Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng nhập cư vào đô thị Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.07 KB, 26 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I: Lời mở đầu
Đô thị hóa là quá trình chuyển đổi liên tục của cấu trúc và tính chất lao
động xã hội theo hướng từ nông nghiệp sang công nghiệp từ công nghiệp sang
dịch vụ và khoa học – công nghệ, từ đơn giản đến phức tạp, từ hàm lượng trí
tuệ nhỏ sang hàm lượng trí tuệ lớn, từ chân tay sang trí óc trên cơ sở của sự
biến đổi công nghệ ngày càng nhanh và rộng khắp.
Việt Nam là một đất nước đang phát triển, nằm trong xu thế chung của
thế giới, quá trình đô thị hóa đang diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Sự thay đổi
của cấu trúc và tính chất lao động liên quan tới một sự kiện xã hội gắn liền
với quá trình đô thị hóa, đó là hiện tượng dịch cư xã hội. Thực chất của dịch
cư xã hội có hai mặt là chuyển đổi nghề nghiệp – được gọi là dịch cư nghề
nghiệp – và chuyển đổi chỗ ở - nđược gọi là dịch cư địa lí. Hai hình thức dịch
cư nổi rõ tính chất quan trọng của đô thị hóa là dịch cư nông thôn – đô thị và
dịch cư đô thị - đô thị.
Từ những kiến thức học tập được ở nhà trường, từ mong ước ở lại thành
phố làm việc. Em muốn có được một câu trả lời thích đáng cho bản than. Nhu
cầu muốn được hưởng những dịch vụ mà ở thành phố mới có.v.v… Và liệu
chính sách hạn chế nhập cư mà thành phố Hà Nội đang có đề xuất đưa ra, qua
ý kiến phản hồi của báo chí… Em đã tìm hiểu chính sách và góp ý kiến nhỏ
của mình. Do đó em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm hạn chế tình
trạng nhập cư vào đô thị Hà Nội hiện nay"
Những số liệu và nguồn tài liệu em dung để làm cơ sở phân tích được lấy
từ: Giáo trình Kinh tế đô thị, giáo trình Quản lý đô thị và các trang Web trên
Internet.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đề án của em được chia thành ba phần:
Phần I : Lời mở đầu
Phần II : Nội dung
I. Đô thị hóa và ảnh hưởng của quy mô dân số


II. Thực trạng nhập cư vào thành phố Hà Nội
III.Một số giải pháp làm giảm trình trạng nhập cư vào thành phố Hà
Nội
Phần III : Kết luận
Do hoàn thành đề án trong thời gian còn hạn hẹp và kiến thức còn hạn
chế nên em rất mong đuợc sự góp ý của thầy cô và các ban.
Để hoành thành đề án này em xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo,
đặc biệt là cô : Th.s .Nguyễn Thị Thanh Huyền – Người đã trực tiếp hướng
dẫn em làm đề án này.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần II: Nội dung
I- Đô thị hoá và ảnh hưởng của quy mô dân số.
1. Dân số dô thị và tăng dân số đô thị
a. Khái niệm, đặc điểm dân số đô thị
Để nghiên cứu các vấn đề đô thị cần phải bắt đầu từn dân số đô thị. Dân
số theo quan điểm thống kê là số người sống trên một lãnh thổ nhất định vào
thời điểm nhất định, và dân số đô thị là bộ phận dân số sống trên lãnh thổ
được quy định là đô thị.
Dân số của một đô thị luôn luôn biến động do các yếu tố sinh, chết, đi,
đến. do đó, khi nói đến dân số đô thị cần phân biệt rõ dân số thường trú và
dân số hiện có vào những thời điểm nhất định của đô thị.
Phát triển kinh tế đô thị là sản phẩm của một giai đoạn nhất định, là sự
phát triển trên cơ sở trước đây. Cơ sở trước đây là cái “gốc” của phát triển, cái
“gốc” này rất rộng, vừa bắt nguồn bên trong đô thị cũng nằm ở bên ngoài đô
thị, có nghĩa là, sự phát triển đô thị khác với sự sinh trưởng của loài cây riêng
lẻ, nó không phải sinh ra từ một hạt giống, cũng không tồn tại như một mầm
cây đơn độc.
Sự phát triển kinh tế đô thị có liên quan trực tiếp với sự phát triển của

