Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.43 KB, 51 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế xã hội đất nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, mọi mặt đời sống xã hội được cải thiện, chúng ta đã ký
được hiệp định thương mại Việt - Mỹ và đang trong quá trình gia nhập tổ
chức thương mại thế giới WTO. Vì vậy, trước mắt các doanh nghiệp Việt
Nam đang là những thời cơ và thách thức mới địi hỏi phải có sự nỗ lực rất
lớn trong cạnh tranh. Khơng nằm ngồi xu thế chung đó, ngành ngân hàng
Việt Nam nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu
Giấy nói riêng cũng có những thời cơ và thách thức trong tình hình mới.
Thực tế cho thấy, mơi trường kinh doanh ngân hàng trong thời gian qua
ngày càng trở nên khó khăn, lãi suất trên thị trường thế giới liên tục giảm gây
áp lực lên hệ thống ngân hàng Việt Nam. Mặt khác, bản thân các ngân hàng
trong nước cũng có sự cạnh tranh quyết liệt với nhau nên càng gây ra nhiều
khó khăn, buộc các ngân hàng phải nới lỏng các yêu cầu khi cho vay cũng
như cắt giảm lãi suất tạo ra nhiều nguy cơ rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Bên cạnh đó, sự cạnh tranh cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp và do đó gián tiếp ảnh hưởng đến các ngân hàng. Các doanh
nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận có thể sử dụng vốn vay của ngân hàng khơng
đúng mục đích hoặc đầu tư không hiệu quả, thu nhập không đủ bù đắp chi
phí... dẫn đến khơng thể trả được nợ ngân hàng khi đến hạn, tất cả những điều
đó đều có thể gián tiếp gây ra rủi ro cho ngân hàng đặc biệt là rủi ro đối với
hoạt động tín dụng. Vì vậy, trong thời gian tới việc phòng ngừa và hạn chế rủi
ro tín dụng là thực sự có ý nghĩa và luôn là một đề tài bức xúc đối với các
Ngân hàng thương mại Việt Nam. Tìm được các biện pháp phịng ngừa và
hạn chế rủi ro tín dụng để tăng hiệu quả trong kinh doanh ngân hàng là mong
muốn của tất cả các nhà kinh doanh tiền tệ khi phải đối đầu với sự cạnh tranh
quyết liệt, giành giật thị phần để mang lại lợi nhuận.

1



Nhận thức được điều đó, cùng với mong muốn sử dụng những kiến thức
đã học cũng như các kết quả quan sát học hỏi từ thực tiễn hoạt động tại Ngân
hàng đầu tư và phát triển Hà Tây em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Một
số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát
triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy”
Trong bài chuyên đề này, em sẽ trình bày các vấn đề lý luận cũng như
thực trạng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và
phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến
nghị góp hạn chế rủi ro tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam
nói chung và đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh nói riêng.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng.
Chương II: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy
Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên bài chun đề sẽ khơng
tránh khỏi có những thiếu sót nhất định cần được bổ sung. Em rất mong nhận
được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các cán bộ tín dụng để bài chun đề
hồn thiện hơn.
Em xin cảm ơn tập thể cán bộ Phòng tín dụng Ngân hàng đầu tư và phát
triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho em
trong quá trình thực tập tại quý cơ quan.

2


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG


1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng và phân loại tín dụng Ngân hàng.
1.1 Khái niệm tín dụng Ngân hàng.
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó các chủ thể chuyển cho nhau
quyền sử dụng về một lượng giá trị hoặc hiện vật với những điều kiện mà hai
bên thoả thuận như số lượng, thời hạn, lãi suất... theo nguyên tắc hoàn trả cả
vốn và lãi.
Như vậy, tín dụng có thể được hiểu đơn giản là một quan hệ vay mượn lẫn
nhau dựa trên nguyên tắc có hồn trả.
Đối tượng vay mượn có thể là tiền hoặc tài sản. Nguyên tắc hoàn trả
khẳng định người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng tiền hoặc tài sản của
mình cho người đi vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hết thời hạn đó
người đi vay sẽ phải hồn trả cho người cho vay một số tiền hay tài sản nhất
định theo thoả thuận. Thông thường giá trị khoản hoàn trả sẽ lớn hơn giá trị
khoản cho vay.
Với cùng bản chất như vậy, tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn
nhau giữa một bên là ngân hàng và bên kia là các chủ thể kinh tế khác như
các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, dân cư dựa trên ngun tắc có hồn trả
cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hồn trả có thể thực
hiện một lần hay nhiều lần tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.
Một ngân hàng khi tham gia vào các quan hệ tín dụng có thể đóng vai trị
là người đi vay hoặc người cho vay. Khi ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành
trái phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn, vay vốn từ Ngân hàng Trung Ương, từ
3


các tổ chức tín dụng khác thì nó đóng vai trò là người đi vay. Còn khi ngân
hàng thực hiện việc cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu... thì nó đóng
vai trị là người cho vay. Tuy nhiên, trong thực tế do tính phức tạp của hoạt
động cho vay so với hoạt động đi vay và cũng là do thói quen nên khi nói đến
tín dụng Ngân hàng người ta thường chỉ đề cập đến hoạt động cho vay mà ít

