Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Mối quan hệ giữa luồng vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.91 KB, 77 trang )

Mục lục
Lời Mở Đầu
1
Trong quá trình phát triển kinh tế của bất kì một quốc gia nào thì vấn đề nâng cao
thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả vốn đầu tư luôn là vấn đề cấp bách và có
vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng của các quốc gia dù là quốc gia phát
triển hay đang phát triển , Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó . Ở Việt Nam
sau hơn 20 năm đổi toàn diện nền kinh tế đã thu được rất nhiều kết quả đáng mừng
như : tăng trưởng kinh tế luôn ở tốc độ cao so với các nước trong khu vực và trên
thế giới, đời sống của nhân dân được nâng cao , xuất khẩu tăng mạnh… Đóng góp
không nhỏ trong đó là nhờ hoạt động đầu tư . Trong các chiến lược phát triển của
đảng của nhà nước thì hoạt động đầu tư luôn là một hoạt động rất được coi trọng ,
trong đó các cơ quan quản lý nhà nước luôn giữ vững quan điểm cho rằng vốn đầu
tư trong nước là nguồn vốn có vai trò quyết định tới tạo lập và duy trì một nền kinh
tế phát triển với tốc độ cao . Các chính sách sử dụng và thu hút và sử dụng các
nguồn vốn trong nước đạt được nhiều những kết quả quan trọng , nhờ đó mà cơ sở
hạng tầng không ngừng được cải thiện , tiết kiệm từ các nguồn trong nước được sử
dụng có hiệu quả và một trong những ý nghĩa của việc sử dụng vốn trong nước thời
gian qua đó là việc tạo sức hút và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
nước ngoài . Ngoài việc xác định vốn trong nước có vai trò quyết định tới tăng
trưởng kinh tế thì đảng và nhà nước cũng xác định rằng việc sử dụng vốn đầu tư từ
nước ngoài cũng có vai trò quan trọng . Vốn đầu tư nước ngoài được đưa vào nước
ta không những góp phần bổ sung cho sự thiếu hụt vốn đầu tư trong nước mà còn
giúp nguồn vốn trong nước sử dụng hiệu quả hơn . Vì vậy ta có thể thấy rằng
nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài có mối quan hệ khăng khít trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Nhưng vấn đề đặt ra mà nhiều mà quản lý cũng đang
gặp khó khăn trong thực tế là làm sao có thể tạo được một cơ cấu hai nguồn vốn
này một cách hợp lý và tăng cường vai trò của mối quan hệ giữa hai nguồn vốn .
Vì những lý do trên chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài : “ Mối quan hệ giữa
luồng vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam “ nhằm đánh giá thực trạng thu hút , sử dụng , vai trò và mối quan hệ


trên thực tế của hai nguồn vốn để có thể đưa ra những cái nhìn khách quan , thực
tế về mối quan hệ giữa hai luồng vốn nói riêng và hoạt động đầu tư ở Việt Nam
nói chung . Từ đó có những kiến nghị về giải pháp cần thiết.
2
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
PGS.TS Từ Quang Phương và TS.Phạm Văn Hùng vì sự giúp đỡ nhiệt tình để
chúng tôi có thể hoàn thành đề tài này.
Nhóm 5
3
Chương 1 Lý luận chung về mối quan hệ giữa đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
1.1Lý luận chung về đầu tư
1.1.1 Khái niệm về đầu tư :
Theo giáo trình kinh tế đầu tư thì đầu tư được đinh nghĩa như sau : Đầu tư nói
chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó
nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra
để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt
được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải
gánh chịu khi tiến hành đầu tư
1.1.2 Khái niệm về nguồn vốn đầu tư : Phần tích lũy của toàn bộ nền kinh tế
được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng
yêu cầu phát triển của xã hội
1.1.3 Phân loại về nguồn vốn đầu tư :
- Nguồn vốn trong nước
- Nguồn vốn nước ngoài
1.2Nguồn vốn trong nước
1.2.1 Khái niệm và phân loại nguồn vốn trong nước
1.2.1.1Khái niệm: Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy nội bộ của nền
kinh tế. Bao gồm tiết kiệm của khu vực tư dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình sản xuất của xã hội.

Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà
nước, nguồn vốn của khu vực tư nhân, và thị trường vốn .
1.2.1.2.Phân loại: Nguồn vốn trong nước được phân chia thành:
-Nguồn vốn nhà nước gồm:
+ Vốn từ ngân sách nhà nước
+ Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
+ Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
- Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
- Thị trường vốn
1.2.2. Đặc điểm của vốn đầu tư trong nước
4
1.2.2.1. Nguồn vốn nhà nước :
Nguồn vốn nhà nước là nguồn vốn thuộc sở hữu của khu vực nhà nước, cụ thể là
các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng đầu tư phát triển và vốn
đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước.
1.4.2.1.1. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được hình thành từ nhiều nguồn thu khác nhau
như thuế, phí tài nguyên, bán hay cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước...
Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư.
Nguồn vốn này giữ một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của mỗi quốc gia. Nó thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia
của nhà nước. Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung phí đầu tư
cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt
trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của
điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp).

Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong
những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào
tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh
phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các
doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang
cơ cấu mới hợp lý hơn. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước sẽ chi cho các khoản trợ
giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp, thất nghiệp hay có hoàn
cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho
các mặt hàng thiết yếu,các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính
sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào lũ lụt. Đối với các hoạt động quốc
phòng và an ninh quốc gia thì ngân sách nhà nước là nguồn cung chủ yếu không
thể thiếu.
1.2.2.1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển
từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự
án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi
như một khoản chi của ngân sách nhà nước, vì cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi
5
suất cho vay thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng, nên Nhà nước phải
dành ra một phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất.
• Nguồn vốn này được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Vốn ngân sách nhà nước hàng năm dành cho tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản.
- Vốn huy động theo chủ trương chính sách của chính phủ .
- Vốn vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho tín
dụng đầu tư phát triển .
- Vốn thu hồi nợ (gốc và một phần lãi vay) cho chương trình tín dụng ưu đãi
của nhà nước đầu tư đã đầu tư trước đây đến hạn trả nợ.
- Các nguồn vốn theo quy định của chính phủ.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong
việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước về chi ngân sách nhà nước

trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm
của người sử dụng vốn. Vì cơ chế của tín dụng là đi vay có hoàn trả kèm lãi suất,
nên dưới áp lực này buộc các đối tượng vay vốn phải tăng cường hạch toán kinh tế,
giám sát chặt chẽ việc sử dụng các khoản vay để bảo đảm khả năng thanh toán nợ.
Ngoài ra, nguồn vốn này còn có 1 vai trò đáng kể trong việc phục vụ công tác
quản lý và điều tiết kinh tê vĩ mô: không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế
mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Khả năng điều tiết nền kinh tế của
Nhà nước sẽ ngày càng được cải thiện khi các khoản vay được hoàn trả thay vì
việc cấp phát không hoàn lại như trước đây, cho nên đầu tư của Nhà nước vào các
ngành then chốt, các vùng trọng điểm, các vùng khó khăn...tăng lên sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế
1.2.2.1.3. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu bao gồm từ khấu
hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo Bộ kế
hoạch đầu tư, nguồn vốn của Doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm khoảng 14 –
15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Vai trò chủ yếu của nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là đầu tư
chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ
của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp góp phần giải phóng và phát triển
sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần
quyết định vào phục hồi trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân
sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá
đói giảm nghèo, chống lạm phát...
6
1.2.2.2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần
tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Chúng đóng một vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở
mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch
vụ và vận tải trên các địa phương. Kinh tế dân doanh lại là khu vực phát triển rất

