Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

bài thu hoach đề tài Nghề thẩm phán – Sinh viên Luật và cơ hội trở thành thẩm phán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.05 KB, 21 trang )

Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
A. MỞ ĐẦU
Nghề thẩm phán là một nghề cao quý, thẩm phán mang tư cách nhân danh
pháp luật của nhà nước để xét xử, ra bản án kết tội hoặc các quyết định cần thiết
khác trong quá trình xét xử, thẩm phán được xem là nghề rất danh dự. Thẩm
phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động
tố tụng, vì vậy bên cạnh số lượng, chất lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như
cách thức tổ chức, cơ chế vận hành và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm
phán là yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng xét xử. Tính đến nay cả
nước có 4557 Thẩm phán, một con số không phải là nhiều so với các sinh viên
có bằng cử nhân luật tốt nghiệp ra trường, trình độ và năng lực của các Thẩm
phán hiện nay 100% có trình độ Đại học luật hoặc tương đương. Theo đánh giá
hàng năm thì số Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ chiếm trên 90%. Mặc dù số
lượng và chất lượng Thẩm phán được nâng lên một bước cơ bản so với trước
đây, nhưng với số lượng và chất lượng như hiện nay thì gần như đội ngũ thẩm
phán của nước ta chưa đáp ứng được những đòi hỏi cơ bản, đặc biệt là trong thời
kì hội nhập kinh tế quốc tế.
Là một sinh viên luật đang ngồi trên nghế nhà trường thì bản thân tác giả
cũng nhận thức được ý nghĩa của việc học ngành luật cũng như những ngành
nghề có thể làm khi có bằng tốt nghiệp để từ đó định hướng được nghề nghiệp
cho chính bản thân mình sau khi tốt nghiệp. Một trong những ngành nghề mà tác
giả đặc biệt quan tâm đó là nghề Thẩm phán. Qua đề tài “Nghề thẩm phán –
Sinh viên Luật và cơ hội trở thành thẩm phán” tác giả muốn giúp cho người
đọc có thể nhận thức một cách đầy đủ hơn về nghề thẩm phán cũng như những
điều kiện và cơ hội để trở thành thẩm phán.
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về thẩm phán
1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam
Cách đây 65 năm, Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, đã mở ra kỷ
nguyên mới đối với đất nước ta – Kỷ nguyên độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã


hội, Cách mạng tháng 8 thành công xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến,
lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam) là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Để xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước, ban hành pháp luật bảo vệ
thành quả cách mạng, ngày 13/9/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành
Sắc lệnh số 33/SL thiết lập các Tòa án quân sự. Bằng sắc lệnh này, trên toàn
lãnh thổ Việt Nam, ở cả ba miền: Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ lúc đó đều thiết lập
các Tòa án quân sự với nhiệm vụ “xét xử tất cả những người nào phạm vào
một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa”.Việc ra đời của các Tòa án này đã góp phần trấn áp bọn phản cách mạng
cấu kết với thực dân Pháp nhằm xâm lược đất nước ta. Đó là mốc son đánh dấu
sự ra đời của ngành Tòa án Việt Nam.
Nhằm nâng cao hiệu lực của Tòa án, Ngày 24/01/1946 Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các tòa án và các ngạch
Thẩm phán. Ngày 22/5/1950, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành Sắc
lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Theo sắc lệnh này, thì
tổ chức hệ thống Tòa án có Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Hội đồng phúc án
và Phụ thẩm nhân dân. Bên cạnh sự phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam thì
các đạo luật về tổ chức hệ thống Tòa án qua các thời kỳ cũng được ban hành
như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1981, Luật tổ chức Tòa án năm 1992, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Đây chính là những mốc lịch sử quan trọng,
đánh dấu sự trưởng thành của ngành Tòa án Việt Nam. Và cho đến nay, Ngành
Tòa án Việt Nam bao gồm hệ thống Tòa án nhân dân được tổ chức từ trung
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
ương đến cấp huyện, hệ thống Tòa án quân sự, từ Tòa án quân sự trung ương
đến các Tòa án khu vực.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của nghề Thẩm phán gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam
Như chúng ta đã biết thẩm phán là những người làm việc tại tòa án cho