khi đề cập đến hoạt động đi vay.
1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng:
Các khoản cho vay của Ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau. Tuỳ vào mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại
tín dụng ngân hàng theo mục đích sử dụng tiền vay, theo thời hạn trong quan
hệ tín dụng, theo tính chất bảo đảm hoặc theo thành phần kinh tế.
• Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay, tín dụng được chia thành:
- Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cho vay phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
cá nhân.
- Tín dụng nơng nghiệp: là hình thức cho vay phục vụ cho mục đích sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực nơng nghiệp.
- Tín dụng cơng nghiệp: là hình thức cho vay phục vụ cho mục đích sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực cơng nghiệp.
- Tín dụng xuất nhập khẩu: là hình thức cho vay nhằm tài trợ cho hoạt
động xuất nhập khẩu.
• Căn cứ vào tính chất bảo đảm, tín dụng có thể chia thành:
- Tín dụng có bảo đảm là hình thức cho vay có cầm giữ các vật thế chấp
cụ thể nào đó như xe cộ hoặc một hình thức nào đó về tài sản cá nhân.
- Tín dụng khơng có bảo đảm: khác với tín dụng có bảo đảm, tín dụng
khơng có bảo đảm được dựa trên cơ sở uy tín, tình hình tài chính của người
vay, lợi tức có thể được trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây.
• Căn cứ vào thời hạn trong quan hệ tín dụng có thể chia thành:

4


- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 1 năm
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của người vay như nhu cầu về vốn lưu
động.
- Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5

năm phục vụ nhu cầu sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định của các doanh
nghiệp, cải tiến kỹ thuật hoặc xây dựng những cơng trình loại nhỏ, thời hạn
thu hồi vốn khơng dài.
- Tín dụng dài hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn trên 3 năm, phục
vụ nhu cầu trang bị tài sản cố định cho sản xuất kinh doanh, hay xây dựng
những cơng trình lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu hơn.


Căn cứ vào thành phần kinh tế có thể chia thành:
- Tín dụng kinh tế quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp cho các
doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các khoản tín dụng này có thể được
thực hiện trực tiếp giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp hoặc theo kế hoạch
Nhà nước.
- Tín dụng kinh tế ngồi quốc doanh: là những khoản tín dụng cung cấp
cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân như các cơng ty TNHH, cơng ty
cổ phần...
2. Vai trị của tín dụng Ngân hàng:
Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại rất nhiều hình thức tín dụng khác
nhau như tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, tín dụng nặng lãi, tín
dụng th mua... Trong đó tín dụng Ngân hàng là loại hình tín dụng giữ vai
trị quan trọng nhất và cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp lưu thông luồng tiền tệ, dẫn vốn từ
nơi thừa đến nơi thiếu, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Mặt khác, tín dụng cũng là một trong những hoạt động cơ bản và quan
trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Trong thời gian dài, tín dụng ln
là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các Ngân hàng thương mại kể cả

5



các Ngân hàng thương mại trong nước và các Ngân hàng thương mại trên thế
giới.
Ngày nay, khi công nghệ Ngân hàng phát triển đến trình độ cao, các dịch
vụ Ngân hàng đã bắt đầu thể hiện rõ ưu thế của mình và ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn hơn trong hoạt dộng của các Ngân hàng thương mại, tín dụng vẫn là
hoạt động không thể thiếu được của các Ngân hàng. Tín dụng vẫn tạo ra
nguồn thu nhập cơ bản cho các Ngân hàng thương mại, nó bảo đảm cho hoạt
động của các Ngân hàng thương mại được thơng suốt. Chính vì vậy, tín dụng
Ngân hàng ln ln giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi
Ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
2.1 Vai trị của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế:
Tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia giữ một vai trò
hết sức quan trọng. Xét trên nhiều mặt, hoạt động tín dụng Ngân hàng góp
phần thúc đẩy mở rộng sản xuất, lưu thơng hàng hố phát triển, tài trợ cho các
thành phần kinh tế kém phát triển và các ngành mũi nhọn của quốc gia. Đồng
thời hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng tạo điều kiện để phát triển kinh tế đối
ngoại, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, thơng qua hoạt động tín
dụng, mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng mà cụ thể là các doanh
nghiệp được củng cố và tăng cường, ngân hàng và doanh nghiệp sẽ hỗ trợ
nhau cùng phát triển. Với mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, đến
năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp, đồng thời với
lộ trình gia nhập AFTA tiến tới gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) của nước ta thì tín dụng Ngân hàng càng có vai trị quan trọng. Cụ
thể, vai trị của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế được thể hiện trên một
số mặt như sau:
Thứ nhất, hoạt động tín dụng Ngân hàng giúp điều hoà vốn trong nền kinh
tế, cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất, tái sản xuất mở rộng. Như chúng ta
đã biết, vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động
6



liên tục và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình
sản xuất tạo thành chu kỳ tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và
kết thúc của một vịng tuần hồn này được thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục địi hỏi
vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ sản xuất - lưu thơng. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa hoặc thiếu vốn tạm thời tại
các doanh nghiệp. Đây chỉ là hiện tượng mang tính chất tạm thời nhưng xảy
ra thường xuyên và phổ biến, làm nảy sinh yêu cầu phải giải quyết cho được
vấn đề điều hoà vốn trong nền kinh tế. Với nghiệp vụ huy động vốn và nghiệp
vụ tín dụng, các Ngân hàng thương mại đã giải quyết được vấn đề này. Ngân
hàng thương mại đứng ra tập trung và phân phối lại vốn, điều hoà cung - cầu
vốn trong nền kinh tế, góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn.
Mặt khác, để mở rộng sản xuất đối với các doanh nghiệp thì yêu cầu về
vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh
nghiệp không thể chỉ trơng chờ vào vốn tự có, mà cịn phải biết dựa vào nhiều
nguồn vốn khác nhau trong xã hội. Ngân hàng thương mại với tư cách là nơi
tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư
phát triển. Như vậy, tín dụng Ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn
được thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa
góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng là cơng cụ vĩ mô của Nhà nước để tài trợ cho
các ngành mũi nhọn và các thành phần kinh tế kém phát triển. Trong tiến
trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước, tín dụng Ngân hàng được xem
như một cơng cụ vĩ mô quan trọng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn,
phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước. Mặc dù các ngành này có tỷ lệ
sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn chậm, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng
đây là các ngành kinh tế mũi nhọn, là xương sống của nền kinh tế, là cơ sở đề
7



phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển các ngành này là một
yêu cầu không thể thiếu và tín dụng Ngân hàng được xem như một trong
những nguồn vốn quan trọng tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn.
Bên cạnh đó, q trình phát triển và hội nhập quốc tế còn đòi hỏi phải vực
dậy một số ngành kinh tế kém phát triển để có đủ khả năng cạnh tranh với các
nước trên thế giới. Muốn vậy, cần phải có vốn đầu tư lớn đối với các ngành
kinh tế này. Vốn đầu tư có thể được huy động từ nhiều nguồn nhưng quan
trọng nhất vẫn là nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại.
Trong những năm tới, khi hàng rào thuế quan giữa các nước trong khu vực
được dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng trước một thách thức to lớn
là phải đối đầu với các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực kinh tế mạnh, có
kỹ thuật và cơng nghệ tiên tiến. Khi đó, các doanh nghiệp của Việt Nam cần
phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời hạ giá thành sản
xuất, đa dạng mẫu mã chủng loại hàng hoá, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường
trong nước cũng như thị trường nước ngồi. Có như vậy mới cạnh tranh được
với hàng hố của nước ngồi, củng cố và mở rộng thị phần của các doanh
nghiệp Việt Nam. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
có vốn đầu tư để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và nguồn vốn vay của
Ngân hàng là thực sự cần thiết.
2.2 Vai trò của nghiệp vụ tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại:
Bên cạnh vai trị to lớn của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế,
nghiệp vụ tín dụng cịn giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân
mỗi Ngân hàng thương mại. Tín dụng là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa quyết
định đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
Bản chất của một Ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ, hoạt động
chủ yếu là “đi vay để cho vay”. Nguồn vốn mà Ngân hàng huy động, trước
tiên được sử dụng vào hoạt động cho vay và đây cũng là hoạt động mang lại
8



phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng. Khi các Ngân hàng khơng thực hiện được
duy trì và mở rộng tín dụng thì phần vốn mà Ngân hàng huy động được sẽ bị
ứ đọng, Ngân hàng sẽ phải trả lãi cho phần vốn đó trong khi khơng có thu
nhập từ lãi cho vay, điều này sẽ dẫn Ngân hàng tới chỗ bị thua lỗ và có khả
năng bị phá sản. Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động tín
dụng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng phát triển đa dạng thêm các hoạt động
dịch vụ khác. Do đó, việc duy trì và mở rộng tín dụng có ý nghĩa rất quan
trọng đối với các Ngân hàng thương mại.
II. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI:

1.Quan điểm chung về rủi ro tín dụng:
Mọi hoạt động kinh doanh đều có thể gặp rủi ro, rủi ro và kinh doanh là
hai mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất của quá trình kinh doanh,
chúng luôn tồn tại và mâu thuẫn với nhau. Muốn cho quá trình kinh doanh tồn
tại và phát triển thì kinh doanh phải khống chế được rủi ro.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về rủi ro. Có ý kiến cho rằng,
khi nói tới rủi ro là nói tới điều gì đó đã xảy ra.
Có ý kiến lại cho rằng, nói tới rủi ro khơng chỉ dừng lại ở mức liệt kê đơn
thuần về điều đã xảy ra mà còn phải bao hàm cả những thiệt hại mà những
điều đã xảy ra mang lại. Theo đó khi nói tới rủi ro tín dụng có nghĩa là những
khoản cho vay bị mất - không thể thu hồi.
Những người theo quan niệm rủi ro là điều tất yếu xảy ra khi tiến hành
bất cứ một công việc nào lại cho rằng “rủi ro” là những khả năng xảy ra sự cố
có thể dẫn tới tổn thất về cái gì đó. Theo quan điểm này, gắn với hoạt động tín
dụng của Ngân hàng, rủi ro đã hàm chứa ngay từ khi bắt đầu thực hiện cho
vay chứ không phải “chờ đợi” sự trả chậm hay không trả của người vay mới
coi là rủi ro.


9


Ý kiến chung nhất cho rằng rủi ro là một khái niệm chỉ khả năng xảy ra
những biến cố mang lại kết quả xấu khi tiến hành một công việc nào đó.
Như vậy, cần hiểu rủi ro bao gồm những nội dung như sau:
- Trước hết, rủi ro là một hiện tượng có thể xảy ra ngồi mong muốn khi
tiến hành bất cứ một công việc nào. Với quan niệm như vậy, mỗi khi bắt đầu
tiến hành một công việc nào đó cần lường trước những rủi ro có thể xảy ra.
- Thứ hai, mặc dù rủi ro là hiện tượng tiềm ẩn và không phải bao giờ
cũng xảy ra khi tiến hành các hoạt động nhưng trong nhiều trường hợp, do
tính lặp lại của rủi ro nên người ta có thể nhận biết được tính quy luật của nó.
Chính vì điều này mà người ta có thể tìm những biện pháp nhằm hạn chế rủi
ro.
- Thứ ba, rủi ro dù ít xảy ra nhưng khi đã xảy ra thường gây nên những
tổn thất. Ý thức được điều này, người ta ln tìm các biện pháp để hạn chế
tổn thất khi rủi ro xảy ra.
Trong các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại, thì nghiệp vụ tín dụng là
nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Với đặc trưng của hoạt động tín dụng
Ngân hàng - chủ thể là Ngân hàng và người vay, đối tượng là tiền, với các
điều kiện về thời hạn vay, lãi suất - với quan điểm như trên về rủi ro, ta có thể
hiểu rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng khơng hồn trả được nợ đúng thời
hạn hoặc không trả nợ cho Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là một tất yếu trong kinh doanh Ngân hàng, nó được thể
hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, với đặc điểm kinh doanh tín dụng, có sản phẩm độc quyền là
tiền tệ, kinh doanh tín dụng Ngân hàng bán “quyền sử dụng tiền tệ” với thời
hạn cho vay và giá bán là lãi suất. Hoạt động tín dụng Ngân hàng có liên quan
tới rất nhiều chủ thể trong nền kinh tế, có tính xã hội hố cao, chính vì thế, nó