nhanh và năng động, tạo ra công ăn việc làm cho nền kinh tế.Với việc xây dựng lại
các ngành nghề thủ công truyền thống sẽ giải quyết thất nghiệp tại các vùng nông
thôn, huy động nhiều nguồn lực xã hội tập trung đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với các doanh nghiệp dân doanh, phần tích
luỹ của các doanh nghiệp này có đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn
xã hội. Ở một mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong những nguồn
tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
1.2.2.3.Thị trường vốn
Thị trường vốn bao gồm : thị trường chứng khoán (TTCK), thị trường bất
động sản, thị trường thuê mua tài chính, và các định chế tài chính khác (NHTM,
công ty bảo hiểm, QTDND…).
Thị trường vốn là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư
– bao gồm cả nhà nước và các loại hình DN. Thị trường vốn mà cốt lõi là TTCK
như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút
mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ
trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền
kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào
có thể làm được.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng
có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng
việc phát hành các chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái… Nó góp phần vào
việc kiềm chế lạm phát do chính phủ không phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông
nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu qủa, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van
điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi có hiệu qủa
hơn.Trên thị trường vốn, bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do
vậy người sử dụng vốn phải quan tâm đến việc sinh lời của mỗi đồng vốn.
1.2.3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong nước.
7

Trước hết chúng ta cần khẳng định: đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một
quốc gia, nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có mối quan hệ hữu cơ,
bổ sung cho nhau trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và nguồn
vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng không thể thiếu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã từng khẳng định: “Sự phát triển của bất cứ
sự vật nào đểu bắt nguồn từ sự chuyển biến, giải quyết các mối quan hệ diễn ra
ngay trong bản thân sự vật đó. Điều này giữ vai trò quyết định tới tồn tại và phát
triển của sự vật”. Cũng giống như vậy, để nền kinh tế một quốc gia có thể tăng
trưởng và phát triển một cách bền vững thì điều đầu tiên cần chú trọng đó chính là
vấn đề phát huy các yếu tố nội lực. Điều đó có nghĩa là vai trò quyết định cho quá
trình tăng trưởng và phát triển đất nước phải đặt lên các nhân tố từ trong nước. Và
nguồn vốn trong nước đã thể hiện được rõ những ưu điểm trong vai trò quyết định
của mình. Với tính chất là nội lực của một quốc gia, chúng ta có thể chủ động
trong việc đầu tư nguồn vốn trong nước vào những lĩnh vực cần thiết để phát triển
nền kinh tế mà không phải chịu bất kì một sự ràng buộc lệ thuộc nào. Hơn nữa,
nguồn vốn trong nước được huy động từ các thành phần kinh tế trong nước nên nó
mang tính ổn định và đảm bảo hơn nguồn vốn từ nước ngoài. Không chỉ có vậy,
vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước còn được thể hiện đặc biệt rõ ràng
hơn trong các ý sau.
Thứ nhấtNguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
Thông qua việc sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước để đầu tư vào nhiều lĩnh vực
của nền kinh tế nguồn vốn đầu tư trong nước đã đóng góp 1 phần lớn vào GDP
toàn xã hội. Cụ thể như việc sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để đầu tư
cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đã tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực khác phát triển. Các dự án xây dựng
kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi nguồn vốn huy động lớn và khả năng thu hồi vốn
chậm, do đó ít doanh nghiệp nào có đủ tiềm lực kinh tế để thực hiện. Vì thế nguồn
vốn trong nước sẽ được đầu tư vào xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản như hệ
thống điện lưới quốc gia, đường xá, giao thông liên lạc... từ đó tạo điều kiện cho

các doanh nghiệp phát triển và xây dựng hoạt động nhà xưởng, mở rộng hoạt động
kinh doanh, qua đó phát triển kinh tế vùng, miền tạo ra nguồn GDP không nhỏ
đóng góp vào tổng GDP của toàn xã hội. Còn nguồn vốn tín dụng nhà nước với ưu
điểm lãi suất thấp đã bổ sung cho các doanh nghiệp một nguồn vốn rẻ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, tranh thủ được các cơ hội tạo thêm lợi nhuận, vốn để
mở rộng qui mô cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó làm tăng doanh
thu đồng thời góp phần làm tăng GDP cho toàn xã hội.
8
Thứ hai ,Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ
cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng
trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đa phần lựa chọn cho mình các ngành,
lĩnh vực có vốn đầu tư không quá lớn, thu hồi vốn nhanh chóng để đầu tư thu lợi
nhuận. Mặt khác, nền kinh tế lại có những ngành vai trò không thể thiếu nhưng đòi
hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn như điện, xi măng, dầu khí; hoặc những ngành lợi
nhuận thu về nhỏ, khả năng thu hồi vốn chậm ví dụ như các công trình công cộng,
các hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết những thất bại của thị trường. Chỉ có
thông qua nguồn vốn trong nước cụ thể là nguồn vốn nhà nước mới có thể đầu tư
vào các vấn đề này. Vì vậy, nguồn vốn trong nước đặc biệt nguồn vốn nhà nước
lúc này sẽ đóng vai trò chủ đạo giúp cân bằng thị trường hàng hóa trong nền kinh
tế, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Không chí có vậy, vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế còn được thể hiện trong việc định hướng cho quá
trình thay đổi cơ cấu kinh tế. Bằng việc nguồn vốn đầu tư trong nước tập trung vào
những ngành quan trọng như công nghiệp, dịch vụ, cơ cấu kinh tế của quốc gia sẽ
từng bước biến chuyển theo định hướng đã đề ra của nhà nước: tăng tỉ trọng công
nghiệp, dịch vụ; giảm tỉ trọng nông nghiệp. Theo đó, nguồn vốn nước ngoài có
được định hướng đầu tư, tiếp tục trợ giúp nguồn vốn trong nước đẩy nhanh thời kì
quá độ đưa nền kinh tế quốc gia tiếp tục phát triển lên một trình độ cao hơn.
Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo sự phát triển toàn diện, không