nên lịch sử hình thành và phát triển của nghề thẩm phán gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của hệ thống tòa án ở Việt Nam. Sự điều chỉnh của pháp
luật dẫn đến sự thay đổi cơ cấu tổ chức và hoạt động của tòa án cũng tác động
đến sự thay đổi đối với nghề thẩm phán.
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 của chủ tịch Chính phủ về tổ chức các
tòa án và các ngạch Thẩm phán thì có quy định về ngạch thẩm phán:
Pháp luật quy định có hai ngạch thẩm phán, đó là ngạch sơ cấp và ngạch
đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm việc tại tòa sơ cấp. Thẩm phán đệ nhị cấp làm
việc ở tòa đệ nhị cấp và tòa thượng thẩm.
Các thẩm phán chia thành hai loại: Thẩm phán buộc tội và thẩm phán xử
án. Thẩm phán của tòa đệ nhị cấp và tòa thượng thẩm do Chủ tịch nước bổ
nhiệm. Thẩm phán của tòa sơ cấp do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm. Các phụ
thẩm nhân dân khi tham gia xét xử tiểu hình chỉ có quyền đóng góp ý kiến chứ
không có quyền quyết định, còn khi tham gia xét xử đại hình thì có quyền quyết
định cùng thẩm phán.
Sau đó Hiến Pháp năm 1946 ra đời thì cùng với Sắc lệnh số 13/SL quy
định về tổ chức các tòa án và các ngạch Thẩm phán trong đó thì Thẩm phán đều
do Chính phủ bổ nhiệm.
Ngày 22/5/1950, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành Sắc lệnh số
85/SL về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Theo sắc lệnh này thì có quy
định một số vấn đề khác liên quan đến thẩm phán như khi xét xử thì hội thẩm
nhân dân ngang quyền với thẩm phán, khi xét xử hoặc bào chữa thẩm phán và
luật sư không mặc áo chùng đen nữa…
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
Tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định chế độ bầu thẩm
phán thay cho chế độ bổ nhiệm trước đó; thẩm phán toà án nhân dân địa phương
do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; các tòa án nhân dân được tổ chức theo
đơn vị hành chính – lãnh thổ; việc quản lí về tổ chức của các tòa án nhân dân địa
phương được giao cho Tòa án nhân dân tối cao.
Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981 vẫn giữ nguyên chế độ bầu thẩm

phán như Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960. Chỉ đến khi Luật tổ chức tòa
án nhân dân năm 1992 ra đời thì chế độ bổ nhiệm thẩm phán được thay thế cho
chế độ bầu thẩm phán trước đó. Tất cả các thẩm phán của tòa án nhân dân các
cấp đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Để thực hiện các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của đảng về xây dựng, hoàn
thiện bộ máy nhà nước cũng như những yêu cầu cụ thể đổi mới hoạt động cải
cách tư pháp đã được đề ra trong Văn kiện của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng cộng sản Việt Nam, trong nghị quyết số 08 – NQ/TW nhày
02/01/2002 của Bộ chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới” và cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992 đã được sử đổi, bổ sung
năm 2001 về tổ chức và hoạt độnng của tòa án nhân dân, Quốc Hội khóa X, kì
họp thứ 11 đã thông qua Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002.
So với Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1992 thì Luật tổ chức tòa án
nhân dân năm 2002 có những quy định mới về Thẩm phán như: Luật tổ chức tòa
án nhân dân năm 2002 vẫn quy định chế độ bổ nhiêm thẩm phán nhưng khác
trước đây là Chủ tịch nước chỉ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thẩm phán
tòa án nhân dân tối cao còn thẩm phán các tòa án nhân dân địa phương, thẩm
phán tòa án quân sự quân khu và tương đương, các tòa án quân sự khu vực do
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề
nghị của các hội đồng tuyển chọn thẩm phán; Quy định tiêu chuẩn hóa đội ngũ
thẩm phán ngoài những tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức,
sức khỏe, các thẩm phán còn phải có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về
nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật;
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
mà gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi hoàn thiệt hại theo quy định của
pháp luật…
=> Tóm lại, sự hình thành và phát triển của nghề thẩm phán luôn gắn liền
với sự hinh thành và phát triển của tòa án nhân dân nói chung và quá trình hình
thành và phát triển của bộ máy nhà nước nói riêng. Cùng với các chức danh

