Phong
Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 1
tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản, do Phạm Quỳnh làm chủ
bút, dưới sự bảo trợ của ông Louis Marty, trưởng phòng chính tại phủ toàn
quyền Pháp - Hà Nội. Trong suốt 17 năm hoạt động, tạp chí đã đăng 210 số, với
sự góp mặt của nhiều cây bút nổi tiếng như: Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Bá
Học, Nguyễn Đôn Phục, Đông Hồ, Mai Khê, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Phục Ba,
Nguyễn Đức Tánh, Nguyễn Thế Xương...
Mục đích của Nam Phong là thể hiện chủ nghĩa khai hóa của nhà nước
mới, biên tập những bài bằng quốc văn, Hán văn, Pháp văn, để giúp cho sự mở
mang trí thức, giữ gìn đạo đức, bảo tồn quốc hồn quốc túy trong quốc dân Việt
Nam và truyền bá các môn khoa học Tây phương, nhất là học thuật tư tưởng đại
Pháp, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp, và người Nam trong trường kinh tế.
Đặc biệt chú ý tới sự tập luyện, trau dồi văn quốc ngữ, để người Việt sớm có
một nền quốc văn riêng.
Nam Phong tạp chí từ lúc ra đời tới khi đình bản đã trải qua 4 giai đoạn
chính:
Giai đoạn 1917 - 1922: Thời kỳ thành lập và bành trướng của tờ báo
Giai đoạn 1922 - 1925: Thời kỳ đề cao mục đích giáo huấn, khai hóa quốc
dân. Tờ báo phát triển mạnh và truyền ra nước ngoài nhờ ảnh hưởng của Phạm
Quỳnh.
Giai đoạn 1925 - 1932: Đây là giai đoạn hoạt động chính trị mạnh nhất của
tờ báo.
Giai đoạn 1932 - 1934: Giai đoạn suy yếu của báo, quyền chủ bút chuyển
cho Nguyễn Trọng Thuật. Tới tháng 12 năm 1932 thì tạp chí đình bản hẳn.
8
Về nội dung, Nam Phong tạp chí đã đề cập tới rất nhiều vấn đề của đời
sống cũng như văn học, với nhiều chuyên mục khác nhau mà tập trung trong 9
phần sau:
* Phần lược thuật: Bàn chung những vấn đề có liên hệ đến thời thế, nhất là
có những phần liên hệ đến riêng dân ta để cho độc giả trong nước có những
quan niệm minh chính về vấn đề này.
* Phần văn học bình dân: Đề cập những vấn đề về văn chương lịch sử, đại
thể là những môn tổng danh gọi là văn học.
* Phần triết học bình dân: Luận thuyết tư tưởng từ xưa tới nay. So sánh tư
tưởng Âu - Á để giúp cho sự đề xướng một tư trào riêng cho nước ta. Tôn chỉ là
giúp cho quân dân về trí thức và đạo đức.
* Phần khoa học bình dân: Nói tới những vấn đề đại cương, nguyên lí, lịch
sử tiến hành của khoa học.
* Phần văn uyển: Sưu tầm và biên soạn lại những tác phẩm thơ ca chữ Hán,
chữ Nôm và đăng tải những bài thơ mới.
* Phần tạp trở: Đăng những bài ký (du hành, du ký) trình bày các câu
chuyên “mắt thấy tai nghe” dọc đường của một chuyến tham quan, công tác... và
những bài tựa, bài giới thiệu sách mới, những danh ngôn, trích lục các sách.
* Phần thời đàm: Gồm các bài bàn về tình hình thế sự trong và ngoài nước.
Những bài viết này thể hiện một thái độ khá bình tĩnh khi trình bày các sự việc
khác nhau, song ý thức ca ngợi Pháp vẫn bộc lộ.
* Phần tiểu thuyết: Dịch các tiểu thuyết cận, hiện đại của Trung Quốc và
Pháp sang quốc văn, và đăng tải những tiểu thuyết mới.
* Phần từ vựng: Gồm 3 phần (chữ quốc ngữ, chữ Nho và chữ Pháp) với
mục đích là giải thích những chữ mới.
Đánh giá về của tạp chí Nam Phong đã có nhiều ý kiến khác nhau. Theo
Dương Quảng Hàm
(1)
, tạp chí Nam Phong đã có ảnh hưởng về hai phương diện:
1
(1): Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu - Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn. 1950.
9
- Về đường văn tự, Nam Phong đã sáp nhập vào tiếng Việt nhiều danh từ
triết học, khoa học mới, và luyện cho chữ quốc ngữ có thể diễn dịch được các lý
thuyết, các ý tưởng về triết học, kho học mới.
- Về đường học vấn, Nam Phong đã phổ thông những điều yếu lược của
học thuật Âu - Tây, diễn giải những điều đại cương trong các học thuyết cũ của
Á Đông (Nho học, Phật học) và bảo tồn những điều cốt yếu trong văn hóa Việt
Nam xưa (văn chương, phong tục, lễ nghi).