lệch lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền kinh tế tăng
trưởng, phát triển mộtc cách bền vững
Trong một quốc gia việc phát triển không đồng đều giữa các vùng miền là khó
tránh khỏi. Vì vậy cần có các nguồn vốn đầu tư hợp lí để giảm bớt sự không đồng
đều này, làm cho nền kinh tế trở nên phát triển toàn diện hơn. Đối với những khu
vực vùng sâu, vùng xa nơi mà nền sản xuất còn chưa phát triển, hệ thống giao
thông vận tải, thông tin liên lạc còn lạc hậu thì việc đón nhận nguồn vốn từ nước
ngoài đầu tư vào đây là rất ít có hi vọng. Lí do là nguồn vốn từ nước ngoài thường
chọn những vùng, thành phố trọng điểm nơi mà có hệ thống kết cấu hạ tầng tương
đối phát triển, gần nguồn nguyên liệu và có thị trường tiêu thụ lớn. Lúc này nguồn
vốn đầu tư trong nước sẽ đảm nhận vai trò đầu tư vào các vùng còn khó khăn, kinh
tế chưa phát triển, giúp các vùng miền đó tận dụng và phát huy được thế mạnh, nội
lực của mình. Qua đó sẽ giải quyết công ăn việc làm cho lao động trong vùng,
nâng cao mức sống cũng như trình độ dân trí và từ đó sẽ làm giảm khoảng cách
chênh lệch giữa các vùng. Điều này cho thấy nguồn vốn trong nước đóng vai trò
9
rất quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển và tăng trưởng toàn diện của nền
kinh tế.
Thứ ba ,Nguồn vốn trong nước góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế, đẩy
nhanh tiến trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng
và phát triển kinh tế.
Đầu tư quá mức là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Vốn đầu tư là
yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng đó là nói về
đầu tư có hiệu quả. Còn nếu đầu tư không có hiệu quả, thì chẳng những tăng
trưởng kinh tế phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn, mà còn gây ra lạm phát, xét trên
nhiều mặt lạm phát do "chi phí đẩy" và lạm phát do "cầu kéo". Bản thân vốn đầu tư
sẽ làm cho lạm phát "cầu kéo"; còn đầu tư kém hiệu quả sẽ làm cho lạm phát do
"chi phí đẩy". Lạm phát do quan hệ cung - cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối
thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì
thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất

cao, rất khó trị và việc trị nó thường phải kèm theo cái giá phải trả không nhỏ,
thậm chí còn có thể rơi vào cuộc khủng hoảng. Do đó việc kiểm soát cả về mặt
lượng và mặt chất của việc sử dụng nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước và việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà
nước là một trong những biện pháp được nêu ra để chống lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô.
Một trong số những vai trò không thể không kể đến của nguồn vốn trong nước đối
với tăng trưởng và phát triển kinh tế đó là : nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt
là nguồn vốn dồi dào của khu vực dân cư và tư nhân là tác động lớn nhất thúc đẩy
quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh chóng và đồng bộ.
Từ đó giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của
các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư ,Nguồn vốn trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một trình độ
nhất định tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như tăng
tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tạo nền tảng
vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Nền tảng cơ sở kiến trúc hạ tầng của quốc gia cũng có ảnh hưởng rất lớn tới khả
năng thu hút nguồn vốn, triển khai thực hiện trong các giai đoạn của quá trình sử
dụng vốn đầu tư. Mục tiêu của phát triển kinh tế là phải xây dựng được các cơ sở
kiến trúc hạ tầng kinh tế ở một trình độ nhất định: điện, nước, đường xá giao thông
đi lại, các công trình văn phòng hiện đại, các khu công nghiệp, khu chế xuất tập
trung… để đảm bảo sao cho có thể khai thác tốt nhất các nguồn nguyên nhiên liệu,
nguồn lao động, công nghệ… cần thiết.
10
Bên cạnh các khu vực kinh tế nổi bật, trọng điểm dễ thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài luôn còn có các khu vực có tiềm năng nhưng còn đôi chút hạn chế về
địa hình, công nghệ, lực lượng lao động… thì lúc này vai trò của nguồn vốn trong
nước để khắc phục các hạn chế này là rất quan trọng. Nguồn vốn trong nước sẽ
đóng vai trò mở đường, đầu tư vào việc san lấp và giải phóng mặt bằng, xây dựng

các kết cấu hạ tầng cơ bản, đầu tư đổi mới trang thiết bị trong các nhà xưởng và
mở các lớp đào tạo tay nghề cho đội ngũ công nhân. Nhờ có nguồn vốn trong nước
mà các vấn đề về địa điểm, công nghệ, trình độ tay nghề của đội ngũ lao động
được giải quyết, tạo nên một môi trường đầu tư thuận lợi đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Hơn nữa việc đó cũng tạo cho quốc gia một lợi thế so sánh về môi
trường đầu tư với các nước trong khu vực, tạo ấn tượng trong con mắt các nhà đầu
tư nước ngoài. Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vùng có điều kiện chưa thật
sự thuận lợi đã có khả năng thu hút và đón nhận vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội
phát triển kinh tế của vùng.
Thứ năm ,Sự lớn mạnh, ổn định nguồn lực vốn trong nước giúp hạn chế những mặt
tiêu cực của nguồn lực nước ngoài tới nền kinh tế, đồng thởi tạo dựng một khung
xương vững chắc cho nền kinh tế, chống lại những cơn sóng gió từ thị trường kinh
tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
Trong tình hình hội nhập với nền kinh tế trên thế giới như hiện nay thì việc bị ảnh
hưởng do các biến động kinh tế từ bên ngoài là điều không thể tránh khỏi. Khi
những biến động đó xảy ra thì nền kinh tế quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều, gặp
những khó khăn như giá cả tăng cao kéo theo lạm phát, sản xuất bị đình trệ, xảy ra
tình trạng thất nghiệp... Lúc đó thì ta càng không thể trông chờ vào các nguồn lực
từ phía bên ngoài. Do đó, vai trò của nguồn vốn trong nước trong lúc này mang
tính quyết định đối với sự tăng trưởng phát triển của một quốc gia. Sự ổn định và
lớn mạnh nguồn vốn trong nước sẽ tạo thành một khung xương vững chắc giúp
chúng ta thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và các biện pháp cần thiết để tránh
và khắc phục các ảnh hưởng do các cú sốc bên ngoài gây ra cho nền kinh tế như
điều chỉnh cung cầu, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội…
Không chỉ có vậy, các nguồn vốn và nguồn lực trong nước, quan trọng là các
nguồn chi từ ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng, các khoản đầu tư phát triển
của các doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh
tế: tài chính, dầu khí, viễn thông... Mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài song các
chính sách của chính phủ vẫn quy định rõ ràng những ngành nghề mà nguồn vốn
đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận. Đó là sự cẩn trọng để kiểm soát việc tiếp nhận