khác thi Thẩm phán đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Định nghĩa về thẩm phán
Theo khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc Hội số
02/2002/PL-UBTVQH ngày 4 tháng 10 năm 2002 về Thẩm phán và hội thẩm
tòa án nhân dân thì :
“Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền
của Toà án”.
Như vậy có thể thấy một số đặc điểm của thẩm phán, đó là:
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật.
Thẩm phán có nhiệm vụ xét xử vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của tòa án.
Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ
chức Tòa án nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung. Ở nước ta, từ năm
2002, pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân đã ghi nhận thẩm phán
là một chức danh tư pháp mà trước đó thẩm phán chỉ được coi là một chức vụ.
Quy định này đánh dấu một bước ngoặt về nhận thức để xây dựng đội ngũ thẩm
phán chuyên nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động xét xử. Chỉ khi nào coi
thẩm phán là một nghề, có vị trí, chức danh nhất định trong xã hội thì họ mới có
cơ sở và điều kiện pháp lý để làm việc và cống hiến, phấn đấu cho sự nghiệp của
mình. Hoạt động xét xử của thẩm phán là chuyên nghiệp, do đó thẩm phán phải
được tuyển chọn một cách kĩ lưỡng, cẩn thận để tìm được người đủ năng lực,
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức có thể đảm đương tốt vai
trò của thẩm phán. Pháp luật Việt Nam đã lựa chọn cách thức bổ nhiệm để tuyển
chọn thẩm phán và cũng đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể trong việc tuyển chọn thẩm
phán. Về cơ bản những qui định này bước đầu đã tạo ra những cơ sở pháp lý để
hình thành đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp cho hoạt động xét xử. Tuy nhiên,
pháp luật cũng cần quy địng rõ ràng, cụ thể hơn nữa về tính chuyên nghiệp của

thẩm phán trên tất cả các lĩnh vực như: cơ chế bảo đảm, năng lực chuyên môn,
đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng xét xử… để có thể xây dựng đội ngũ thẩm phán
chuyên nghiệp.
II. Thẩm phán theo quy định của pháp luật nước ta
1. Tiêu chuẩn của thẩm phán
a. Tiêu chuẩn chung của thẩm phán tòa án các cấp
Điều 37 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và khoản 1 điều 5 pháp
lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002 quy định:
“Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung
thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử
nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực
tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của Pháp lệnh này, có sức
khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán”.
Đội ngũ thẩm phán là lực lượng chủ yếu của tòa án cùng với hội thẩm
thực hiện chức năng xét xử của tòa án. Vì vậy, thẩm phán phải hội tụ đủ những
tiêu chuẩn cần thiết. Thẩm phán phải trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trung thành với lí tưởng xã hội chủ
nghĩa. Vì công tác xét xử của tòa án cũng là một công tác chính trị, phục vụ
nhiệm vụ chính trị của Đảng và của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của công nhân và
nhân dân lao động. Thẩm phán không chỉ có hiểu biết về chuyên môn nghề
nghiệp cao mà phải có phẩm chất chính trị, đạo đức, phải là người bảo vệ lẽ phải
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
và công lí, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong công tác xét
xử không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Thẩm phán phải có đủ trình
độ nghiệp vụ chuyên môn thành thạo và năng lực xét xử các vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân thì mới có những phán
quyết thấu tình đạt lí, đúng pháp luật. Ngoài kiến thức về khoa hoc pháp lí, thẩm
phán còn phải là người có ý thức pháp luật và văn hóa pháp lí, đồng thời phải am

hiểu các lĩnh vực khoa học xã hội khác như: tâm lí học, xã hội học, đạo đức học…
Theo quy định tại thông tư liên tịch Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Quốc
phòng - Bộ nội vụ - Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam số
01/2003/TTLT-TANDTC-BQP-UBTWMTTQVN hướng dẫn một số quy định
của pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân đã có những quy định hết
sức cụ thể ngoài những tiêu chí cứng quy định ở phần đầu của Điều 37 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân và Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán Tòa án nhân dân thì
Thẩm phán bắt buộc phải những tiêu chí sau:
- Có trình độ cử nhân Luật: được hiểu là phải có bằng tốt nghiệp đại học
về chuyên ngành luật do các trường địa học trong nước có chức năng đào tạo đại
học về chuyên ngành luật theo quy định. Nếu văn bằng đại học chuyên ngành
luật do nước ngoài cấp, thì văn bằng đó phải được công nhận ở Việt Nam.
- Đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử: nghĩa là phải có chứng chỉ đào tạo
nghiệp vụ xét xử do cơ quan có chức năng đào tạo các chức danh tư pháp cấp;
nếu là chứng chỉ do các cơ sở đào tạo của nước ngoài cấp thì phải được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam công nhận.
- Có năng lực làm công tác xét xử: được hiểu là có khả năng hoàn thành
tốt công tác xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền
của Tòa án.
- Có sức khỏe hoàn thành nhiệm vụ được giao: được hiểu là có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, ngoài thể lực cần thiết, còn bao gồm yếu tố ngoại hình đó
là không có dị tật, dị hình ảnh hưởng trực tiếp đến tư thế hoặc việc thực hiện
nhiệm vụ của người Thẩm phán.
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
- Có thời gian công tác pháp luật: được hiểu là thời gian công tác kể từ
khi được xếp vào một ngạch công chức bao gồm Thư ký Tòa án, Thẩm tra
viên… Chính những quy định chặt chẽ như vậy, nên đội ngũ Thẩm phán được
bổ nhiệm hiện nay đã bảo đảm được đầy đủ về năng lực chuyên môn, nắm vững
được nghiệp vụ kỹ năng xét xử các vụ án góp phần vào việc hoàn thành tốt
nhiệm vụ của ngành Tòa án mà Đảng và Nhà nước giao phó.