Như vậy, Nam Phong tạp chí tuy có hạn chế về mặt lịch sử, nhưng những
giá trị mà nó đem lại thì không thể phủ nhận. Cho tới nay, những giá trị ấy vẫn
được công chúng nhìn nhận và đánh giá cao. “Đây là tờ báo gần như duy nhất
trong những năm chuyển tiếp giữa thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ này, cung cấp
cho bạn đọc Việt Nam những kiến thức về văn chương, triết học, lịch sử, địa
lý…phương Đông và phương Tây, một cách hệ thống và liên tục. Nam Phong
cũng là nơi thử thách và rèn luyện ngòi bút viết văn xuôi quốc ngữ, văn xuôi
nghệ thuật và cao hơn là văn xuôi lý luận trong bước chuyển mình của văn
xuôi quốc ngữ chúng ta”. (Lại Văn Hùng)
(1)
1.2. Đặc điểm thể du ký
Thể ký ra đời từ rất sớm, là một loại hình trung gian nằm giữa báo chí và
văn học, bao gồm nhiều thể như: bút ký, hồi ký, du ký, phóng sự, ký sự, nhật ký,
tùy bút… Ký cơ bản khác với truyện (truyện dài, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết) ở chỗ trong tác phẩm ký không có một xung đột thống nhất. Ký cũng
không đi vào miêu tả quá trình hình thành tính cách của các cá nhân trong tương
quan với hoàn cảnh, mà là các vấn đề trạng thái dân sự như kinh tế - văn hóa -
chính trị, và trạng thái tinh thần như phong hóa đạo đức của chính môi trường xã
hội. Khác với Thơ mới, kịch, tiểu thuyết… là những thể loại ra đời và phát triển
do ảnh hưởng mạnh của quá trình tiếp xúc văn học phương Tây, thể ký lại mang
tính nội sinh hết sức rõ rệt. Nó là sự kết hợp giữa cách viết, cách tư duy giữa
truyền thống và hiện đại, giữa Đông và Tây. Bởi lẽ, một trong những đặc trưng
1
(2): Lại Văn Hùng – Truyện ngắn Nam Phong – NXB Khoa học xã hội, H., 1986.
10
lớn nhất của ký là ghi chép, là phản ánh một cách trung thực, chính xác những
con người, những sự kiện có thật trong đời sống, cho nên buộc nó phải lấy
những đề tài, những câu chuyện xảy ra ở chính Việt Nam. Sáng tác văn học
dạng thể ký thường thịnh hành ở các giai đoạn văn học sử ứng với thời kỳ xã hội
có khủng hoảng của các quan hệ cũ, nảy sinh một nếp sống mới, làm tăng cường
chú ý đến sự miêu tả các thói tục.
Tùy từng giai đoạn mà ký phát triển với những hình thức khác nhau. Ở thời
trung đại, ký phát triển với các thể tài: ký sự, tiệp ký, tùy bút, tạp lục. Đó là
những tác phẩm như: Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Vũ Trung tùy bút, Tang
thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Công
du tiệp ký của Vũ Phương Đề... Những tác phẩm ký này thường viết về các sự
kiện, các vấn đề có tính chất lớn lao của quốc gia.
Bước sang thế kỷ XX, ký mới thực sự chiếm được vị trí quan trọng trong
đời sống văn học, nhờ sự ra đời của báo chí, các nhà xuất bản, sự phát triển của
chữ Quốc ngữ và đặc biệt là nhờ điều kiện giao thông thuận lợi. Người có công
đầu trong việc thúc đẩy thể ký phát triển lúc này chính là Tản Đà (1889 - 1939).
Ông là người đã sáng lập ra mục “Việt Nam nhị thập kỷ - xã hội ba đào ký” trên
An Nam tạp chí. Tiếp sau đó, với mục du ký trên Nam Phong tạp chí, Phạm
Quỳnh đã tiếp bước Tản Đà, cho đăng tải rất nhiều tác phẩm du ký: Mười ngày
ở Huế, Pháp du hành trình nhật ký (Phạm Quỳnh), Cuộc đi chơi năm tầng núi
(Tùng Vân), Hương sơn du ký (Minh Phượng), Các nơi cổ tích đất nghệ tĩnh
(Nguyễn Đức Tánh)… những tác phẩm ký thời này được viết bởi nhiều kiểu tác
giả, với lối viết mang tính chất trữ tính, in dấu ấn cá nhân, bởi thế nó cũng đậm
tính văn học hơn.
Sang những năm 1930 - 1945, thể phóng sự phát triển mạnh mẽ với nội
dung viết về các tệ nạn xã hội, tố cáo xã hội thực dân sâu sắc. Các tác phẩm tiêu
biểu như: Việc làng, tập án cái đình của Ngô Tất Tố, Ngõ hẻm ngoại ô của
Nguyễn Đình Lạp, Tôi kéo xe của Tam Lang, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng. Sau
cách mạng tháng Tám, ký lại có một bước chuyển mình mới. Các thể tài tùy bút,
11
nhật ký, bút ký chiếm một vị trí lớn trong đời sống văn học bấy giờ. Những tác
phẩm: Nhật ký ở rừng của Nam Cao, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng,
Sống như anh của Trần Đình Vân, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Đình Thi,
Đường lớn của Bùi Hiển… đã tái hiện một cách chân thực và sinh động một thời
kỳ lịch sử anh hùng của dân tộc, của thời đại.
Trở lại với vấn đề mà khóa luận đang nghiên cứu, đó là thể du ký. Trong
nền văn học trung đại, du ký đã xuất hiện. Mở đầu là các bài du ký bằng thơ ca
đề vịnh phong cảnh như: Vịnh Văn Yên tự phú của Huyền Quang Lý Đại Táo,
Bài ký Tháp Linh Tế Núi Dục Thúy của Trương Hán Siêu, Tịnh cư ninh thể phú
và Đại đồng phong cảnh phú của Nguyễn Hàng, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu
Trác, Nhị Thanh động phú và Tây Hồ phong cảnh phú của Ngô Thì Sĩ. Từ thế kỷ
XIX, các tác phẩm du ký trở nên phong phú hơn với những cuộc hành trình dài,
nội dung những bài du ký không chỉ còn giới hạn về các vấn đề trong đất nước,
mà đã được mở rộng ra nước ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu như: Tây hành nhật
ký của Phạm Phú Thứ, Ghi về vương quốc Khơme, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất
Dậu của Trương Vĩnh Ký, Như Tây nhật trình, Chư quốc thạc hội của Trương
Minh Ký… Sang thế kỷ XX, với những tiền đề về lịch sử xã hội cũng như
những tiền đề trong nội hàm văn học, thể du ký đã có điều kiện phát triển mạnh.