và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm hạn chế những mặt trái mà nguồn
vốn này có thể đem theo: thâu tóm về chính trị, sự phụ thuộc về kinh tế (trở thành
11
sân sau của các cường quốc...). Có như vậy nền kinh tế mới có thể phát triển ổn
định, bền vững.
1.3Nguồn vốn nước ngoài
1.3.1 Vốn đầu trực tiếp nước ngoài ( foreign direct investment-FDI )
1.3.1.1.Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình di chuyển vốn quốc tế ,
trong đó người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt
động sử dụng vốn.
Theo định nghĩa trên ta thấy rằng FDI là một hình thức của đầu tư nước
ngoài , trong đó tiền và tài sản ( tài sản hữu hình và tài sản vô hình ) được các tư
nhân và tổ chức ( gọi chung là các nhà đầu tư nước ngoài ) đem đi đầu tư tại một
quốc gia khác ( nước tiếp nhận đầu tư ) nhằm mục đich tìm kiếm lợi nhuận . Điểm
khác biệt để thấy điêm khác biệt giữa FDI và các hình thức đầu tư khác là nhà đầu
tư nước ngoài có vai trò nhất định trong quản lý và điều hành sử dụng vốn và tài
sản.
1.3.1.2.Một số đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) :
Một là : FDI gắn với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các quốc gia .Trong đầu tư
trực tiếp nước ngoài thì tiền và tài sản sẽ có sự gia tăng ở nước tiếp nhận đầu tư và
đồng thời là việc giảm một lượng tiền và tài sản tương ứng ở quốc gia đi đầu tư
( trừ các tài sản vô hình ) . Đi cùng với việc gia tăng tài sản ở nước tiếp nhận đầu
tư thì vốn FDI còn giúp cải thiện cán cân tài khoản vãng lai quốc gia đó , cũng như
cung ứng một lượng ngoại tệ nhất định cho quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Hai là : các chủ đầu tư phải góp vốn tối thiểu vào vốn pháp định , tùy theo luật đầu
tư từng nước thì lượng vốn góp tối thiểu này được quy định khác nhau . Đối với
Việt Nam thì theo luật đầu tư 2005 thì vốn góp tối thiểu là 30% vốn pháp định .
Ba là : đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm khá nhiều hình thức khác nhau như :
Hợp đồng hợp tác kinh doanh , doanh nghiệp liên doanh , doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài , hợp đồng BOT ….. Hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài có thể

thực hiện qua các con đường như lập doanh nghiệp mới , mua lại một phần hoặc
toàn bộ doanh nghiệp trong nước , các chi nhánh của doanh nghiệp nước ngoài cũ
hoặc có thể là sát nhập các doanh nghiệp .
Bốn là: quyền quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và phân chia lợi
nhuận của các doanh nghiệp này phụ thuộc vào phần vốn góp của các các bên
trong doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh , với doanh nghiệp
100% vốn thì toàn quyền . Đối với doanh nghiệp FDI nếu quyền quản lý sẽ tạo ra
tiền đề để các doanh nghiệp đó trở thành chi nhánh của các doanh nghiệp ở chính
12
quốc ( trong đó có rất nhiều là các công ty đa quốc gia _ TNs) , việc trở thành các
chi nhánh sẽ giúp các doanh nghiệp luân chuyển và sử dụng vốn của các công ty ở
chính quốc nhưng vẫn tránh được hàng rào thuế quan.
Năm là : đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư mang tính tư nhân và tìm
kiếm lợi nhuận . Ở hình thức đầu tư này hình chủ thể đầu tư chủ yếu là tư nhân nên
mục đích là tìm kiếm lợi nhuận , so với ODA thì FDI ít chụi các rằng buộc chính
trị .
Sáu là : Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn
gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý
tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư. Nhà đầu tư cùng với
việc đưa vốn còn đưa cả công nghệ, bí quyết công nghệ, kỹ năng tiếp thị, quản lý,
đào tạo nhân công và các năng lựa trong sản xuất kinh doanh cũng như trong vấn
đề quản lý doanh nghiệp cho nước tiếp nhận vốn.
1.3.1.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Thứ nhất: Bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước , đặc biệt là với các ngành đòi
hỏi vốn lớn . Nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế , đầu tư phát triển là rất lớn , nhất
là trong giai đoạn khoa học kĩ thuật bùng nổ như hiện nay không một quốc gia nào
có thể tự đáp ứng mọi nhu cầu về nguồn lực cho phát triển.
Thứ hai: Tạo việc làm , giải quyết thất nghiệp và nâng cao trình độ tay nghề cho
người lao động tại nước sở tại . Khi có đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một
nhu cầu lao động rất lớn , các lao động tuyển vào các doanh nghiệp nước ngoài

thường được đào tạo lại với những kĩ thuật tay nghề cao , đồng thời với quá trình
chuyển giao công nghệ của mình các doanh nghiệp nước ngoài đã tạo ra một đội
ngũ lao động có trình độ .
Thứ ba: Thúc đẩy khoa học-công nghệ phát triển : các công ty và doanh nghiệp
nước ngoài khi mang vốn đi đầu tư thì họ thường dựa trên trình độ khoa học công
nghệ cao hơn so với nước tiếp nhận nên vô hình chung đã cung cấp những kiến
thức và trình độ khoa học công nghệ ở trình độ cao , từ đó thúc đẩy khoa học công
nghệ ở các nước tiếp nhận đầu tư phát triển .
Thứ tư: Đầu tư nước ngoài tạo ra nguồn thu rất lớn cho ngân sách nhà nước qua
thuế của doanh nghiệp và cá nhân các nhà đầu tư cũng như thuế và phí từ các dự án
có vốn đầu tư nước ngoài . Cùng với đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài thường tạo ra giá trị hàng xuất khẩu rất lớn .
Thứ năm: Tạo động lực phân bổ lại nguồn lực xã hội mà đặc biệt là vốn. Dòng vốn
FDI sẽ chảy vào những lĩnh vực đưa lại hiệu quả cao kéo theo sự chuyển dịch cơ
cấu ngành và địa phương. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động
đạt hiệu quả hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước.
13
Thứ sáu: Đầu tư trực tiếp giúp nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế và các
doanh nghiệp trong nước ,khi có sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã tạo nên sự cạnh tranh mạnh mẽ, làm cho không khí hoạt động của
các doanh nghiệp trong nước ''nóng lên'', buộc họ phải hoàn thiện và nâng cao sức
cạnh tranh của doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. Các doanh nghiệp này cũng
đã đem lại những mô hình quản lý tiến tiến cùng phương thức kinh doanh hiện đại,
điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng
1.3.2.Vốn hỗ trợ phát triên chính thức( Officer development Assitant - )ODA
1.3.2.1Khái niệm : Hỗ trợ phát triển chính thức hay viện trợ phát triển chính thức
(ODA) một phần của nguồn tài chính chính thức mà Chính phủ các nuớc phát triển
và các tổ chức đa phương dành cho các nuớc đang phát triển nhằm hỗ trợ phát