b. Tiêu chuẩn của thẩm phán tòa án nhân dân các cấp
Căn cứ vào nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của từng cấp tòa án, trên cơ sở tiêu
chuẩn chung của thẩm phán, pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân
năm 2002 và pháp lệnh số 12/2011/UBTVQH12 sửa đổi, bổ sung một số điều
của pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm của tòa án nhân quy định tiêu chuẩn cụ thể
của thẩm phán tòa án nhân dân các cấp như sau:
* Thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện:
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 điều 5 pháp lệnh Thẩm phán
và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002, có thời gian làm công tác pháp luật từ
bốn năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực, thì
có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân cấp
huyện; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và
bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự khu vực.
* Thẩm phán tòa án nhân dân cấp tỉnh:
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm
phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002 và đã là Thẩm phán sơ cấp ít nhất là
năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được
tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu
người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự.
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, người có
đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh này và đã có thời gian
làm công tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và
giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của
pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung
cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể
được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án quân sự.

* Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao:
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm
phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002 và đã là Thẩm phán trung cấp ít
nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương, thì
có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm
làm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương.
Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, người
có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh này và đã có thời
gian làm công tác pháp luật từ mười lăm năm trở lên, có năng lực xét xử những
vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án quân sự trung ương, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì
có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương.
 Như vậy, khác với Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân
năm 1993, Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002 đã quy
định việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ thẩm phán. Trong nhiều tiêu chuẩn của
thẩm phán thì có hai tiêu chuẩn hoàn mới đáng lưu ý là:
- Thứ nhất, thẩm phán phải là người có trình độ cử nhân luật và đã được
đào tạo về nghiệp vụ xét xử.
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
- Thứ hai, thảm phán tòa án nhân dân cấp trên được tuyển chon và bổ
nhiệm chủ yếu từ nhũng người là thẩm phán tòa án nhân dân cấp đưới trực tiếp.
Những quy định trên đòi hỏi thẩm phán phải có trình độ nghiệp vụ chuyên
môn, kinh nghiệm xét xử cũng như kinh nghiệm sống phong phú nhằm nâng cao
hiệu quả trong công tác xét xử.
2. Hội đồng tuyển chọn thẩm phán
* Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân gồm có:
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân gồm có:

- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán
Tòa án quân sự trung ương;
- Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc
Tòa án nhân dân;
- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa
án quân sự.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm việc theo chế độ tập thể. Quyết định
của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên biểu
quyết tán thành.
* Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán
Toà án quân sự trung ương.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà
án quân sự trung ương gồm có Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm Chủ tịch,
đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Ban chấp hành trung ương Hội luật gia Việt Nam là uỷ viên.
Danh sách uỷ viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quyết định theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà
án quân sự trung ương có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
- Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao, Thẩm phán Toà án quân sự trung ương theo đề nghị của Chánh án Toà án
nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm;
- Xem xét những trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm
phán Toà án quân sự trung ương có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán
quy định tại khoản 2 Điều 29 của Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân
dân năm 2002 theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và trình Chủ
tịch nước miễn nhiệm.
- Xem xét những trường hợp Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm

phán Toà án quân sự trung ương có thể bị cách chức chức danh Thẩm phán quy
định tại khoản 2 Điều 30 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Toà án
nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước cách chức.
* Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán
Toà án nhân dân cấp huyện:
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án
nhân dân gồm có Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm Chủ
tịch, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo Sở Nội vụ, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Hội luật gia cấp tỉnh là ủy viên.
Danh sách ủy viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán
sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định
theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa
án nhân dân có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán
sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp
tỉnh và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm;
- Xem xét những trường hợp Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp
thuộc Tòa án nhân dân có thể được miễn nhiệm chức danh Thẩm phán quy định
tại khoản 2 Điều 29 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân cấp tỉnh và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao miễn nhiệm;
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
- Xem xét những trường hợp Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp
thuộc Tòa án nhân dân có thể bị cách chức chức danh Thẩm phán quy định tại
khoản 2 Điều 30 của Pháp lệnh này theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
cấp tỉnh và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cách chức.
3. Nhiệm vụ của thẩm phán
Theo điều 11 Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002:
Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác
thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án nơi mình

công tác hoặc Toà án nơi mình được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thẩm phán do pháp luật quy định.
4. Quyền hạn của thẩm phán
Theo điều 12 Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002:
Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những
quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy
định của pháp luật.
5. Những việc thẩm phán không được làm
Theo điều 15 Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002:
Thẩm phán không được làm những việc sau đây:
- Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm;
- Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm
cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật;
- Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng
của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án;
- Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không
vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền;
- Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án
mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
6. Cơ chế xử lý vi phạm liên quan đến Thẩm phán
Mặc dù còn nhiều khó khăn và thách thức đối với đội ngũ Thẩm phán nói
riêng và cán bộ ngành Tòa án nói chung, song việc giáo dục chính trị tư tưởng
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán luôn được lãnh đạo Tòa án nhân dân tối
cao hết sức coi trọng. Bên cạnh việc ban hành các quy tắc nghề nghiệp, quy tắc
ứng xử, Tòa án nhân dân tối cao hàng năm còn mở nhiều đợt tập huấn về chuyên
môn, các cuộc hội thảo nhằm nâng cao kỹ năng cho các Thẩm phán trong việc
giải quyết các vụ án theo trình tự thì Tòa án nhân dân tối cao cũng có những cơ
chế xử lý hết sức nghiêm khắc đối với các vi phạm liên quan đến việc vi phạm
đạo đức nghề nghiệp người Thẩm phán như:

- Đối với những Thẩm phán có những hành vi tiêu cực thì lãnh đạo Tòa án
nhân dân tối cao kiên quyết xử lý nghiêm hoặc không can thiệp vào việc xử lý
của các cơ quan tố tụng khác.
- Hàng năm khi bình xét thi đua, nếu đơn vị và Thẩm phán nào để số
lượng án bị hủy quá 1,16% và án bị sửa quá 4,2% do lỗi chủ quan của Thẩm
phán thì đơn vị đó không được xét thi đua và Thẩm phấn đó sẽ phải làm kiểm
điểm và cũng không được bình xét thi đua.
- Trong một nhiệm kỳ 5 năm Thẩm phán nào bị sửa, hủy án quá tỷ lệ quy
định hoặc cho bị cáo hưởng án treo không đúng gây dư luận không tốt tại địa
phương thì Thẩm phán đó sẽ không được tái bổ nhiệm làm Thẩm phán (Trong
năm 2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cũng quyết định chưa tái bổ
nhiệm đối với 82 Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương với lý do trên).
Tuy nhiên, do đặc thù nghề nghiệp của Thẩm phán thường xuyên đối mặt
với mặt trái của xã hội, để bảo vệ công lý không ít Thẩm phán đã bị xâm hại đến
quyền lợi của mình kể cả về danh dự, nhân phẩm, tính mạng và sức khỏe nhưng
cho đến nay việc xử lý nghiêm những hành vi đó là hết sức cần thiết, nhưng theo
chúng tôi Nhà nước cần quy định chính sách bảo vệ Thẩm phán hạn chế tối đa
những hành vi xâm phạm đến quyền lợi của Thẩm phán.
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
7. Trang phục của thẩm phán
Trang phục của thẩm phán được quy định ở nghị quyết 218/NQ –
UBTVQH9 ngày 25/8/1994 của ủy ban thường vụ quốc hội về trang phuc đối
với các tòa án, giấy chứng minh thẩm phán và hội thẩm. Được hướng dẫn thực
hiện tại thông tư số 01/2003/TTLT-TANDTC-BTC ngày 09/01/2003.
III. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp thẩm phán
Mỗi xã hội đều có quan niệm riêng về phạm trù đạo đức. Đạo đức xã hội
vừa mang tính xã hội vừa mang tính giai cấp sâu sắc. Chính vì vậy đạo đức nghề
nghiệp của Thẩm phán ngoài đặc trưng riêng của mình, cũng chứa đựng những
yếu tố chung của đạo đức xã hội. Đặc trưng riêng của đạo đức nghề nghiệp
Thẩm phán là sự gắn liền với hoạt động xét xử của Thẩm phán. Mặt khác đạo