Thể du ký phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều giá trị nhất vào ba thập kỷ đầu
của thế kỷ XX.
Du ký là một thể đặc biệt của văn học. Bởi một tác phẩm du ký không đơn
giản chỉ là một tác phẩm văn học mà còn chứa đựng trong nó cả một kho kiến
thức lịch sử, địa lý, giáo dục, chính trị, giáo dục. Du ký có thể là các sáng tác
bằng thơ, phú, tụng hay những bài văn xuôi theo các phong cách ký như: ghi
chép, hồi ký, phóng sự, khảo cứu, hồi ức. Du ký thường là miêu tả những sự mắt
thấy tai nghe của người đi trên một hành trình, nó gần như một dạng nhật ký
hành trình nhưng đậm chất văn học hơn. Bàn về du ký, đã có không ít những ý
kiến, những cách định nghĩa khác nhau. Trong đó Từ điển thuật ngữ văn học
định nghĩa như sau: “Du ký - một thể loại văn học thuộc loại hình ký mà cơ sở
12
là sự ghi chép của bản thân mình đi du lịch, ngoạn cảnh về những điều mắt thấy
tai của chính mình tại những xứ sở xa lạ hay những nơi có ít người đến. Hình
thức của du ký rất đa dạng, có thể là ghi chép, ký sự, nhật ký, thư tín, hồi tưởng,
miễn là mang lại những thông tin, tri thức và cảm xúc mới lạ về phong cảnh,
phong tục, dân tình của xứ sở ít người biết đến (…). Dạng đặc biệt của du ký
phát huy cái chất ghi chép về miền xa lạ của nó là du ký về các xứ sở tưởng
tượng, có tính chất không tưởng hay viễn tưởng khoa học (…). Dạng du ký khác
đậm đà phong vị phương Đông là ghi chép cảm tưởng, nhận xét về những nơi
danh lam thắng cảnh đất nước (…). Thể loại du ký có vai trò quan trọng đối với
văn học thế kỷ XVIII – XIX trong việc mở rộng tầm nhìn và tưởng tượng của
nhà văn. Sang thế kỷ XX, du ký mang nhiều tính chất tư liệu khoa học do các
nhà địa chất, nhà dân tộc học viết. Loại du ký khoa học cũng rất thịnh hành”
[230, 2].
Du ký đầu thế kỷ XX đã phát triển mạnh mẽ và để lại nhiều giá trị nội dung
cũng như những cách tân nghệ thuật độc đáo, cùng với những thể loại văn học
khác, du ký đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam.
Trong giới hạn của một khóa luận, chúng tôi chỉ xin đi vào khảo sát thể du
ký trên tạp chí Nam Phong (1917 - 1934), với mục đích đem lại cái nhìn khái
quát về thể du ký trên các khía cạnh: sự ra đời, những giá trị chính về nội dung
và nghệ thuật; qua đó phần nào thấy được sự vận động và phát triển của du ký
nói riêng, thể loại ký nói chung trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân
tộc.
13
1.3. Thể du ký trên Nam Phong tạp chí
1.3.1. Những tiền đề ra đời của thể du ký trên Nam Phong tạp chí
1.3.1.1 Những tiền đề lịch sử - văn hóa
* Đô thị
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến Thế giới lần thứ
nhất, thực dân Pháp tiếp tục đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa ở nước ta,
tạo ra những biến đổi to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
Một trong những hệ quả to lớn của quá trình thực dân hóa chính là việc thúc đẩy
sự phát triển mau chóng của đô thị ở Việt Nam. Trước đó, trong thời đại phong
kiến, dưới tác động của nền kinh tế hàng hóa tuy mới chỉ là manh nha, đô thị
cũng đã sớm xuất hiện với sự ra đời của các phường thợ thủ công, những làng
nghề, những cơ sở thương mại... Nhưng phải tới thời kỳ Pháp thuộc đô thị mới
thực sự được “tái sinh” theo dòng chảy hiện đại. Đô thị là nơi tích tụ và phản
ánh những chuyển biến của xã hội Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa, là nơi
cửa ngõ giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và thế giới, là nơi mà những ảnh hưởng
phương Tây được thể hiện rõ nhất. Ở đó, xuất hiện những tầng lớp mới của xã
hội, những viên chức, những trí thức… với lối sống tư sản hóa đang mau chóng
hình thành. Chính những tầng lớp xã hội ấy đã đem đến một luồng gió tinh thần
mới trong đời sống. Những tập tục, thói quen, những trói buộc không còn phù
hợp thậm chí là hà khắc của chế độ phong kiến đã dần bị họ đẩy lui. Thay vào
đó là là những lối sống mới với những trạng huống tâm lý mới mẻ...