cũng chịu tác động rất lớn từ nhiều phía như cơ chế chính sách, mơi trường
10


kinh doanh. Do vậy, khi có sự biến động trong nền kinh tế, sự thay đổi về cơ
chế chính sách hay mơi trường kinh doanh đều có ảnh hưởng tới hoạt động tín
dụng Ngân hàng và có thể dẫn đến rủi ro. Mặt khác, Ngân hàng hoạt động
theo phương châm “đi vay để cho vay”, do đó, hiệu quả kinh tế của người đi
vay cũng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Thứ hai, thực tế cho thấy, những năm 1989 - 1990 ở nước ta hàng loạt
hợp tác xã tín dụng sụp đổ, nền tài chính trong trạng thái khủng hoảng ảnh
hưởng đến kinh tế xã hội. Trong thời gian gần đây, tình trạng nợ quá hạn tại
các Ngân hàng trong nước cũng không tốt, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
còn cao, địi hỏi phải có những biện pháp để giải quyết. Không chỉ riêng trong
nước mà ngay cả ở một số nước có nền kinh tế phát triển như Nhật, Anh,
Pháp... với các hệ thống Ngân hàng hiện đại có quy mơ dự phịng rủi ro lớn
vẫn xảy ra những tổn thất đáng kể.
Như vậy, có thể nói rủi ro trong tín dụng là một tất yếu khách quan trong
hoạt động của các Ngân hàng thương mại. Vấn đề là làm sao để hạn chế tối đa
những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng. Muốn vậy,
trước hết cần phải đánh giá được mức độ của rủi ro tín dụng thơng qua một số
chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng.
2.Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng:
2.1 Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro tín
dụng của một Ngân hàng. Nợ quá hạn được hiểu là các khoản nợ mà người
vay không có khả năng thanh tốn đầy đủ hoặc đúng hạn như đã cam kết với
Ngân hàng khi đến hạn trả nợ. Khi đáo hạn, người vay không trả được nợ cho
Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ này từ nợ trong hạn sang nợ
quá hạn. Để xem xét mức độ rủi ro tín dụng thơng qua nợ q hạn, ở nước ta

sử dụng chỉ tiêu sau:

11


Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ Nợ quá hạn =

x 100%
Tổng dư nợ

Tỷ lệ này phản ánh lượng đơn vị tiền tệ Ngân hàng không thể thu hồi
đúng hạn trong 100 đơn vị tiền tệ Ngân hàng đã cho vay tại thời điểm xác
định.
Nước ta hiện đang sử dụng phổ biến chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng
tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng
tỷ lệ nợ quá hạn < 5% là có thể chấp nhận được trong hoạt động tín dụng và
được coi là ngưỡng an toàn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng và của
nền kinh tế.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng do dư nợ quá hạn và tổng dư nợ được đo tại
một thời điểm nhất định nên tỷ lệ nợ quá hạn không phản ánh đúng thực chất
chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ này chỉ phản ánh các khoản nợ đã
quá thời hạn thanh toán chứ chưa phản ánh được mức độ rủi ro của các khoản
nợ chưa đến thời hạn thanh toán. Một số các khoản nợ loại này có thể cịn
chứa đựng nhiều rủi ro hơn các khoản nợ đã được xác định là nợ quá hạn.
Nợ quá hạn có thể chia ra thành nhiều loại tuỳ theo tiêu thức đã chọn.
Việc phân loại nợ quá hạn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ rủi ro tín
dụng theo các khía cạnh khác nhau. Đồng thời, phân loại nợ quá hạn cũng
giúp tìm ra các giải pháp trong phịng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
• Theo khả năng thu hồi, có thể chia nợ quá hạn thành:

- Nợ quá hạn thông thường: là các khoản nợ đến ngày đáo hạn người vay
chưa trả được nợ cho Ngân hàng nhưng khả năng hoàn trả là khá cao, sự
chậm trễ trong việc trả nợ là ngắn.

12


- Nợ q hạn khó địi (nợ khó địi): là những khoản nợ đã quá hạn một
thời gian dài mà con nợ khơng có khả năng thanh tốn đầy đủ nợ gốc và lãi
cho Ngân hàng, khả năng thu hồi khoản nợ này là thấp và quá trình thu nợ
thường gặp khó khăn, phức tạp.
- Nợ q hạn khơng có khả năng thu hồi (mất vốn): là những khoản nợ
quá hạn mà Ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp để thu nợ nhưng khơng
thể thu đựoc tồn bộ hoặc một phần nợ gốc. Con nợ khơng cịn nguồn để trả
nợ cho Ngân hàng cả hiện tại và trong tương lai, khả năng thu hồi nợ của
Ngân hàng là bằng không và Ngân hàng xác định khoản nợ này là không thu
hồi được.
Việc phân loại các khoản nợ quá hạn theo khả năng thu hồi phản ánh rõ
nhất về mức độ rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nợ quá hạn khơng có khả
năng thu hồi càng cao thì nguy cơ mất vốn của Ngân hàng càng lớn.
• Theo thời gian quá hạn, có thể chia nợ quá hạn thành:
- Nợ quá hạn dưới 6 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê,
thời gian quá hạn thanh toán là dưới 6 tháng và người vay vẫn chưa thanh
toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
- Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm
thống kê, thời gian quá hạn thanh toán là từ 6 tháng đến 12 tháng và người
vay vẫn chưa thanh toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.
- Nợ quá hạn trên 12 tháng: là các khoản nợ mà tại thời điểm thống kê,
thời gian quá hạn thanh toán là trên 12 tháng và người vay vẫn chưa thanh
toán đầy đủ nợ gốc cho Ngân hàng.