công nghiệp. sự phát triển công nghiệp và văn minh đô thị có sức thu hút rất
lớn dân số tập trung vào đô thị; sự phát triển kinh tế đô thị dựa vào dân số
tăng tất yếu đòi hỏi sự di chuiyển dân cư từ nông thôn, sự phát triển tương
ứng của nông nghiệp và dân số nông nghiệp trở nên quá thừa đã trở thành
động lực thúc đẩy bên ngoài tập hợp dân số đô thị; sự phát triển hơn nữa của
công nông nghiệp đã thúc đẩy nghành sản xuất thứ ba phát triển rầm rộ, do đó
đã thúc đẩy kinh tế khu vức và kinh tế quốc dân phát triển mạnh, trở thành
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động lực tổng hợp phát triển và xây dựng đô thị. Do đó đô thị và kinh tế đô
thị phát triển như quả bóng tuyết lăn.
Như vậy có thể nói tăng trưởng quy mô dân số và đô thị hoá là xu thế
tất yếu của sự phát tiển kinh tế - xã hội. Để phát triển đô thị thì vẫn khuyến
khích sự phát triển dân số đô thị. Tất cả các biện pháp di dân đô thị đi vùng
kinh tế mới, hang rào ngăn cản di dân cào đô thị… là nhũng biện pháp không
tích cực cho phát triển đô thị. Tuy nhiên trong từng đô thị cụi thể thì tăng quy
mô dân số hay ổn định là vấn đề cần nghiên cứu.
Một trong những đặc điểm cơ bản của đô thị là dân số tập trung với mật
độ cao. Mật độ dân số là một trong các chỉ tiêu để phân biệt nông thôn và
thành thị. Mật độ dân số là số dân thường trú ( hoặc hiện có) tính bình quân
trên một đơn vị diện tích. Mật độ dân số ở các đô thị cũng rất khác nhau. Có
những thành phố có mật độ dân số rất cao như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội, nhưng cũng có những thành phố có mật độ dân số tương đối thấp như Đà
Lạt, …
Để phản ánh rõ ngững đặc điểm cơ bản của dân số đô thị, chúng ta cần
nghiên cứu sơ cấu dân số đô thị. Cơ cấu tuổi - giới của dân số được coi là đặc
điểm quan trọng nhất vì nó có liên quan đến rất nhiều vấn đề của dân số. Tiếp
theo đó là cơ cấu lao động, ngành nghề của dân số.
b. Một số khái niệm về di dân, nhập cư.
Di dân: Theo nghĩa rộng di dân là sự dịch chuyển bất kỳ của con người

trong một không gian, thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm
thời hay vĩnh viễn.
Theo nghĩa hẹp di dân là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ đến
một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập nơi cư trú mới trong một khoảng
thời gian nhất định.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đặc điểm chung của di dân đó là: di chuyển đến nơi khác sinh sống, có
những mục đích khi di dân, thời gian ở lại có thể là năm, tháng, tuần, có thể
thay đổi các hoạt động sống, các quan hệ xã hội khi di cư tới.
Nhập cư: Nhập cư là hiện tượng người dân chuyển tới một nơi sinh sống
và làm việc trong một thời gian nhất định.
c. Biến động quy mô dân số đô thị.
•Sự biến động quy mô dân số đô thị.
Quy mô đô thị ngày càng mở rộng và biểu hiện trước hết của nó là tăng
quy mô dân số. Trước hết phải kể đến tốc độ đô thị hoá. Đô thị hoá có thể
xem như là quá trình biến đổi các vùng chưa phải đô thị thành đô thị. Biểu
hiện cụ thể của đô thị hoá là sự mở rộng các thành phố về mặt quy mô diện
tích. Số lượng các đường phố các quận, các phường, các khu đô thị mới được
công bố hàng năm đủ cho ta cảm nhận về tốc độ đô thị hóa . Tốc độ đô thị hoá
ở các nước đang phát triển được đánh giá là cao nhất trong giai đoạn hiện nay
và đó chính là nguyên nhân cơ bản làm tăng dân số đô thị. Những nguyên
nhân khác không kém phần quan trọng đó là sự biến động tự nhên và biến
động cơ học của dân số. Sự biến động tự nhiên của dân số như sinh, chết chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tếm, xã hội, phong tục tập quán, tâm lý.
Sự biến động cơ học của dân số đô thị là hiện tượng phổ biến, vì đô thị
là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho cuộc sống, sinh hoạt: Thu nhập ở đô
thị thường cao hơn ở nông thôn, địa bàn đô thị có nhiều khả ngưng kiếm việc
làm hơn. Dân cư tìm mọi cách để được nhập cư vào đô thị, từ đó hình thành
dòng chuyển dịch vào đô thị. Chính dòng này đã gây ra những quá tải dân số