triển kinh tế và phúc lợi xã hội các quốc gia này.
Hiện nay dòng vốn hỗ trợ phát triển chính thức được đưa vào các nước qua các
hình thức sau ; ODA không hoàn lại , ODA cho vay ưu đãi và ODA hỗn hợp . Các
đối tác cung cấp ODA chủ yếu là các nước phát triển ( mỹ , nhật ..) , các tổ chức tài
chính quốc tế và khu vực ( WB, ADB , JBIC..) và các tổ chức đa phương khác.
1.3.2.2.Đặc điểm của vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA )
Thứ nhất, ODA mang tính ưu đãi.
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài
(chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Đây cũng chính là một sự ưu đãi dành cho nước vay.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại (tức là cho không).
Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho
không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn , hiện nay thành
phần hỗ trợ của ODA chiếm từ 25% trở lên trong tổng số vốn hỗ trợ và cùng với
đó phần vốn tính lãi thì so với các khoản vay thương mại thì lãi vay ODA thường
thấp hơn rất nhiều. Cho vay ưu đãi hay còn gọi là cho vay "mềm". Với các nhà tài
trợ thì họ thường áp dụng việc hỗ trợ không hoàn lại với các khoản hỗ trợ nhỏ và
thường tập trung vào lĩnh vực xóa đói giảm nghèo và xã hội , với các khoản vay có
tính lãi thì thường tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng , giáo dục….Để nâng cao
hiệu quả sử dụng của dòng vốn này thì hình thức ODA hỗn hợp là hình thức mà
các nhà tài trợ áp dụng chủ yếu .Vốn ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành
riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển.Thông thường,
các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập
trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn (về
công nghệ, kinh nghiệm quản lý…). Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước
14
cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm được
hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần
thiết.
Thứ hai, vốn ODA mang tính ràng buộc: Tính rằng buộc ở đây thể hiện trên hai mặt
đó là chính trị và kinh tế

Xét trên mặt kinh tế thì vốn Oda sẽ đưa lại một số bất lợi như , nước tiếp nhận
ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp
non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận
ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục
hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực
tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng
sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường
gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp,
thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong
lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước
ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương
cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê
chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới). Như vậy đây là một hình
thức tạo việc làm và thu nhập cho các nước cung cấp ODA và trên thực tế thì
lượng vốn ODA thực mà các nước nhận được là rất thấp .
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc
biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước
tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản
xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông
thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước
viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp
dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Ngoài những tác động về mặt kinh tế thì về mặt chính trị dòng vốn ODA tạo
ra những ảnh hưởng chính trị nhất định tới nước nhận vốn , đây là một công cụ
kinh tế giúp các nước phát triển nâng cao vai trò và tầm ảnh hưởng của mình tạo
các nước đang phát triển.
Thứ ba, ODA có khả năng gây nợ
15

Theo nhiều quan niệm thì ODA là “ của cho không “ , đây là quan niệm sai lầm
vì vốn ODA ngoài việc gồm phần không hoàn lại còn phần hoàn lại với lãi suất .
Vấn đề là vốn ODA thường có lãi suất thấp và có thời gian ân hạn dài nên vô tình
đã tạo ra tâm lý chủ quan của các nước tiếp nhận , họ cứ cố gắng thu hút thật nhiều
ODA để rồi lượng vốn ODA sẽ tạo ra một khoản nợ lớn và khả năng chi trả sẽ
càng thấp nếu dòng vốn ODA mà các nước nhận được không được sử dụng hợp lý
và có hiệu quả , cũng như việc giảm tình trạng thất thoát và việc tăng tốc độ giải
ngân không được nâng cao
1.3.2.3. Vai trò của ODA
Thứ nhất: ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng: Vốn ODA tuy đa phần là vốn
vay phải hoàn trả lại với lãi suất và các điều kiện ràng buộc chặt chẽ khác nhưng
có tác động khá lớn đến tăng trưởng kinh tế và cải thiện đáng kể các chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô, xây dựng cơ sở hạ tầng. Là nguồn vốn bổ sung quý báu và quan trọng cho
phát triển vào những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng kinh tế ở những nước này.
Thứ hai, Giúp nước nghèo tiếp thu KHKT và phát triển nguồn nhân lực: Có sự tiến
bộ mạnh về y tế, giáo dục, thu nhập. Với sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới, cộng
đồng phát triển và các tổ chức xã hội dân sinh, các chính phủ đã thúc đẩy tăng
trưởng và giảm nghèo đói bằng cách cải thiện các chính sách, thể chế và sự quản lý
của mình và qua các chương trình, dự án được hoạch định tốt.
-Vốn vay ODA làm tăng tổng vốn đầu tư của các quốc gia tiếp nhận, do đó
làm tăng năng lực sản xuất, dẫn đến tăng GDP so với trường hợp không có nguồn
vốn bổ sung này. Tác động của vốn vay ODA lên tăng trưởng GDP của các quốc
gia dao động trong khoảng từ 0,1% đến gần 1,7%.
+ Tăng năng lực sản xuất còn giúp giảm lạm phát.
+ Giá cả nội địa giảm sẽ cải thiện tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu
của những nước tiếp nhận này, và do đó làm tăng khối lượng xuất khẩu của họ.
+ Nhập khẩu cũng tăng vì nhu cầu của nền kinh tế đã tăng hơn khi tốc độ
tăng trưởng nhanh hơn, nhưng nhu cầu này phần nào bị cản trở bởi sự giảm giá ở
thị trường nội địa nên cuối cùng cán cân thương mại vẫn được cải thiện mạnh.
Thứ ba, ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện mở rộng

đầu tư phát triển: Để sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn ODA, các nước sẽ nỗ lực
tạo môi trường chính sách thuận lợi và minh bạch trong quản lý và sử dụng nguồn
vốn này, cải thiện điều kiện pháp lý, góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI.
ODA có vai trò quan trọng đối với các nước tiếp nhận, là nguồn vốn quan trọng để
xây dựng cơ sở hạ tầng, góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện
mở rộng đầu tư phát triển.
16
1.3.3 nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
1.3.3.1 Khái niệm : là các khoản vay mà các nước ( doanh nghiệp hoặc chính
phủ ) nhận được từ đi vay các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế .
1.3.3.2 Đặc điểm :
- Điều kiện ưu đãi thấp : nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế và
ODA đều là các khoản vay từ các tổ chức nước ngoài nhưng so với ODA thì các
khoản vay này thường chụi lãi suất theo mức lãi suất tín dụng của các ngân hàng ,
cũng như là không có thời gian ân hạn như ODA
- Không mang các rằng buộc về chính trị và xã hội : các khoản vay này thường
mang tính chất của các khoản vay tín dụng thông thường nên không mang màu sắc
chính trị .
- Chủ yếu là hỗ trợ cho xuất nhập khẩu : các khoản vay từ các ngân hàng thương
mại quốc tế thường do các tổ chức , doanh nghiệp đặt tại việt nam vay nhằm đáp
ứng ngoại tệ cho quá trình xuất nhập khẩu . Một phần của các khoản vay này cũng
được dùng để đầu tư phát triển .
1.3.4 Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế
1.3.4.1. Khái niệm.
Là nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới, bằng việc bán trái
phiếu, cổ phiếu của chính phủ, các công ty trong nước ra nước ngoài.
1.3.4.2 Đặc điểm.
- Có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về
vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng quan hệ
cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.