Đô thị phát triển chính là một trong những tiền đề quan trọng cho quá trình
hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Đô thị không chỉ tạo ra những tầng lớp mới
trong xã hội nói chung, mà đối với riêng lĩnh vực văn học nghệ thuật, đô thị đã
“đào tạo” ra một tầng lớp công chúng mới. Họ bao gồm những học sinh, sinh
viên, những trí thức, những người bình dân… Cho dù thành phần và xuất thân
của lớp công chúng mới không giống nhau, nhưng tất cả đều có chung một thị
hiếu, một đòi hỏi với văn học. Văn học của thời đại mới phải thể hiện chân thực
14
và sinh động nhất đời sống, con người hiện đại. Độc giả được biết đến như là
những người trực tiếp tiếp nhận tác phẩm văn học từ nhà văn. Không có họ, câu
hỏi “Viết cho ai?” sẽ trở nên vô nghĩa, và như vậy cũng có nghĩa là văn học
không thể tồn tại. Độc giả của thế kỷ XX là những con người mới, mang những
tri thức mới, đã không còn bằng lòng với kiểu văn chương đậm tính chất giáo
huấn với muôn ngàn khuôn vàng thước ngọc, những quy phạm, những ước lệ,
những phi ngã của nền văn học trung đại. Thay vào đó, họ yêu cầu văn học như
một nhu cầu giải trí thiết yếu, phải luôn sáng tạo, luôn phục vụ kịp thời. Trước
những đòi hỏi ấy của người đọc, lớp nhà văn mới đã phải không ngừng nâng cao
ngòi bút, không ngừng cạnh tranh. Văn chương thực sự trở thành một nghề kiếm
sống. Có thể nói cho tới lúc này - những thập niên đầu của thế kỷ XX, chưa bao
giờ đời sống văn học lại trở nên sôi nổi, muôn sắc đến vậy.
* Báo chí và chữ quốc ngữ
Một trong những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của nền văn học mới đầu
thế kỷ XX nói chung, cho sự ra đời và phát triển của các thể loại văn xuôi quốc
ngữ nói riêng, phải kể tới sự xuất hiện của báo chí và chữ quốc ngữ. Chữ quốc
ngữ xuất hiện ở nước ta từ trước thế kỷ XVII, là sáng kiến và cũng là nhu của
các nhà truyền giáo Âu châu khi sang giảng đạo. Và tuy từ khi chiếm được Nam
Kỳ, Pháp đã chính thức hóa chữ quốc ngữ, đã xuất bản một vài tờ báo bằng chữ
quốc ngữ nhưng trong đời sống văn học, giữ địa vị thống trị vẫn là văn học nhà
nho và văn học truyền miệng của nhân dân. Văn chương quốc ngữ tồn tại như
những yếu tố xa lạ, không được kể là văn chương, chưa được công nhận vào đời
sống văn học của dân tộc. Sang thế kỷ XX, vấn đề văn chương quốc ngữ mới
được đặt ra như một nhu cầu tất yếu, quan trọng cho quá trình hiện đại hóa nền
văn học nước nhà. Phạm Quỳnh, một nhà tân học, ngay trong số đầu tiên của tạp
chí Nam Phong do ông chủ bút đã xác định mục tiêu số một của tạp chí là: “Vấn
đề quan trọng nhất trong nước ta lúc này là vấn đề văn quốc ngữ, vấn đề ấy có
giải quyết được thì sự học mới có thể tấn tới, dân trí mới có thể mở mang, cuộc
tiến hóa sau này mới có thể mong đợi được. Đến ngày chữ quốc ngữ dùng làm
15
quốc văn được thì người nước Nam mới có thể thâu thái các khoa học mới, mà
gây thành một nền học thích hợp với thái độ, với tính cách dân ta. Đến ngày ấy
thì người dân ta mới phát biểu được tinh thần cốt cách của mình… Nói rút lại,
chữ quốc ngữ có phát đạt thì nền quốc học mới gây dựng được, quân dân ta mới
không đến nỗi chung kiếp đi học mướn viết nhờ như từ xưa đến nay”.
Bên cạnh sự phát triển của chữ quốc ngữ, sự ra đời của báo chí đã tạo nên
những môi sinh thuận lợi cho sự hiện diện và thăng hoa của nền văn học mới.
Báo chí chỉ thực sự ra đời trong quá trình thực dân hóa Đông Dương của người
Pháp. Với mục đích “chinh phục tinh thần người bản xứ”, người Pháp đã dùng
báo chí như một công cụ hữu hiệu, là cầu nối giữa người đi chinh phục và người
bị chinh phục. Vì thế, ngay năm 1865 Pháp đã cho xuất bản tờ Gia Định báo.
Sang thế kỷ XX, cùng với sự phổ biến của chữ quốc ngữ, báo chí phát triển nở
rộ. Bằng chứng là nếu như năm 1865 cả nước ta chỉ có một tờ Gia Định báo
thì đến năm 1922 cả nước đã có 96 tờ báo, tạp chí, tập san. Năm 1925 : 121
tờ; năm 1929: 153 tờ với các tên báo nổi tiếng như: Đông Dương tạp chí, An
Nam tạp chí, Hữu Thanh tạp chí, Nam Phong tạp chí, Phụ nữ tan văn, Đông
Pháp thời báo... Thêm vào đó, đến đầu thế kỷ XX, nhờ sự trưởng thành nhanh
chóng của đội ngũ những người làm báo Việt Nam, hoạt động báo chí càng
trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các nhà
báo Việt Nam, Nghiệp đoàn báo chí thuộc địa được thành lập (1919) với
những cương lĩnh tiến bộ như: đòi tự do ngôn luận, cấm xâm phạm thân thể
nhà báo… Đồng thời với sự ra đời của báo chí là những tiến bộ về khoa học
kỹ thuật trong ngành in ấn. Các phương tiện in ấn hiện đại được nhập từ
phương Tây đã thay thế lối khắc in bằng mộc bản thủ công. Cuối thế kỷ XIX
ở Việt Nam đã có một hệ thống các nhà in hỗ trợ đắc lực cho các nhà xuất
bản thời ấy, góp phần thúc đẩy sự phát triển của báo chí nước nhà. Với văn
học Việt Nam buổi giao thời, báo chí là môi trường tồn tại lý tưởng của văn
học nói chung, các thể loại văn học mới như du ký nói riêng. Báo chí với tính
thời sự và đại chúng của nó, đã là phương tiện, là cầu nối đưa tác phẩm văn
học tới tay độc giả một cách nhanh nhất, phổ biến nhất. Ngoài ra, quá trình
16
chuyển từ sáng tác bằng chữ Hán sang chữ quốc ngữ, bắt buộc tất cả các
nhóm nhà văn dù tân học hay cựu học đều phải trải qua một quá trình “tập
làm văn bằng tiếng mẹ đẻ”, đặt nền móng xây dựng một thứ ngôn ngữ văn
học mới bằng Tiếng Việt. Và báo chí là môi trường thuận lợi cho những thể
nghiệm đó.