ở các đô thị của các nước đang phát triển như Việt Nam và nhiều nước khác.
•Biến động cơ học của dân số đô thị : Phản ánh mối quan hệ giữa đô
thị và nông thôn ( ngoại thành ) trên giác độ dân số.
Dòng người đi vào thành phố nhằm hưởng thụ các dịch vụ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các dịch vụ ở thành phố như : Cửa hàng, nhà băng, rạp chiếu phim,
phòng hoà nhạc v.v… đều có đặc tính là các dịch vụ này không thể vận
chuyển được, nên mọi người phải tới những nơi có dịch vụ đó và phần lớn các
dịch vụ được cung cấp có hiệu quả trên quy mô đủ lớn. Vì vậy, các cửa hàng
này chỉ hình thành ở một số trung tâm có số dân đủ đông và kinh tế phát
triển… Với lý do đó, những cư dân sống ở nông thôn muốn mua sắm một
hàng hoá như một bộ com-lê hoặc một tivi sẽ phải tới thị trấn, thị xã hoặc
thành phố gần nhất. Hơn nữa khi người dân nông thôn phá bỏ quan hệ tự cung
tự cấp và sản xuất hàng hoá phát triển thì những chuyến đi ra thành phố tìm
kiếm các dịch vụ là tất yếu.
Dòng người đi vào thành phố để tìm kiếm việc làm
Dòng người ở nông thôn ngày càng tiến đến vào các thành phố để tìm
kiếm việc làm. Các trung tâm việc làm cũng phụ thuộc ngày càng nhiều hơn
vào những nhân công sống ở các nơi khác, bởi vì : 1) Việc làm ở đô thị tăng
nhanh hơn so với ở nông thôn, trong khi đó dân số đô thị tăng chậm hơn ở
nông thôn, điều này gây nên sự mất cân bằng địa lý về cung và cầu lao động,
dẫn tới hiện tượng dòng người đi tìm việc làm ờ các thành phố và thị trấn. 2)
Do sự phát triển mạnh mẽ các phương tiện giao thông, những chuyến đi cá
nhân ngày càng được thực hiện dễ dàng hơn, đặc biệt là ở vùng nông thôn.
Vấn đề được đặt ra là liệu sự gia tăng các phương tiện đi lại cá nhân ở nông
thôn là nhuyên nhân hay chỉ là tác động làm cho những chuyến đi tìm việc
ngày càng dài hơn.
Một cách nhìn khác về dòng người từ nông thôn ra thành thị : Các hộ
gia đình tới các ‘ trung tâm vùng”, tới “ thị trấn lớn”. tới “thành phố lớn” để