- Tạo điều kiện cho cho nước tiếp nhận vốn tiếp cận với thị trường vốn quốc tế .
Với việc trực tiếp tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy
TTCK trong nước phát triển trong tương lai. Đối với hình thức huy động này,
người đi vay có thể tăng thêm tính hẫp dẫn bằng cách đưa ra một số yếu tố kích
thích.
- Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thứ cấp,
chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
1.4 Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài trong
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
17
1.4.1 Vốn đầu tư trong nước có vai trò quyết định trong tăng trưởng kinh tế
và tạo nền tảng , định hướng cho qúa trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư
nước ngoài
Chúng ta phải xem xét vị trí của nguồn vốn trong nước trong tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Trước tiên, cần phải khẳng định mọi nền kinh tế muốn phát triển bền vững và
lâu dài thì phải dựa vào nội lực khả năng sẵn có của nền kinh tế bởi các nguồn vốn
từ bên ngoài mặc dù có vai trò quan trọng là “cú kích” để đẩy nền kinh tế đi lên
nhưng không phải là nhân tố quyết định nếu nền kinh tế đó không có nội lực sẵn có
của mình thì mọi sự tác động sẽ trở thành vô nghĩa.
Thứ nhất, Nguồn vốn trong nước thể hiện vai trò quan trọng của mình thông qua
đóng góp vào GDP toàn xã hội từ các đơn vị sử dụng vốn trong nước, trong đó có
các doanh nghiệp của nhà nước , các doanh nghịêp tư nhân . Tỉ trọng đóng góp vào
GDP của nguồn vốn trong nước là rất lớn, chiếm xấp xỉ 2/3 GDP và đặc biệt trong
đó các doanh nghiệp tư nhân luôn dẫn đầu trong cơ cấu GDP của xã hội , vào
khoảng gần một nửa tổng GDP chủ yếu trong công nghiệp xây dựng và dịch vụ.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , nguồn vốn trong
nước phân bổ cho các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo giúp cân bằng
hàng hoá của nền kinh tế qua việc nắm giữ một số ngành quan trọng như điện xi
măng , dầu khí , nắm giữ một lượng vốn khá lớn của nền kinh tế. Ngoài ra, chỉ có

thông qua nguồn vốn nhà nước mới có thể đầu tư vào các công trình, các ngành
kinh tế phục vụ cho mục đích công cộng cũng như để thực hiện vai trò của nhà
nước trong việc giải quyết các thất bại của thị trường. Nguồn vốn nhà nước này sẽ
được đâu tư tập trung vào những ngành được xác định là có tầm quan trọng trong
sự phát triển kinh tế của đất nước cùng với việc thực hiện các mục tiêu phát
Thứ hai: Nguồn vốn trong nước có tác dụng đi trước một bước,mở đường tạo điều
kiện thu hút và đón nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng luôn là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển và cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh, vốn của nhà nước đóng vai trò chủ chốt là nguồn vốn mà
thông qua việc thiết lập và nâng cấp mạng lưới giao thông, mạng lưới điện, nước
…. Những cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát triển tạo bước đi mở đầu, tiên quyết
trong việc giới thiệu và quảng bá tiềm năng của mội vùng ngành.
Đi cùng với việc tạo dựng cơ sở hạng tầng thì vốn đầu tư trong nước còn có vai trò
tạo nền tảng về nguồn lao động sử dụng cho các dự án nước ngoài . Nguồn vốn đầu
tư trong nước có vai trò quan trọng trong việc xây dựng một nguồn nhân lực , trong
đó vốn từ ngân sách và vốn đầu tư của nhà nước trong sự nghiệp phát triển giáo
dục có vai trò quyết đinh trong việc xây dựng một nguồn nhân lực chất lượng cao
18
để sử dụng cho các dự án đầu tư của nước ngoài nói riêng và tăng trưởng kinh tế
nói chung
Không những thế, hoạt động đầu tư từ nguồn vốn trong nước được tiến hành một
cách có hiệu quả của chính doanh nghiệp trong nước cũng là dấu hiệu đáng tin cậy
khiến các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn và dễ dàng hơn trong việc ra quyết
định đầu tư.
Ngược lại, các dự án đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại mỗi vùng,
miền, khu vực, ngành luôn yêu cầu một mạng lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở
hạ tầng mềm( môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh….)phù hợp và thuận lợi.
Chính những yêu cầu đó đặt ra cho chúng ta những đòi hỏi cấp bách liên tục đó
phải đổi mới, nâng cấp tốt hơn nữa cơ sở hạ tầng mềm và cơ sở hạ tầng kỹ thuật
trên phạm vi cả nước, tạo điều kiện thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư nước

ngoài và nhiều dự án lớn có tác dụng tích cực ở quy mô lớn trong thời gian dài.
Thứ ba , Sự lớn mạnh về quy mô và ổn định nguồn lực vốn trong nước có thể giúp
nền kinh tế chống đỡ lại những cú sốc từ bên ngoài. Một nguyên nhân quan trong
của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997 đó là sự lệ thuộc quá nhiều vào đồng
vốn nước ngoài dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền giữa các quốc gia. Từ cuộc khủng
hoảng đó huyễn hoặc về một thị trường tài chính dồi dào, ổn định thường xuyên
đáp ứng nhu cầu vốn đã tan biến.
Thứ tư , Một sự phát triển toàn diện và bền vững đòi hỏi một cơ cấu vốn đầu tư
trong nước-nước ngoài cũng như cơ cấu đầu tư theo vùng ngành hợp lý. Ngoài
nguồn vốn ODA( chủ yếu dành cho việc hỗ trợ cán cân thanh toán, thu chi ngân
sách nhà nước và xây dựng cơ sở hạ tầng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài chảy vào
nước ta chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận, do đó chúng ta chỉ được tập trung chủ yếu
vào những vùng có nhiều thuận lợi và những ngành mang lại lợi nhuận nhanh,
nhiều. Vậy còn những vùng lạc hậu, nghèo tài nguyên, những ngành kém phát triển
thì sao? Do đó, để đảm bảo sự phát triển toàn diện, không lệch lạc đòi hỏi nguồn
vốn trong nước phải phát huy thúc đẩy các khu vực này giúp cho nền kinh tế phát
triển đồng đều, tránh thiếu lệch không cân đối .
Thứ năm, Nguồn vốn nước ngoài là một nguồn vốn quan trọng đang có tác động tạo
nên “cú kích” cho nền kinh tế. Nhưng việc tiếp nhận và sư dụng có hiệu quả nguồn
vốn nước ngoài là vấn đề quan trọng . Một số vốn đối ứng phù hợp là điều kiện tiên
quyết để tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài một cách có triệt để và
có hiệu quả. Số vốn đối ứng này sẽ được huy động từ chính nguồn vốn trong nước.
Điều này được thấy dõ trong các dự án ODA khi mà chính phủ các nước cam kết
đóng góp lượng vốn đối ứng thì các tổ chức quốc tế sẽ có sự tin tưởng về hiệu quả
của vốn và lượng vốn cam kết tăng lên . Còn trong các dự án FDI thì sự xuất hiện
của vốn đầu tư trong nước trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh và các xí nghiệp
19
liên doanh giúp các nhà đầu tư nước ngoài có thể sử dụng vốn của mình tốt hơn
qua sự trợ giúp của các nhà đầu tư trong nước khi các nhà đầu tư nước ngoài chưa
có sự hiểu biết rõ ràng về môi trường đầu tư và kinh doanh trong nước .