đức nghề nghiệp Thẩm phán còn được hình thành và phát triển thông qua quá
trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện của bản thân mỗi Thẩm phán.
Theo tác giả, khi nói đến đạo đức nghề nghiệp người Thẩm phán ngoài
những quy định của hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án, thì mỗi Thẩm phán đương
chức cần nhớ tới ý kiến của ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh ghi
trong tờ trình gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi có Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/02/1946 là: “Thà không có Thẩm phán còn hơn có người mà vô tài, vô
hạnh. Khi lập một hạng người có quyền xét xử người khác, bản bộ thấy rõ
trách nhiệm đối với nội trị và cả đối với ngoại giao nữa…”. Như vậy, khi nói
đến đạo đức nghề nghiệp Thẩm phán thì đầu tiên phải nói đến phẩm chất trung
thực, phẩm chất tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật khách quan, tôn trọng chân
lý trong cuộc sống và có cái tâm trong sáng. Người Thẩm phán có trung thực, có
tâm trong sáng thì mới có dũng cảm để bảo vệ lẽ phải, có trung thực, trong sáng
thì mới không bảo thủ cứng nhắc khi giải quyết công việc được giao. Người
Thẩm phán là người nhân danh Nhà nước để quyết định một người có phạm tội
hay không phạm tội và ra một bản án để trừng trị kẻ phạm tội bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm cho pháp luật của Nhà nước
được nghiêm chỉnh thi hành, muốn vậy người Thẩm phán cũng phải hết sức công
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
bằng, vô tư và khách quan để ra một bản án thấu tình đạt lý. Người Thẩm phán,
phải luôn hiểu rõ nghề nghiệp mình đang làm là hết sức cao quý, cần phải trân
trọng và mong muốn được làm nghề với tất cả sự tâm huyết với mong muốn đạt
được mục đích duy nhất đó là giúp cho mọi người luôn hướng tới cái thiện, vì sự
tốt đẹp, vì sự cao quý vươn tới các giá trị Chân – Thiện – Mỹ của nhân loại.
Đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán chính là sự phấn đấu để cố
gắng hạn chế và tiến tới loại bỏ nỗi đau khổ, bất hạnh ra khỏi đời sống của con
người thông qua các bản án thấu tình đạt lý mang tính giá trị cao. Đạo đức nghề
nghiệp của người Thẩm phán còn thể hiện ở sự vượt qua mọi khó khăn, sẵn sàng
hi sinh lợi ích cá nhân, khắc phục những mất mát, thiệt thòi trong nghề nghiệp,
không ngừng học hỏi trau dồi kiến thức chuyên môn, tạo được bản lĩnh vững

vàng, có lương tâm, hiểu biết sâu sắc về xã hội, trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp kiên quyết bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa, thì người thẩm phán đó
ngoài đạo đức ra còn có thể được coi là người Thẩm phán có văn hóa.
IV. Thực trạng đối với nghề thẩm phán hiện nay và cơ hội của sinh viên tốt
nghiệp cử nhân luật
1. Thực trạng đội ngũ Thẩm phán ở Việt Nam
Đi đôi với với việc kiện toàn và phát triển về tổ chức ngành Tòa án Việt
Nam, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ ngành Tòa án, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán các cấp. Đảm bảo cho
cán bộ, công chức ngành Tòa án, trước hết là các Thẩm phán phải tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có
kiến thức pháp lý và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, kiên quyết bảo vệ pháp
chế Xã hội chủ nghĩa.
Tính đến nay cả nước có 4557 Thẩm phán. Trình độ và năng lực của
các Thẩm phán hiện nay 100% có trình độ Đại học luật hoặc tương đương. Theo
đánh giá hàng năm thì số Thẩm phán hoàn thành nhiệm vụ chiếm trên 90%. Mặc
dù số lượng và chất lượng Thẩm phán được nâng lên một bước cơ bản so với
trước đây, nhưng so với yêu cầu thực tế thì: thực trạng đội ngũ Thẩm phán
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
hiện nay vẫn còn hạn chế về chất lượng và số lượng. Điều đó thể hiện: theo sự
phân bổ của Nhà nước thì số lượng Thẩm phán theo phân bổ là Tòa án nhân dân
tối cao là 120 Thẩm phán hiện mới có 108 Thẩm phán, Tòa án nhân dân cấp tỉnh
là 1118 Thẩm phán hiện mới có 1017 Thẩm phán và Tòa án nhân dân cấp huyện
là 3319 Thẩm phán hiện mới có 2613 Thẩm phán. Như vậy theo phân bổ thì số
lượng Thẩm phán của cả nước là 4557 Thẩm phán, nhưng thực tế hiện chúng ta
mới chỉ có 3738 Thẩm phán còn thiều 819 Thẩm phán các cấp. Đến năm 2010,
nếu tính theo mức tăng trung bình số lượng vụ án các loại thụ lý ở cấp sơ thẩm,
dự báo các toà án nhân dân các cấp sẽ phải thụ lý khoảng 450.000 vụ. Nếu cứ
mỗi thẩm phán giải quyết được trung bình 5 vụ việc/tháng, thì đến năm 2010, số
lượng thẩm phán cần có để đảm bảo tiến độ và chất lượng xét xử sẽ vào khoảng