buôn bán, họ đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế đô thị.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Dòng người ra khỏi thành phố để thư giãn
Nông thôn đang được coi như sự mở rộng cuộc sống ở thành phố. Đó là
nơi để mọi người có thể thư giãn sau những ngày làm việc. Nhờ các phương
tiện giao thong , nông thôn đã và đang trở thành một phần không trể thiếu của
môi trường – nó gắn liền với đời sống thành phố - hay nói cách khác là, người
thành thị có thể rời khỏi thành phố và về nghỉ nghơi ở miền quê bất cứ khi
nào họ muốn. Thực tế, vành đai nông thôn quanh thành phố đã và đang trở
thành “ không gian sống” và gắn liền với thành phố.
Trên giác độ tài chính, một số vốn lớn mà dân đô thị tích luỹ để mua
đất đai vùng nông thôn mà phần lớn diện tích đất đó nông dân sử dụng không
hiệu quả lắm. Những người dân thành thị sẽ đầu tư xây dựng nhà cửa, cơ sở
hạ tầng làm tăng giá trị và tăng hiệu quả đất đai. Thông qua đó người dân
nông thôn quen dần với cách quản lý và nếp sống đô thị, đồng thời bảo đảm
an ninh tốt hơn cho vùng nông thôn.
Tác động tài chính về dòng người thành phố - nông thôn
Khi cư dân ngoại ô tìm kiếm dịch vụ ở thành phố, họ sẽ tạo ra một số
khu vực trung chuyển; khi họ tìm kiếm việc làm thì họ sẽ tạo ra khu vực nông
thôn mà ở đó có các chuyến xe thường xuyên đi làm vào thành phố; và khi cư
dân đô thị muốn thư giãn thì tạo ra một vùng nông thôn giải trí. Vì vậy, một
đô thị với chất lượng cuộc sống cao sẽ có một số vùng nông thôn xung quanh
là điều tất yếu. Và cũng vì vậy mà chúng ta sẽ không thể nói đến thành thị mà
không nói đến nông thôn.
Về khía cạnh tài chính, khi dòng người vào thành phố để tìm kiếm dịch
vụ thị họ phải mang theo tiền để chi tiêu tại thành phố. Điều đó làm cho thu
nhập của nhân viên trong các ngành dịch vụ ở thành phố tăng, đồng thời làm
tăng nhu cầu để tu bổ và xây dựng các khu nhà ở thành phố và vuối cùng nó
làm tăng thuế ở thành phố. Một phần nguồn tài chính mà thành phố có được,

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lại có nguồn gốc từ các khu vực nông thôn. Đồng thời dòng người tới thành
phố lại tạo ra lượng cầu về các dịch vụ. Những dịch vụ này do chính đô thị
cung cấp với kinh phí có từ những nguồn nộp thuế, lệ phí ( ví dụ các phương
tiện giao thong công cộng, vệ sinh đường phố, bãi đỗ xe, ăn uống). Dòng
người nông thôn ra thành phố rất đa dạng, trong đó có những người sẵn sàng
làm bất cứ việc gì để có thu nhập và một phần thu nhập được sử dụng ngay tại
thành phố.
•Biến động tự nhiên của dân số
Mức sinh, chết của dân số ở đô thị là những chỉ tiêu phản ánh đặc điểm
biến động tự nhiên của dân số đô thị về mặt quy mô. Để có thể so sánh với
các vùng nông thôn hoặc giữa các đô thị ta cần sử dụng các tỷ suất sinh, các
tỷ suất chết ở đô thị thường thấp hơn ở nông thôn. Dân cư đô thị sinh đẻ ít
hơn và tuổi thọ cao hơn do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là điều kiện
sống ở đô thị cao hơn.
Tỷ suất sinh chung ( general fertility rate ) = số trẻ em sinh ra còn
sống trên số phụ nữ trung bình ở độ tuổi sinh đẻ.
•Xu hướng biến động của dân số đô thị
Trong tương lai dân số đô thị sẽ tăng với rốc độ ngày càng cao và dân số
nông thôn sẽ giảm tương ứng. Mối quan hệ đó được biểu thị qua hình dưới
đây.
Dân cưđô thị
Dân cư nông
thôn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự biến động dân số do các nguyên nhân đã nêu trên có ảnh hưởng rất
lớn đến các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia nói chung và
đối với các thành phố nói riêng. Lối sống đô thị sẽ ngày càng phổ biến hơn.