Những khoản nợ quá hạn dưới 6 tháng được coi là có độ rủi ro thấp, nợ
quá hạn từ 6 - 12 tháng được coi là có độ rủi ro trung bình cịn nợ q hạn

13


trên 12 tháng được coi là có độ rủi ro cao, có khả năng gây mất vốn cho Ngân
hàng.
2.2 Tổn thất tín dụng:
Đây cũng là một chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của một Ngân
hàng thương mại. Thực chất, tổn thất tín dụng chính là phần vốn mà Ngân
hàng khơng thu hồi được.
Tổn thất tín dụng = Khoản cho vay không thu hồi được - Giá trị thu hồi
được
2.3 Rủi ro tín dụng tiềm năng:
Nếu chỉ cho rằng rủi ro là các hậu quả thực tế đã xảy ra, ta sẽ chỉ hiểu đơn
thuần kết cục của nó mà khơng hiểu được rõ ngun nhân do đó sẽ khó khắc
phục chúng. Chính vì vậy, việc xem xét rủi ro tín dụng tiềm năng sẽ giúp
đánh giá một cách tồn diện hơn về rủi ro tín dụng của một Ngân hàng thương
mại.
Việc đánh giá rủi ro tín dụng đã được các nước trên thế giới đánh giá
thông qua chỉ tiêu:
Các khoản tín dụng có chất lượng trung bình
Tổng dư nợ
Ưu điểm của việc sử dụng chỉ tiêu này đó là nó đánh giá được rủi ro tín
dụng một cách khá tốt. Trong khi tỷ lệ nợ quá hạn chỉ đánh giá những rủi ro
đã xảy ra thì chỉ tiêu này còn đánh giá được cả những rủi ro có thể xảy ra
trong tương lai. Tuy nhiên, việc xem xét thế nào là các khoản tín dụng có chất
lượng trung bình thì cần phải có tiêu thức xếp hạng thống nhất. Hiện nay ở
nước ta chưa áp dụng chỉ tiêu này vì chưa có tiêu thức xếp hạng các khoản tín

dụng.

14


3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương
mại Việt Nam:
Tín dụng Ngân hàng giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh
tế cũng như đối với các Ngân hàng thương mại. Mặt khác, tín dụng Ngân
hàng lại là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong số các hoạt động nghiệp vụ
của Ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc tìm hiểu rõ các nguyên nhân gây ra
rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng là một điều mà các nhà Ngân hàng
cần phải quan tâm làm rõ để từ đó có cơ sở đưa ra các giải pháp hợp lý nhằm
ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Với quan điểm về rủi ro tín dụng như đã trình
bày ở trên, có thể tổng kết các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng cho
các Ngân hàng thương mại theo hai nhóm: nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
3.1 Nhóm nguyên nhân khách quan:
Trong các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng thì nhóm
ngun nhân khách quan là những ngun nhân khó phịng tránh nhất thậm
chí là bất khả kháng. Những nguyên nhân này thường không trực tiếp ảnh
hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhưng nó lại có ảnh hưởng tới
hoạt động của các doanh nghiệp, các khách hàng của ngân hàng, từ đó gián
tiếp ảnh hưởng đến ngân hàng. Tổn thất tín dụng do những nguyên nhân này
gây ra thường chiếm tỷ trọng không lớn. Các nguyên nhân khách quan bao
gồm:
3.1.1 Mơi trường tự nhiên:
Nói chung mơi trường tự nhiên khơng tác dụng trực tiếp tới hoạt động tín
dụng của ngân hàng mà vai trị của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp mà hoạt động

của chúng phụ thuộc vào môi trường tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt
động trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp, dich vụ. Điều kiện tự nhiên

15


diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
3.1.2 Môi trường kinh tế:
Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường kinh tế. Sự
biến động của nền kinh tế tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân
hàng và doanh nghiệp biến động theo chiều hướng tương tự. Đặc biệt, trong
điều kiện quốc tế hoá mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và
doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước
mà cả môi trường kinh tế quốc tế.
Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp với ngân
hàng (Ví dụ: những rủi do thay đổi tỷ giá, lãi xuất, lạm phát làm cho ngân
hàng bị thiệt về thu nhập) hoặc gián tiếp tác động xấu đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp đều có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
3.1.3 Mơi trường pháp lý:
Đây cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh rủi
ro tín dụng của ngân hàng. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn
bản dưới luật chưa được đầy đủ đồng bộ, không bảo đảm môi trường cạnh
tranh lành mạnh cũng là một nguyên nhân trược tiếp dẫn đến rủi ro trong sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho
ngân hàng. Bên cạnh đó, mơi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều khe hở và
bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo
lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Đồng thời, môi trường pháp lý không ổn định
cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát

triển kinh doanh, do đó hạn chế về nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng.
Thực tế cho thấy, với hệ thống văn bản pháp luật đối với hoạt động tín
dụng ngân hàng nếu như khơng đầy đủ chặt chẽ, nhất là trong các quan hệ tín
16