7.000 người.
Như vậy, từ nay đến năm 2010, ngành toà án cần được bổ sung khoảng
3.500 thẩm phán để đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội chưa kể phải bổ
sung cán bộ để thay thế cho khoảng 600 thẩm phán về hưu hoặc chuyển công tác
khác. Tổng cộng số lượng Thẩm phán cần đào tạo từ nay đến năm 2010 là 4.100
người.
Về chất lượng vẫn có nhiều Thẩm phán không hoàn thành nhiệm vụ dẫn
đến việc hiện vẫn còn 82 Thẩm phán chưa được tái bổ nhiệm trong năm 2009,
thậm chí có những Thẩm phán còn bị truy tố trước pháp luật.
Thực tế có không ít các Thẩm phán khi mới được bổ nhiệm còn bỡ ngỡ,
yếu về điều khiển phiên tòa, việc áp dụng, vận dụng pháp luật chưa nhuần
nhuyễn. Tình trạng này chỉ được khắc phục khi Nghị quyết 49 – NQ/TƯ ngày
02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định Tòa án là
trung tâm của cải cách tư pháp và hoạt động xét xử là trọng tâm, nâng cao chất
lượng đào tạo Thẩm phán tại Học viện Tư pháp, các Thẩm phán trước khi được
bổ nhiệm đã có thời gian một năm theo học tại Học viện với những chương trình
do Khoa đào tạo Thẩm phán xây dựng như: các kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, điều
khiển phiên tòa, định tội danh, quyết định hình phạt và kỹ năng viết bản án Hình
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
sự, Dân sự, Kinh doanh thương mại, Hành chính, Lao động … Chính vì vậy,
chất lượng đội ngũ Thẩm phán ngày càng được nâng cao khi làm nhiệm vụ xét
xử các loại án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân, hạn chế tới mức thấp nhất
tỷ lệ án bị sửa, hủy tránh được oan sai.
2. Cơ hội của sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật với nghề thẩm phán
Hiện nay thì sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật có thể lựa chọn cho mình rất
nhiều các ngành nghề làm ở những nơi khác nhau như Toà án, Viện kiểm sát
nhân dân, các Phòng, Sở Tư Pháp, cơ quan Công an, hoặc trở thành luật sư làm
việc tại các văn phòng luật sư hay trong các đoàn luật sư, chuyên viên tư vấn
pháp lí… Nếu có ai đó muốn trở thành thẩm phán thì ngoài tấm bằng cử nhân
luật cần phải đáp ứng đủ những tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, phẩm chất