* Tiếp xúc văn hóa Đông - Tây
Đầu thế kỷ XX, quá trình tiếp xúc văn hóa Đông Tây diễn ra mạnh mẽ.
Trước hết, đó là do hệ thống giáo dục Pháp - Việt mà Pháp thiết lập đã tạo
môi trường thuận lợi cho cơn gió văn hóa Tây Âu tràn vào nước ta. Cùng với
đó, là sự phát triển của phong trào dịch thuật. Kết quả là hàng loạt các tác
phẩm văn hóa văn học nước ngoài mà chủ yếu là tác phẩm của người Pháp
được độc giả trong nước tiếp nhận. Tư tưởng Tây phương tràn vào đem lại
cho chúng ta những quan niệm mới về vũ trụ và nhân sinh. Trong quá trình
giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông - Tây ấy, nền văn học Việt Nam đã có những
ảnh hưởng mang tính tích cực. Dễ nhận thấy, nền văn học ấy không ra đời
theo con đường phủ định bên trong từng bước văn học truyền thống mà bằng
con đường chuyển những thể loại bên rìa của văn học chính thống thời phong
kiến vào trung tâm văn học. Song song với việc làm đó, các nhà văn đã lấy hệ
thống thể loại văn học cận hiện đại của châu Âu để phản ánh những vấn đề
đời sống buổi đương thời. Cơn gió văn học Tây Âu không chỉ đem tới cho
nền văn học nước nhà hệ thống thể loại, chủ đề, đề tài mới mà nó còn cung
cấp cho các nhà văn không ít những sáng tạo nghệ thuật đưa văn học Việt
Nam tiến vào con đường hiện đại hóa.
* Điều kiện giao thông thuận lợi
Sau khi chiếm được nước ta, nhằm đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc
địa, thực dân Pháp đã cho xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất, giao thông
liên lạc hiện đại. Giao thông thuận lợi, việc đi lại được mở rộng chính là một
trong những tiền đề thúc đẩy sự phát triển của thể du ký trong giai đoạn văn
học giao thời này. Du ký đúng như tên gọi của nó, là “cái Viết của sự Đi”, vì
17
thế để viết được những trang du ký chân thực và sinh động, bắt buộc người
viết phải có những chuyến đi, bất kể là ngắn hay dài, có giới hạn rộng hay
hẹp. Có như vậy, họ mới có thể thâu tóm và tái hiện những điều mắt thấy tai
nghe, cũng như những xúc cảm thành thực của cá nhân trong các tác phẩm du
ký. Đầu thế kỷ XX, nhờ các phương tiện đi lại hiện đại như: máy bay, tàu
hỏa, tàu thủy, xe hơi, mà bao giấc mộng tang bồng của những người nghệ sĩ
có cơ hội được thực hiện.
Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của đô thị, báo chí, nhà in, chữ quốc
ngữ, và sự tiếp xúc văn hóa Đông - Tây, điều kiện giao thông thuận lợi... là
những tiền đề lịch sử, văn hóa quan trọng cho việc ra đời của nền văn hóa
mới của Việt Nam. Trong nền văn học mới ấy, nhiều thể văn xuôi nghệ thuật
như du ký đã có điều kiện phát triển và đã tạo được nhiều giá trị độc đáo.
1.3.1.2. Cơ sở văn học
* Đội ngũ sáng tác và các quan niệm mới về văn học
Ở mỗi thời kỳ văn học luôn có những thế hệ nhà văn riêng. Nền văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỷ XV tới thế kỷ XIX, là nền văn học nhà nho. Bởi
lẽ nhà nho chính là đội ngũ sáng tác văn học chính. Họ là những người con
của “cửa Khổng sân Trình”, tiến thân lập danh bằng con đường khoa cử. Theo
quan niệm Nho giáo, văn học nghệ thuật là phương tiện để giáo hóa chính tâm,
chế dục, là công cụ chính trị động viên, tổ chức xã hội. Văn học phải hướng vào
Đạo, có quan hệ đến nhân tâm, có tác dụng di dưỡng tính tình. Quan niệm văn
học nghệ thuật của Nho gia, được chính quyền chuyên chế coi là chính thống,
được đơn giản hóa cho thích hợp với nhu cầu nhà nước. Và các văn sĩ nghệ sĩ
được đào tạo theo quan niệm đó. Chế độ thi cử nghiêm khắc đã xác định ra
những người có tài. Nhà nước lấy văn chương chọn quan lại. Sĩ tử muốn có
công danh chỉ có con đường duy nhất là học chữ, thi đỗ, và ra làm quan. Cũng vì
lí do ấy mà văn chương cử tử được coi là thứ văn chương chính thống, chính đạo
và cao quý nhất. Từ giữa thế kỷ XVIII, cùng với những biến đổi to lớn về các
mặt của đời sống từ chính trị - xã hội, tư tưởng, đã dần xuất hiện một loại hình
18
nhà nho mới: nhà nho tài tử. Nhìn chung, nhà nho tài tử vẫn lấy Nho giáo làm ý
thức hệ chính thống, vẫn vận động trong khuôn khổ của một thể chế xã hội
truyền thống, nhưng ở họ đã bắt đầu nảy sinh những định hướng nhằm phá vỡ
các khuôn khổ đó.