dụng quốc tế, sẽ có thể dẫn đến những rủi ro cho các Ngân hàng thương mại.
Đối với Việt Nam đây cũng là một hạn chế. Hệ thống pháp luật quốc gia với
các bộ luật và văn bản dưới luật chưa đầy đủ, đồng bộ, chưa đảm bảo môi
trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, dẫn đến rủi
ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá
hạn cho Ngân hàng.
3.1.4 Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Đây cũng là một nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng ngân hàng. Trong
trường hợp có sự thay đổi về chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật
pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sát
nhập hay tách ra của các Bộ ngành trong nền kinh tế sẽ có thể tác động đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
hồn trả tín dụng của khách hàng đối với ngân hàng. Do tính chất hoạt động
kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến rất nhiều Bộ, ngành và lĩnh vực
khác nhau. Vì vậy, mỗi thay đổi về cơ chế chính sách của Nhà nước cũng đều
tác động tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là hoạt
động tín dụng, một hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng.
3.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan:
3.2.1 Về phía khách hàng:
Nguyên nhân từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân chính
và cổ điển nhất gây ra rủi ro tín dụng. Người vay có thể do nhiều lý do khác
nhau mà không thể thực hiện trả nợ ngân hàng đúng hạn. Nhìn chung ngun
nhân này có thể nắm bắt và hạn chế được nếu ngân hàng thực hiện tốt việc
sàng lọc khách hàng, kiểm tra, giám sát và quản lý khách hàng trước, trong và

sau khi phát tiền vay cho khách hàng. Nguyên nhân từ phía khách hàng được
xem xét trên các mặt sau:

17


- Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay
còn hạn chế. Khi cho vay thì ngân hàng trơng đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ
chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản
thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn
vay của doanh nghiệp. Khi lập các phương án kinh doanh, dự án đầu tư nếu
doanh nghiệp khơng tính hết những biến động thụ trường sẽ có thể dẫn đến
thua lỗ, khơng trả được nợ cho ngân hàng. Mặt khác, việc sử dụng vốn vay
của doanh nghiệp cũng phải đúng mục đích, phân phối có hiệu quả nếu không
đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng sẽ khơng đạt hiệu quả cao, thậm chí thua
lỗ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
- Năng lực tài chính của các doanh nghiệp yếu kém. Năng lực tài chính
là chỉ tiêu cơ bản thể hiện tình trạng sức khoẻ của một doanh nghiệp, từ đó
mà xác định được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Kế hoạch trả nợ của doanh
nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp phải thanh toán những khoản
chi nhất thời quá lớn như thanh toán thuế, tiền lương... hoặc cơ cấu vốn đầu tư
của doanh nghiệp khơng hợp lý đều có thể gây nên khó khăn trong việc trả nợ
ngân hàng đúng hạn dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Đạo đức, thiện chí của khách hàng: Vấn đề nổi lên ở đây là chọn lựa
đối nghịch và động cơ không trong sạch của người vay. Trong những giao
dịch diễn ra trên các thị trường tài chính, một bên thường khơng biết tất cả
những gì mà họ cần phải biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn. Sự
không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được được gọi là thơng tin không
cân xứng.
Chọn lựa đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước

khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thị trường tài
chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không
mong muốn (đối nghịch) - tức là rủi ro không trả được nợ - là những người
tích cực tìm vay nhất và do vậy là có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do
18


viêc chọn lựa đối nghịch khiến dễ có thể là các món cho vay được thực hiện
cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay có thể
quyết định khơng cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được nợ.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi
cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi người cho vay phải chịu một
rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (thiếu đạo
đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì những hoạt động này ít có
khả năng để món vay này hồn trả.
Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay
có thể quyết định thơi không cho vay nữa. Rủi ro đạo đức nảy sinh trong thị
trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực hiện những hoạt
động khơng mong muốn theo quan điểm của người cho vay, trong tình trạng
như vậy, dễ có thể là người cho vay này sẽ vị đặt vào sự rủi ro về vỡ nợ. Khi
những người vay đã có món tiền vay, vì mục đích lợi nhuận, họ dễ có thể đầu
tư sai mục đích vào những dự án có mức độ rủi ro cao. Tuy nhiên, sự rủi ro
này khiến cho họ khó có khả năng hồn trả lại món tiền vay.
Trong quan hệ tín dụng, muốn có hiệu quả cao địi hỏi phải có sự hợp tác
từ cả hai phía người cho vay và người đi vay. Nếu như khách hàng khơng có
thiện chí thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Sự thiếu
thiện chí của khánh hàng có thể biểu hiện trực tiếp trong quan hệ tín dụng với
ngân hàng như cố tình sử dụng vốn sai mục đích, tìm cách lừa đảo ngân hàng,
hoặc cũng có thể là các hành vi gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng TDNH
như kinh doanh trái pháp luật, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tất cả các

hành vi đó đều có thể mang lại sự rủi ro cho ngân hàng.
3.2.2 Về phía ngân hàng:
Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía ngân hàng
thường chiếm tỷ trọng nhỏ. Các nguyên nhân này thường xảy ra trong quá
trình thực hiện cho vay, thể hiện qua các mặt sau:
19


a. Trong giai đoạn xét duyệt:
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần phải phân tích đánh giá khách
hàng trước khi cho vay. Việc phân tích đánh giá được dựa trên một số chỉ tiêu
như uy tín của khách hàng, năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính...
Giai đoạn này có thể tiềm ẩn sự rủi ro do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất là sự hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu
yếu về chuyên môn, các cán bộ Ngân hàng không thể đánh giá chính xác về
khách hàng và dự án vay vốn, từ đó sẽ làm phát sinh những hợp đồng tín dụng
kém an tồn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong
suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ.
Thứ hai, gắn liền với sự hạn chế về khả năng phân tích là vấn đề phẩm
chất đạo đức của cán bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một cơng việc hết sức
phức tạp. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ
và phẩm chất đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín
dụng đã sa ngã. Họ có thể hành động vơ nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy
định, gây những tổn thất to lớn cho Ngân hàng. Do thực tế thu nhập của cán
bộ tín dụng hiện nay ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn thấp, càng
dẫn đến tình trạng họ khơng thật sự gắn bó với lợi ích của Ngân hàng.
Thứ ba, vấn đề tài sản thế chấp cũng là một nguyên nhân gây rủi ro quan
trọng cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Phổ biến ở Việt Nam hiện
nay, ln có tư tưởng cho rằng cho vay có tài sản thế chấp là an tồn nhất.
Bởi khi món vay khơng được hồn trả, Ngân hàng chỉ việc phát mại tài sản