đạo đức, sức khỏe, các thẩm phán còn phải được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có
thời gian công tác thực tiễn theo quy định của pháp luật.
Phải lưu ý là “Thời gian làm công tác pháp luật” là thời gian công tác kể
từ khi được xếp vào một ngạch công chức bao gồm Thư ký Toà án, Thẩm tra
viên, Chấp hành viên, Chuyên viên hoặc nghiên cứu viên pháp lý, Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Công chứng viên, Thanh tra viên, cán bộ bảo vệ an ninh trong
Quân đội, cán bộ pháp chế, giảng viên về chuyên ngành luật. Thời gian được
bầu hoặc cử làm Hội thẩm, thời gian làm Luật sư cũng được coi là “thời gian
làm công tác pháp luật”.
Như vậy sau khi ra trường với tấm bằng cử nhân luật thì mỗi sinh viên có
nguyện vọng trở thành thẩm phán phải công tác ở một trong các ngành nghề nêu
trên. Ít nhất là trong thời hạn 4 năm và nếu đáp ứng được tiêu chuẩn khoản 1
điều 5 pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002, có năng lực
xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại
ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án
quân sự. Và làm được Thẩm phán sơ cấp thì cá nhân ấy mới có cơ hội để trở
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
thành Thẩm phán trung cấp hay Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán
Tòa án quân sự trung ương.
Như vậy có thể thấy cơ hội trở thành thẩm phán không dành riêng cho bất
cứ cá nhân nào sau khi có bằng cử nhân luật tốt nghiệp ra trường, nghề thẩm
phán là một nghề cao quý, cần phải có sự yêu thích, kiên trì, bền bỉ và phẩm chất
đạo đức tốt. Hiện nay thẩm phán đang thiếu cả về số lượng và chất lượng nên
đối với mỗi sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật ai có mong muốn trở thành thẩm
phán hãy theo đuổi ước mơ và nguyện vọng của mình, không những thế mà bản
thân cá nhân cần phải luôn nỗ lực phấn đấu vươn lên hoàn thiện cả vê kinh
nghiệm và nâng cao về trình độ. Từ đó có thể được làm việc tại đúng nghề mà
mình yêu thích cũng như xây dựng được đọi ngũ thẩm phán đông đảo về số

lượng và đảm bảo về chất lượng. Góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo
vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân
theo pháp luật.
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
C. KẾT LUẬN
Nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến nghề thẩm phán như: lịch sử
hình thành nghề thẩm phán, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và đặc biệt là
những điều kiện để trở thành thẩm phán không những giúp cho người đọc có
những hiêu biết đầy đủ hơn về tiêu chuẩn, cơ hội để trở thành thẩm phán nhất
là đối với những ai yêu thích nghề này. Việc nghiên cứu này cũng giúp ích rất
nhiều cho bản thân tác giả hiểu biết hơn về nghề thẩm phán, giúp cho tác giả
có động lực và quyết tâm hơn trên con đường định hướng nghề nghiệp của
bản thân. Qua đó cùng nỗ lực hơn trong công cuộc cải cách tư pháp, góp phần
nào đó xây dựng đội ngũ thẩm phán giỏi về kinh nghiệm, chuyên môn, nghiệp
vụ, vững mạnh về đạo đức, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp.
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
- Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
- Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002 (sửa đổi,
bổ sung năm 2011).
- Thông tư liên tịch Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Quốc phòng - Bộ nội
vụ - Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam số 01/2003/TTLT-
TANDTC-BQP-UBTWMTTQVN hướng dẫn một số quy định của pháp lệnh
thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân.
- Giáo trình Luật Hiến pháp trường đại học Luật Hà Nội nhà xuất bản
công an nhân dân năm 2008.
- Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 94-100.
- Bài viết về đào tạo thẩm phán từ trang web: www.hocvientuphap.edu.vn.

- Bài viết về đạo đức nghề nghiệp thẩm phán cơ chế và vấn đề xử lí vi
phạm liên quan đến thẩm phán từ trang web: www.hocvientuphap.edu.vn.
- …
Bài thu hoạch Môn: Thực hành chuyên ngành Luật
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 2
I. Khái quát về thẩm phán 2
1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam 2
2. Lịch sử hình thành và phát triển của nghề Thẩm phán gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án Việt Nam 3
3. Định nghĩa về thẩm phán 5
II. Thẩm phán theo quy định của pháp luật nước ta 6
1. Tiêu chuẩn của thẩm phán 6
2. Hội đồng tuyển chọn thẩm phán 10
3. Nhiệm vụ của thẩm phán 12
4. Quyền hạn của thẩm phán 12
5. Những việc thẩm phán không được làm 12
6. Cơ chế xử lý vi phạm liên quan đến Thẩm phán 12
7. Trang phục của thẩm phán 14
III. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp thẩm phán 14
IV. Thực trạng đối với nghề thẩm phán hiện nay và cơ hội của sinh viên tốt
nghiệp cử nhân luật 15
1. Thực trạng đội ngũ Thẩm phán ở Việt Nam 15
2. Cơ hội của sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật với nghề thẩm phán 17
C. KẾT LUẬN 19
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

×