Bước sang thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn giao thời (1900 - 1930) nền văn
học Việt Nam đã có nhiều biến đổi trong đội ngũ sáng tác. Đây được coi là thời
kỳ chung chuyển nhiều loại hình tác giả. Lớp nhà văn cũ chưa hoàn toàn mất đi,
nhưng kiểu nhà văn hiện đại cũng chưa hình thành một cách rõ nét. Các loại
hình nhà văn ấy cùng tồn tại với những quan niệm văn học, những hướng đi
riêng. Bao gồm lớp nhà nho tài tử, tiêu biểu như Tản Đà, các nhà nho là những
chí sĩ yêu nước (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh). Trong bước đầu quá trình
hiện đại hóa nền văn học, với những đòi hỏi mới của độc giả, các tác giả này đã
không ngừng nỗ lực cách tân các tác phẩm của mình. Tuy nhiên sự cố gắng ấy
vẫn chủ yếu theo con đường cách tân những thể loại văn học truyền thống như:
Thơ, phú, kinh nghĩa, văn sách, luận, ký… Ngoài ra văn học thời kỳ này còn
phải kể tới một đội ngũ đông đảo các nhà văn là những trí thức tân học, đó là
những tên tuổi: Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Công Hoan, Phạm Quỳnh, Nguyễn
Văn Vĩnh… Họ là lớp nhà văn ảnh hưởng rõ rệt nhất nền văn học hiện đại
phương Tây, là những người tiên phong học hỏi và thử nghiệm các thể loại văn
học mới. Nhìn chung thế hệ nhà văn giai đoạn này khá phong phú nhưng ở họ
quan niệm về văn chương nghệ thuật khá đồng nhất. Văn chương không còn là
việc “trước thư lập ngôn”, là để di dưỡng tính tình và giáo dục con cháu, để thể
hiện tâm trí đạo, mà văn chương được coi như một nghiệp kiếm sống của nhà
văn. Văn chương không chỉ phản ánh hiện thực mà nó còn là nơi để những
người nghệ sĩ thể hiện cái tôi, thể hiện những xúc cảm chân thành nhất. Có thể
nói chưa bao giờ “khát vọng thành thực” được các nhà văn bộc lộ mạnh mẽ và
sâu sắc như lúc này.
* Sự phát triển của thể loại văn xuôi nói chung, thể du ký nói riêng
19
Thể loại là dạng thức tồn tại của chỉnh thể tác phẩm văn học. Trong quá
trình hình thành, tồn tại và phát triển, thể loại văn học vừa ổn định vừa biến đổi.
Ổn định không phải là sự đứng yên, khô cứng mà chỉ ở dạng định hình, khẳng
định thành tựu. Còn biến đổi là liên tục, là động lực của sự phát triển, đổi mới
văn học. Do đó, thể loại văn học luôn luôn vừa mới, vừa cũ. M. Bakhtin cho
rằng, thể loại chứ không phải phương pháp hoặc trường phái sáng tác là những
nhân vật chính của tấn kịch lịch sử văn học. Và thể loại còn được coi là một
trong những tiêu chí, thậm chí là quan trọng nhất trong việc phân kỳ lịch sử văn
học. Nói như nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân: “Lịch sử văn học là lịch sử phát
triển của thể loại văn học”.
Để tìm hiểu sự phát triển của thể loại văn xuôi ở Việt Nam giai đoạn
giao thời, trước hết chúng tôi muốn chỉ ra đặc trưng cơ cấu thể loại của văn
học truyền thống phương Đông và phương Tây. Văn học phương Tây từ thời
cổ đại, Aristote trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca đã quan niệm văn chương là
những gì gắn với thơ. Những sáng tác văn học được đồng nhất với thơ và hầu
hết những sáng tác văn học nghệ thuật đều được diễn đạt bằng thơ, vì thế mà có
anh hùng ca bằng thơ, kịch thơ, thơ tế thần… Chỉ những sáng tác có giá trị mô
phỏng – tái tạo, hư cấu mới được coi là thơ ca. Các văn bản hành chính, các ghi
chép lịch sử đều nằm ngoài phạm vi văn chương. Aristote cũng đưa ra các tiêu
chí để phân biệt các thể loại văn học, đó là: 1. Mô phỏng bằng cái gì? (phương
tiện). 2. Mô phỏng cái gì? (đối tượng). 3. Mô phỏng như thế nào? (phương
thức). Sau này đến Heghen nhà lí luận phương Tây, ông chia văn học thành ba
phương thức chính: Tự sự, trữ tình và kịch dựa trên các tiêu chí: 1. Nội dung
phản ánh cái gì? 2. Phương thức điển hình hóa như thế nào? 3. Ngôn ngữ biểu
đạt ra sao? Ba phương thức trên chia nhỏ thành các thể loại khác nhau, cách
phân chia này gần như được thống nhất từ xưa tới nay. Trong hệ thống thể loại
văn học truyền thống phương Tây thì những sáng tác viết bằng hình thức văn
xuôi không được coi trọng. Họ cho rằng những sáng tác ấy viết bởi ngôn ngữ
đời sống hàng ngày không thiêng liêng, trang trọng nên bị hạ thấp so với thể loại
thơ ca.