1.4.2 Nguồn vốn nước ngoài giữ vai trò quan trọng
1.4.2.1 Tác động trực tiếp :Là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn trong
nước
Với nên kinh tế đang mỗi nước thì vốn đầu tư là nguồn gốc giúp các nước
tăng trưởng . Khi mỗi quốc gia đang trong tình trạng là một nước khó khăn thì thu
nhập của nước đó và các cá nhân trong xã hội đó thấp . đi đôi với thu nhập thấp thì
tích lũy kém , mà tích lũy lại là nguyên nhân dẫn đến vốn đầu tư cho nền kinh tế
thấp . không chỉ xét trong đầu tư cho tăng trưởng kinh tế mà một khi vốn đầu tư
thấp thì chúng ta khó lòng có vốn đầu tư cho giáo dục , khoa học công nghệ
….những yếu như giáo dục thấp , nhân lực chất lượng kém , khoa học công nghệ
chậm phát triển sẽ lại là rào cản cho nền kinh tế các nước . và chúng ta thấy rằng
nếu không có nguồn vốn từ ngoài thì các nước đang phát triển sẽ luôn bị mắc trong
một vòng luẩn quẩn :
Thu nhập thấp Tiết kiệm và đầu tư thấp
Tăng trưởng thấp năng suất thấp
Khi vốn nước ngoài đi vào sẽ tạo ra một nguồn “ năng lượng “ bổ sung mạnh mẽ
giúp các nước đang phát triển phá vỡ vòng luẩn quẩn đó .
Như đã phân tích ở trên thì vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn giữu vai trò quyết
định cho tăng trưởng nền kinh tế của một quốc gia nhưng một nước cũng không
thể tự tạo đủ cho mình lượng vốn cần thiết . Khi có sự xuất hiện của luồng vốn và
tài sản nước ngoài qua sự di chuyển vốn quốc tế thì chúng ta thấy một điều chắc
chắn là tổng mức vốn đầu tư xã hội tăng lên thông qua nhiều hình thức khác nhau .
Với vốn ODA chúng ta thấy rằng đây là nguồn vốn từ chính phủ và các tổ chức
quốc tế mang vào trong nước thông qua các chương trình phát triển của chính phủ ,
như vậy ngân sách chính phủ của các nước nhận vốn đã được tăng lên và đây là
20
nguồn vốn bổ sung quan trọng cho chính phủ đầu tư vào cơ sở hạng tầng , phát
triển nguồn nhân lực….
Vai trò bổ sung này còn thể nhận thấy với sự đóng góp của dòng vốn FDI với các
nước đang phát triển khi mà tại các nước này thì dòng vốn từ khu vực tư nhân ít ,

trong khi đó dòng vốn nhà nước nhiều nhưng lại hiệu quả thấp . Ở một nền kinh tế
phát triển thì việc hình thành và phát triển các ngành công nghiệp , các ngành đòi
hỏi công nghệ cao là vấn đề tất yếu nhưng để phát triển các ngành công nghiệp này
lại đòi hỏi một nguồn vốn lớn , dòng vốn FDI khi đi vào các nước này đã đóng góp
vào việc gia tăng lượng vốn lớn cho tổng vốn đầu tư của xã hội . Các nhà đầu tư
nước ngoài khi gia nhập vào nền kinh tế các nước khác thì họ sẽ mang theo rất
nhiều vốn khác nhau vào các nước tiếp nhận đầu tư : các nhà đầu tư nước ngoài họ
mang theo tiền vốn bằng ngoại tệ từ tài sản của mình vào và làm phình to thêm cái
túi đựng vốn đầu tư của xã hội , họ vào mang theo các tài sản sản xuất như máy
móc , thiết bị sản xuất .. làm tăng lượng tài sản sản xuất của xã hội …không những
đóng góp trong vấn đề bổ sung lượng tiền vốn và tài sản sản xuất của doanh nghiệp
trong nước , các doanh nghiệp nước ngoài còn có đóng góp bổ sung vào ngân sách
nhà nước thông qua đóng góp thuế từ hoạt động của doanh nghiệp và thuế từ thu
nhập của cá nhân các nhà đầu tư .
Không chỉ có các dòng vốn FDI và ODA , hiện nay khi hệ thống thị trường chứng
khoán của các nước phát triển với sự hoàn thiện của hệ thống chính sách quản lý
và thông tin đầy đủ thì dòng vốn của các nhà đầu tư qua kênh này là nguồn vốn bổ
sung mới quan trọng trong khi các dòng vốn trực tiếp đang có dấu thoái trào .
Thông qua kênh này thì vốn được chuyển cho các doanh nghiệp trong nước , dòng
vốn này giúp các doanh nghiệp trong nước có thêm vốn để đầu tư vào sản xuất
kinh doanh và đặc biệt là đầu tư vào các dự án lớn .
Không chỉ đóng góp vào tổng vốn đầu tư vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội , các
dòng vốn nước ngoài còn là nguồn bổ sung quan trọng cho nguồn ngoại tệ để giúp
các các nước có tiền để nhập các máy móc thiết bị từ nước ngoài để bổ sung cho
nguồn máy móc và thiết bị lạc hậu trong các doanh nghiệp trong nước .
Những điều trên đây cho thấy dòng vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng
cho nguồn vốn trong nước trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
1.4.2.2. Tác động gián tiếp
21
Bên cạnh tác động trực tiếp tơi tăng trương kinh tế thông qua gia tăng tổng

vốn đầu tư toàn xã hội , sự xuất hiện của các dòng vốn nước ngoài còn có tác động
gia tăng qua hoạt động của dòng vốn này thông qua một số kênh như kên canh
tranh là các doanh nghiệp trong nước phải gia tăng hiệu quả hoạt động , kênh
truyền bá công nghệ giúp các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận với các
máy móc và công nghệ cao ..Sự xuất hiện các tác động tràn này là do sự chênh lệch
giữa các quốc gia , giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước
ngoài , vì vậy đã tạo ra ưu thế cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư . Thông
qua hoạt động của các nhà máy , các chi nhánh của các doanh nghiệp nước ngoài ở
trong nước các doanh nghiệp trong nước sẽ nhận được một số tác động gián tiếp
sau :
Thứ nhất, Thông qua kênh cạnh tranh: Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ biến thị
trường trong nước trở thành một nơi có tính cạnh tranh mạnh mẽ. Thông thường
khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước sở tại, họ thường chọn những nơi
có cơ sở hạ tầng tốt, sử dụng tối đa công suất của chúng, kích thích nguồn vốn
trong lĩnh vực này hoạt động có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp trong nước trước
sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài sẻ phải tự đổi mới để nâng cao
khả năng cạnh tranh của mình.
Thứ hai, Thông qua kênh sao chép và học hỏi: Các doanh nghiệp nước ngoài khi
sang sẽ mang theo các công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh tiên
tiến. Thông qua các quá trình tương tác trong hoạt động, các doanh nghiệp trong
nước có thể học hỏi và sao chép những kinh nghiệm của nước ngoài để tự mình
hoạt động có hiệu quả hơn. Đó có thể là các kinh nghiệm về quản lý, tổ chức sản
xuất hay cải thiện trình độ công nghệ. Khi công nghệ của nước ngoài đã cũ, họ có
thể chuyển giao sang cho nước sở tại, cũng làm tăng tiềm lực công nghệ của nước
sở tại.
Thứ ba, Thông qua kênh liên kết sản xuất: Các doanh nghiệp nước ngoài có thể
thiết lập nên các liên doanh với doanh nghiệp trong nước, cải thiện khả sử dụng
vốn của các đối tác trong nước. Các doanh nghiệp trong nước muốn làm ăn với
nước ngoài thì cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn về độ tin cậy, chất lượng và tốc độ
giao hàng. Ngoài ra thì sự năng động của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ kéo theo