thế chấp để thu hồi vốn. Nhưng trên thực tế chính việc quá tin tưởng vào tài
sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của các
Ngân hàng. Có thể thấy điều này qua một số nét chính như sau:
- Hiện nay các tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng còn thiếu các yếu
tố pháp lý, gây nhiều khó khăn cho Ngân hàng. ở Việt Nam hiện nay, môi
trường pháp lý về thế chấp, cầm cố tài sản chưa đầy đủ, Luật sở hữu chưa rõ
ràng, chưa có cơ quan nào cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình
20


chuyển dịch sở hữu tài sản nên tất cả tài sản của doanh nghiệp Nhà nước và
của các doanh nghiệp ngồi quốc doanh khơng có chứng nhận sở hữu. Vì vậy,
rất khó khăn cho Ngân hàng khi đem những tài sản thế chấp như vậy ra xử lý.
Hơn nữa, cũng chính tình trạng lỏng lẻo trong cơng chứng hồ sơ tài sản mà đã
xảy ra tình trạng lừa đảo, một tài sản được đem ra thế chấp tại nhiều Ngân
hàng.
- Ngay cả khi tài sản thế chấp là hợp pháp thì rủi ro tín dụng đối với
những dự án được xét duyệt vẫn xảy ra khi giá trị của tài sản thế chấp được
định giá quá cao hay có những biến động đột ngột về giá. Hơn nữa, một khi
rủi ro xảy ra, chi phí cho việc phát mại tài sản là không nhỏ. Những tài sản thế
chấp của các doanh nghiệp là máy móc, thiết bị... phần lớn đều cũ kỹ lạc hậu,
đem phát mại để thu hồi vốn cũng phải mất tới hàng năm. Đối với các tài sản
thế chấp là bất động sản thì lại phụ thuộc vào biến động giá của thị trường bất
động sản và quy hoạch của Nhà nước. Một thực tế nữa là nhiều trường hợp tài
sản thế chấp mang tính đặc thù của doanh nghiệp. Ví dụ như liên hiệp đường
sắt mang toa tầu ra để thế chấp. Trường hợp như vậy nếu có phải phát mại thì
Ngân hàng cũng đành bó tay.
Những hạn chế nêu trên khiến vấn đề thế chấp tài sản trở thành một
nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro cho các Ngân hàng thương mại Việt
Nam thời gian qua. Điều này có vẻ như một nghịch lý bởi thế chấp được áp

dụng với mục tiêu hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, thực chất luôn phải hiểu rằng thế
chấp không phải là tiêu chuẩn hàng đầu để bảo đảm an tồn tín dụng.
b. Trong giai đoạn giám sát tiền vay:
Giám sát là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc
giám sát sẽ giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm
bảo đồng vốn được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích. Nếu việc giám sát
khơng được thực hiện thường xuyên và chặt chẽ, nhiều khả năng khách hàng
sẽ sử dụng vốn vào những mục đích phiêu lưu làm phát sinh rủi ro tín dụng.
Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy, hệ thống kiểm soát của các Ngân
21


hàng yếu kém và lỏng lẻo khiến cho nhiều khoản tín dụng được tập trung quá
lớn vào một vài đối tượng vay, làm nguy cơ tổn thất tín dụng của Ngân hàng
tăng cao, phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chính những
khách hàng này.
Mặt khác, sự hợp tác giữa Ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin
tín dụng khơng đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí, một số Ngân
hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm thơng
tin tín dụng, và điều đó dẫn tới việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ
tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Vì thế, Ngân hàng rất khó giám sát
khách hàng về việc sử dụng tiền vay.
Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại cịn chưa có được một phương
pháp giám sát khách hàng khoa học và có hiệu quả. Nỗ lực của các Ngân
hàng thương mại là cần phải xây dựng một phương pháp giám sát khoa học để
ln đảm bảo được sự an tồn cho mình và cho khách hàng.
c. Trong giai đoạn thu nợ:
Xử lý nợ quá hạn cứng nhắc, không hiệu quả và chưa thực sự hợp tác với
người vay là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự gia tăng của số nợ
q hạn, số nợ khó địi trong giai đoạn này. Điều này gây ảnh hưởng đến lợi

ích trước mắt và lâu dài của Ngân hàng. Việc xử lý thu nợ cứng nhắc theo hợp
đồng mà không chú ý đến điều kiện của người vay có thể đẩy khách hàng đến
một hồn cảnh khó khăn hơn và hồn tồn mất khả năng trả nợ.
Ngoài ra, việc Ngân hàng xử lý cứng nhắc theo hợp đồng, không thực sự
hợp tác với khách hàng sẽ làm Ngân hàng mất đi nhiều đối tác kinh doanh lâu
dài. Và vì thế, Ngân hàng sẽ dần thu hẹp thị phần của chính mình. Trong
nhiều trường hợp, nếu Ngân hàng có sự hợp tác chặt chẽ cùng xử lý với các
khách hàng căn cứ vào điều kiện của họ thì có thể khả năng trả nợ của khách
hàng sẽ sáng sủa hơn, Ngân hàng sẽ có nhiều khả năng thu hồi được vốn.