20
Tương tự như vậy, văn học phương Đông cũng đề cao thơ ca. Văn học
truyền thống phương Đông mà tiêu biểu là nền văn học Trung Quốc đặc biệt coi
trọng giá trị của thơ ca, vì chúng vừa mang tính thẩm mỹ vừa chứa đựng nội
dung sâu sắc “thâm tư hàn táo” (Tiêu Thống). Các nhà lí luận cổ điển Trung
Quốc đưa ra nhiều cách phân loại các thể loại. Lưu Hiệp phân chia văn thành 20
loại, Tiêu Thống chia thành 39 loại, Diêu Huyền chia thành 22 loại…Dù cách
phân chia nào thì trong đó, các thể loại truyện, ký, truyền kỳ, tiểu thuyết cũng bị
hạ thấp, thậm chí đặt ra ngoài phạm vi văn chương.
Văn học phương Đông và phương Tây đều coi trọng thơ ca là thiêng liêng,
cao quý, là cái đẹp. Tuy nhiên cái đẹp theo quan niệm phương Tây nghiêng về
các giá trị thẩm mỹ còn cái đẹp của phương Đông lại được đánh giá thông qua
các giá trị đạo đức.
Văn học truyền thống phương Đông và phương Tây đều quan niệm giống
nhau như vậy về vị trí của thể loại văn xuôi. Song trên con đường phát triển hiện
đại hóa văn học, thể văn xuôi ngày một lớn mạnh và khẳng định được vị thế cao
hơn. Ngôn ngữ văn học dần đến gần hơn với ngôn ngữ bình dị của đời sống.
Ngôn ngữ chính là một tiêu chí quan trọng đánh dấu bước chuyển của nền văn
học trung đại sang nền văn học hiện đại. Sự chiếm ưu thế dần của ngôn ngữ văn
xuôi cũng kéo theo sự phát triển ngày càng mở rộng của các thể loại văn xuôi. Ở
phương Tây sự phát triển của tiểu thuyết đánh dấu sự ra đời của nền văn học cận
đại và hiện đại. Tiểu thuyết trở thành thể loại trung tâm của văn học, tiểu thuyết
là của thời đại tiểu tư sản. Ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ của “thời đang
hoàn thành”. Quá trình phát triển của tiểu thuyết đồng thời với quá trình phát
triển hiện đại hóa văn học diễn ra từ thế kỷ XV, XVI, kéo dài tới hết thế kỷ XX.
Ở phương Đông, đại diện là Trung Quốc, quá trình hiện đại hóa diễn ra muộn
hơn. Trong sự phát triển của nền văn học ở phương Đông, các thể loại văn xuôi
như tiểu thuyết, truyện ký cũng khẳng định vị trí của mình ngày càng mạnh mẽ
hơn. Ở văn học Việt Nam cho tới cuối thời kỳ trung đại, các thể loại như tiểu
thuyết, ký…cũng dần đi vào trung tâm của văn học. Sang thế kỷ XX, với những
21
tiền đề quan trọng của lịch sử - văn hóa, cũng như trong chính nội hàm văn học,
các thể văn xuôi nói chung, thể du ký nói riêng đã thực sự có điều kiện để phát
triển một cách mạnh mẽ.
1.3.2. Du ký trên Nam Phong tạp chí
Trong công trính Mục lục phân tích Nam Phong tạp chí (1917 - 1943)
(1)
, nhà
thư mục Nguyễn Khắc Xuyên xác định du ký là một trong 14 bộ môn và nêu
nhận xét về thể tài du ký (còn được ông gọi là du hành): “Nhiều khi chúng ta tự
cảm thấy, sống trong đất nước với giang sơn gấm vóc mà không được biết tới
những cảnh gấm vóc giang sơn. Thì đây, theo tờ Nam Phong, chúng ta có thể
làm lại phần nào cuộc hành trình qua tất cả những phong cảnh hùng vĩ nhất, đẹp
đẽ nhất của đất nước chúng ta từ Bắc chí Nam, từ Cao Bằng, Lạng Sơn tới đảo
Phú Quốc, từ núi Tiên Du tới cảnh Hà Tiên và Ngũ Hành Sơn, từ Cổ Loa, Hạ
Long tới Huế thơ mộng…”.
Mục du ký trên Nam Phong tạp chí trong suốt 17 năm hoạt động của báo đã
tập hợp được 62 tác phẩm của gần 40 tác giả. Những tác giả ở đây có người là
chuyên nghiệp, có người chỉ là những cây bút nghiệp dư. Họ có thể là người nho
học, người tây học, là nhà báo, nhà văn, nhà khảo cứu… Có người đi vì sự vụ,
công vụ, có người đi chỉ là sở thích du lịch mà thôi. Chính những mục đích, tư
tưởng khác nhau đó của mỗi người đi đã tạo ra sự phong phú, độc đáo cho các
tác phẩm du ký. Có thể nói, mỗi tác phẩm là một bức tranh hiện thực tươi mới,
trong đó còn đong đầy dấu ấn, những tình cảm cá nhân chân thành và xúc động
của người đi - người viết.