các ngành sản xuất trong nước và vận tải nội địa hoạt động mạnh hơn nhằm đáp
ứng yêu cầu hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp nước
22
ngoài còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường
thế giới, giúp nước nhận mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và là cầu nối trung
gian giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vươn ra thịt trường bên ngoài.
Cuối cùng, Thông qua kênh di chuyển lao động (nhân lực): Các nhà đầu tư tiến
hành tuyển dụng lao động ở nước sở tại và đào tạo họ để đáp ứng các yêu cầu công
việc. Họ đào tạo từ công nhân cho tới cán bộ quản lý. Khi có sự luân chuyển lao
động thì những kỹ năng lao động hữu ích này sẽ lan ra toàn bộ nền kinh tế và làm
tăng năng lực của người lao động ở nước sở tại.
1.4.2.3 Tác động trái chiều của của vốn đầu tư nước ngoài với vốn
đầu tư trong nước
Một là, Việc sử dụng quá nhiều vốn đầu tư nước ngoài sẽ làm cho nguồn vốn trong
nước bị phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. Nếu tổng số vốn FDI mà lớn hơn
50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì các công ty nước ngoài sẽ chi phối các hoạt
động kinh tế làm ảnh hưởng tới tính tự chủ của nước sở tại. Vay nợ quá nhiều sẽ là
gánh nặng cho ngân sách quốc gia trong hiện tại và tương lai. Qua thống kê số liệu
trên thế giới thì tỷ lệ tối đa là 40% GDP . Cùng với FDI thì dòng vốn ODA cũng có
thể là nguyên nhân dẫn đến nợ nước ngoài gia tăng , nếu các quốc gia không có kế
hoạch trả nợ thì su khi hết hạn cho vay và gia hạn thì sẽ số vốn nợ sẽ gia tăng và
làm ngân sách chính phủ sẽ bị ảnh hưởng lớn khi phải trả nợ.
Hai là, Quá nhiều vốn đầu tư nước ngoài rót vào một quốc gia sẽ tạo ra một
môi trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt, bởi vì các nhà đầu tư nước ngoài đều
muốn chạy đua để khuếch trương sức mạnh của mình. Vì vậy với những nền kinh
tế chưa đủ mạnh thì sản xuất trong nước rất dễ bị lấn át và đầu tư trong nước sẽ sụt
giảm.
Ba là, Các quốc gia nhận vốn nước ngoài dễ rơi vào tình trạng thâm hụt cán
cân thanh toán do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện việc sản xuất và xuất khẩu
sản phẩm, chuyển lợi nhuận về nước bằng ngoại tệ làm cho cán cân thanh toán bị

ảnh hưởng. Do vậy cần khuyến khích các nhà đầu tư hướng vào xuất khẩu và tái
đầu tư tại thị trường nội địa.
Bốn là, Những nước chậm phát triển dễ rơi vào tình trạng nhập khẩu thiết bị lạc
hậu do chưa đủ trình độ kiểm tra và thẩm định phần giá trị sử dụng còn lại của thiết
bị. Do vậy có thể ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn trong nước.
Năm là, Hệ thống tài chính và môi trường kinh tế vĩ mô của các nước đang
phát triển thường không đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài và hạn
23
chế rủi ro khi có sự cố. Nền kinh tế chịu tác động mạnh hơn từ các tác động bên
ngoài. Nguy cơ di chuyển vốn ra nước ngoài do các nhà đầu tư nước ngoài bị mất
niềm tin lôi kéo theo cả các nhà đầu tư trong nước theo hiệu ứng tâm lý bầy đàn
(herding behavior).
Chương 2 Thực trạng mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và
vốn đầu tư nước ngoài trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam
2.1 thực trạng thu hút và sử dụng vốn trong nước :
2.1.1 Thực trạng đầu tư của khu vực trong nước
Trong nhiều năm qua tổng vốn đầu tư toàn xã hội của khu vực trong nước luôn
tăng cao và chiếm tỉ trọng lớn trong đầu tư toàn xã hội . Ta có thể thấy qua bảng số
liệu sau :
Tổng số
Chia ra
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài nhà
nước
Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài
Giá thực tế Tỷ đồng
24
1995 72447 30447 20000 22000

1996 87394 42894 21800 22700
1997 108370 53570 24500 30300
1998 117134 65034 27800 24300
1999 131171 76958 31542 22671
2000 151183 89417 34594 27172
2001 170496 101973 38512 30011
2002 200145 114738 50612 34795
2003 239246 126558 74388 38300
2004 290927 139831 109754 41342
2005 343135 161635 130398 51102
2006 404712 185102 154006 65604
2007 521700 208100 184300 129300
2008 673300 184400 263000 189900
2009 704200 245000 278000 181200
Tổng số 4215560 1825657 1443206 910697
Trong đó đầu tư của khu vực Nhà nước là :
Năm 2008, Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước
đạt 100,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,8% tổng vốn đầu tư cả nước, bằng 102,8% kế
hoạch năm. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do trung ương quản lý đạt 34,2
nghìn tỷ đồng, bằng 103% kế hoạch, trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn đạt 2881,4 tỷ đồng, bằng 172,9%; Bộ Giao thông Vận tải đạt 6612,6 tỷ đồng,
bằng 105,3%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đạt 451,1 tỷ đồng, bằng 102,3%;
Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 1132,5 tỷ đồng, bằng 101,1%; Bộ Công Thương đạt
237,7 tỷ đồng, bằng 100,3%; Bộ Y tế đạt 932 tỷ đồng, bằng 100%; riêng Bộ Xây
dựng chỉ đạt 219,9 tỷ đồng, bằng 62,6%.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước tính thực hiện 66,7
nghìn tỷ đồng, bằng 102,7% kế hoạch năm, trong đó một số địa phương có số vốn
thực hiện lớn là: thành phố Hồ Chí Minh đạt 9,9 nghìn tỷ đồng, bằng 112,1% kế
25

×