Mức sống người dân thành thị cũng như nông thôn ngày được nâng cao. Tỷ lệ
dân số nông thôn ngày càng giảm, nhưng cũng không thể tiến đến sự tuyệt đối
bằng không.
2. Ảnh hưởng của quy mô dân số đến phát triển kinh tế đô thị.
Tăng trưởng quy mô dân số đô thị và đô thị hoá là xu thế tất yếu của sự
phát triển kinh tế xã hội.
Trên phạm vi toàn xã hội, tăng trưởng đô thị là tăng tỷ lệ dân số đô thị
trong tổng dân số. Tăng dân số tự nhiên ở các đô thị; tăng cơ học; mở rộng
diện tích và xây dựng đô thị mới. Tăng dân số và tăng trưởng kinh tế là hai
yếu tố tạo nên tăng trưởng đô thị. tăng dân số là sự khởi đầu vì nó làm tăng
tiêu dùng và tăng cung lao động - yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
•Ảnh hưởng tích cực:
Có thể nói quy mô dân số phản ánh một cách chính xác tình tăng
trưởng và phát triển của một đô thị.
Quan hệ giữa tỉ trọng dân số lao động công nghiệp đối với tỉ lệ đô thị
hoá. Xã hội trước công nghiệp hoá là xã hội nông nghiệp. Đặc điểm của xã
hội nông nghiệp là sản xuất tiểu nông, tái sản xuất giản đơn, tích luỹ ít. Tình
độ sản xuất thường duy trì sự lao động ở mức thấp nhất của đời sống con
người, không có khả nănbg tích luỹ để mở rộng tái sản xuất. Lúc ấy cũng có
đô thị, nhưng đô thị hoặc rất hẹp không phát triển, hoặc lúc lúc phát triển lúc
ngừng trệ, rất dao động và luôn luôn lặp lại. Nguyên nhân là lực lượng sản
xuất xã hội thấp kém và trong thời gian dài không được nâng cao. Nhưng sau
khi bắt đầu đô thị hoá, tình hình khác hẳn. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp
đòi hỏi nguồn lao động tập trung, đặc điểm của tái sản xuất mở rộng đòi hỏi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sự tập trung này không ngừng mở rộng, hình thức của đô thị phát triển theo,
kinh tế đô thị lấy công nghiệp là chủ thể được hình thành sớm nhất. từ bảng
dưới đây có thể thấy tỉ lệ đô thị hoá các khu vực và các nước trên thế giới có
quan hệ tỉ lệ thuận khá ổn định với tỷ trọng dân số lao động công nghiệp

trong tổng dân số lao động.

Năm 1950 Năm 1970
Tỉ trọng dân số lao
động công nghiệp
Tỉ lệ đô
thị hóa
Tỉ trọng dân số lao
động công nghiệp
Tỉ lệ đô
thị hóa
Thế giới
Đông phi
Mỹ La tinh ôn đới
Bắc Mỹ
Tây Âu
Châu Đại dương
Nhật Bản
Liên Xô
Trung Quốc
18,81
3,66
31,06
36,54
39,74
61,17
23,62
21,62
6,00
34,05

5,5
64,77
63,84
63,92
61,24
50,20
39,30
12,51
24,17
6,32
31,12
24,19
44,49
30,38
34,48
37,65
8,15
41,84
10,69
77,87
70,45
74,38
70,77
71,30
56,70
17,40
Nếu phân tích hồi quy mối quan hệ này có thể có được phương trình hồi
quy sau đay:
y = 2,997 + 1,798x r = 0,9404
trong đó : y là tỷ lệ đô thị hoá,

x là tỷ trọng dân số lao đôn gj công nghiệp.
Có thể nói rằng, trên toàn cầu, quan hệ có bản của công nghiệp hoá và
đô thị hoá là tỉ trọng dân số lao động công nghiệp tăng lên 1% có thể làm cho
dân số đô thị tăng lên 1,8% . Như vậy có thể nói quy mô dân số đô thị càng
lớn thì tỷ trọng dân số lao động công nghiệp lớn, dẫn tới quá trình đô thị hóa,
tức là quá trình mở rộng đô thị, hay là sự gia tăng các đô thị mới.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×