Thể du ký trên Nam Phong tạp chí là sự tổng hợp của nhiều tác giả, nhiều
mảng chủ đề, đề tài, phản ánh những hiện thực khác nhau. Người đọc có thể
phân loại các tác phẩm này theo chủ thể sáng tác, theo các vùng văn hóa được
giới thiệu trong tác phẩm… Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn trong tác phẩm
Du ký Việt Nam
(2)
đã phân loại du ký thành 5 dòng chính,
1(1)
Nguyễn Khắc Xuyên – Mục lục phân tích Nam Phong tạp chí (1917 - 1934), Trung tâm Học
liệu ấn hành, Sài Gòn. 1968
2
(1) Nguyễn Hữu Sơn – Du ký Việt Nam, tạp chí Nam Phong (1917 - 1934), NXB Trẻ. 2007
22
- Dòng du ký mang tính quan phương, sự vụ, công vụ. Kiểu du ký này
thường do các trí thức, ký giả quan lại ghi chép như: Một tháng ở Nam kỳ, Mười
ngày ở Huế, Pháp du hành trình nhật ký (Phạm Quỳnh); Tổng thuật về việc phái
bộ Bắc kỳ đi quan sát đường xe lửa Vinh – Đông Hà (Song Cử); Lược ký đi
đường bộ từ Hà Nội vào Sài Gòn (Mẫu Sơn Mục N.X.H).
- Dòng du ký viễn du, những chuyến du hành vượt biên giới. Đó là những
du ký dài hơi, phong phú, hấp dẫn như: Hạn mạn du ký (Nguyễn Bá Trác), Du
hành xứ Lào (Phạm Quỳnh), Ai Lao hành trình (Trần Quang Huyến)…
- Dòng du ký hướng tới khảo sát, giới thiệu cả một vùng văn hóa rộng lớn:
Hành trình mạn ngược từ Cao Bằng xuống Phú Thọ (Thái Phong Vũ Khắc Tiệp),
Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang (Nguyễn Văn Bân)…
- Dòng du ký thiên về khảo cứu danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích
liên quan tới một địa danh cụ thể: Ba nà du ký (Huỳnh Bảo Hòa), Bài ký chơi Cổ
Loa, Cuộc đi chơi năm tầng núi (Tùng Vân)…
- Dòng du ký mà yếu tố “vị nghệ thuật” chiếm quan trọng như: Trẩy chùa
Hương (Thượng Chi), Cuộc chơi trăng sông Nhuệ (Mai Khê)…
Như vậy, với 62 bài du ký đã cho thấy rõ diện mạo của một thể tài văn
chương xuất hiện trên báo chí quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Ngoài nội dung hiện
thực phản ánh rộng lớn, mới mẻ, thể du ký trên Nam Phong tạp chí còn ghi dấu
sự tìm tòi, thử nghiệm của các tác giả trước lối viết theo hướng hiện đại. Ở mức
độ nào đó, ta có thể khẳng định sự phát triển của thể du ký trên tạp chí Nam
Phong đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. Trải
qua hơn 70 năm, đến nay bộ dy ký trên Nam Phong tạp chí vẫn là một kho tư
liệu quý, một chứng tích của thời gian. “Bộ du ký này là một sự tập hợp một lúc
nhiều giá trị: văn học sử, xã hội học, văn hóa học, dân tộc học, địa lý, phong
tục… Và tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước thể hiện một cách hồn nhiên nhất.
Người xưa viết du ký trước hết là một cách cảm nhận không gian, còn người nay
đọc du ký sẽ ám ảnh hơn về cảm giác thời gian” (Vũ Tuấn Anh).
23
24
Chương II: Du ký trên Nam Phong tạp chí - Bức tranh hiện
thực rộng lớn
2.1. Các giá trị và hiện thực non sông đất nước trong du ký
2.1.1 Các giá trị
2.1.1.1. Giá trị địa lý
Các tác giả du ký khi dừng chân trước mỗi vùng đất, mỗi địa danh thường
không chỉ dừng lại ở việc miêu tả phong cảnh, cuộc sống nơi ấy, mà họ còn ghi
lại những dữ liệu mang giá trị địa lý. Bởi vậy, người đọc có thể tìm thấy trong
các trang du ký những số liệu thống kê về đất đai, dân cư, về địa thế, về khí hậu,
tài nguyên…
Tác giả Nguyễn Bá Trác trong Hạn mạn du ký, khi giới thiệu về thành Bắc
Kinh của Trung Quốc đã miêu tả một cách, chi tiết cụ thể: “Kinh thành chu vi có
40 dặm, thành cao 35 thước rưỡi. Chia ra làm 9 cửa. Chính nam là cửa Chính
Dương, nam chi tả là cửa Sùng Văn, nam chi hữu là cửa Tuyên Vũ. Đông là cửa
Triêu Dương và cửa Đông Trực, Chính tây là cửa Phụ Thành và cửa Tây
Trực…”[29,235].
Phạm Quỳnh trong Du lịch xứ Lào cũng không quên ghi lại những dữ liệu
địa lý của nước bạn láng giềng như: Diện tích Ai Lao là 214.000 km
2
, tổng số
dân Ai Lao khoảng 875.000 người, khí hậu thì tùy nơi thung lũng hay cao
nguyên mà khác nhau, cả nước Ai Lao có con sông lớn nhất chảy qua là một bộ
phận của sông Cửu Long dài 1.300 cây.
Hay khi nói về người Khách trên nước mình, Phạm Quỳnh đã dẫn ra những
con số cụ thể, để cho thấy, sự bành trướng, xâm chiếm của người Khách đối với
dân ta: “Hải Phòng tức là chợ Lớn Bắc Kỳ có 8.991 người khách, mà Chợ Lớn
Nam Kỳ có những 75.000 khách với 4.873 người Minh Hương! Hà Nội có 3.377
người khách với 825 người Minh Hương, và Sài Gòn có những 22.079 người
khách với 677 người Minh Hương” [30,151] (Một tháng ở Nam Kỳ).
25