22


4. Tác động của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại xảy ra do nhiều nguyên nhân,
khiến cho Ngân hàng không thể thu hồi được nợ khi đến hạn. Nhưng dù là do
nguyên nhân nào thì rủi ro tín dụng cũng gây ra những tác động xấu tới bản
thân Ngân hàng và đối với cả nền kinh tế. Việc ảnh hưởng nhiều hay ít cịn
tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro tín dụng.
4.1 Tác động của rủi ro tín dụng đến Ngân hàng:
Trước hết, rủi ro tín dụng khi xảy ra sẽ có tác động xấu tới tình hình tài
chính của Ngân hàng. Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và
thường xuyên nhất của Ngân hàng thương mại, phần lớn thu nhập của Ngân
hàng có được là từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro tín dụng sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của Ngân hàng. Khi phát sinh các khoản nợ
quá hạn, Ngân hàng sẽ phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát, thu nợ,
chi phí thanh lý phát mại tài sản trong tương lai nếu không thu được nợ. Đồng
thời, khoản nợ này đóng băng, khơng cịn đem lại thu nhập cho Ngân hàng
hoặc rất ít, khơng đáng kể, trong khi Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản
tiền huy động được, điều này làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Mặt khác,

khi xảy ra rủi ro tín dụng thì khơng chỉ làm giảm thu nhập từ hoạt động tín
dụng mà cịn có tác động lớn làm giảm thu nhập từ các hoạt động kinh doanh
khác của Ngân hàng, bởi lẽ hoạt động tín dụng có tác động rất lớn tới các hoạt
động khác của Ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng được mở rộng, chất lượng
tín dụng được nâng cao thì sẽ thúc đẩy các hoạt động khác phát triển, ngược
lại, sẽ kìm hãm các hoạt động khác làm giảm lợi nhuận, gây ảnh hưởng xấu
tới tình hình tài chính của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho Ngân hàng những tổn thất về tài
chính. Nhưng những thiệt hại về uy tín của Ngân hàng, về mất lòng tin của xã
hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Một Ngân hàng nếu gặp nhiều
rủi ro trong hoạt động tín dụng mà khơng khắc phục được sẽ gây mất lòng tin
của các đối tác trong kinh doanh cũng như của những người gửi tiền tại Ngân
23


hàng. Khi đã mất lòng tin của đối tác kinh doanh cũng như của những người
gửi tiền thì tất nhiên thị phần của Ngân hàng đó sẽ bị giảm, nguồn huy động
cũng giảm và do đó Ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Đặc biệt nguy
hiểm hơn khi những người gửi tiền tại Ngân hàng có xu hướng rút tiền ra, nếu
trong trường hợp đó Ngân hàng khơng có những biện pháp để xử lý tốt thì rất
có thể Ngân hàng sẽ bị phá sản và sẽ gây ảnh hưởng xấu lan ra trong toàn hệ
thống Ngân hàng và nền kinh tế.
4.2 Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế:
Tín dụng Ngân hàng có vai trị rất quan trọng trong việc điều hồ vốn
trong nền kinh tế và trong sự thành cơng của chính sách tiền tệ quốc gia. Rủi
ro tín dụng xảy ra làm Ngân hàng chậm hoặc khơng có khả năng thu hồi được
vốn để tiếp tục cho vay, do đó rủi ro tín dụng làm giảm vịng quay sử dụng
vốn của Ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Mặt khác, hoạt động Ngân hàng có tính chất xã hội hố cao, hoạt động
của một Ngân hàng có ảnh hưởng đến các Ngân hàng khác. Khi một Ngân

hàng đối mặt với tình trạng rủi ro tín dụng cao, sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài
chính của Ngân hàng, dẫn đến mất lòng tin của đối tác kinh doanh và của
cơng chúng. Lúc đó rất có thể Ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán và điều
này sẽ gây ra phản ứng lan truyền trong toàn hệ thống Ngân hàng, tác động
xấu tới nền kinh tế trong nước

24


Chương II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CẦU GIẤY.
I.Khái quát về tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn Quận Cầu
Giấy- TP Hà Nội .
Là một quận mới thành lập nằm ở phía tây của TP Hà Nội với đặc thù
kinh tế chưa phát triển chủ yếu là các trường ĐH, khối hành chính,
nơng nghiệp,nhưng đặc biệt trên địa bàn lại có rất nhiều cơng ty xây dựng mà
NHĐT&PT lại rất phù hợp cho việc phục vụ loại hình khách hàng này.
1 .Khái quát về hoạt động kinh doanh tại NHĐT&PTCầu Giấy.
1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHĐT&PT Cầu Giấy.
Bộ máy tổ chức: kể từ tháng 10/2003 NHĐT&PT Cầu Giấy đã tiến
hành thực hiên dự án hiện đại hố và mơ hình bộ máy tổ chức cũng
theo mơ hình của hiện đại hố bao gồm: Ban lãnh đạo (Gerneral), Phịng Kế
tốn Tổng hợp(G/L) – Ngân quỹ ( Vol ) , Phịng Tín dụng ( Ln ) , Phòng dịch
vụ khách hàng (DD&FD ) , Phòng điện tốn ( IT ) , các phịng giao dịch và
cuối cùng phòng hậu cần.
Lãnh đạo của NHĐT&PT Cầu Giấy gồm : 1 Giám đốc , 3 phó giám
đốc lãnh đạo theo từng khối nghiệp vụ. Có 6 phịng ban nghiệp vụ và 2 phòng
giao dịch . Mỗi phòng đều có trưởng phịng ,phó phịng , kiểm sốt viên , và
các thanh tốn viên được bố chí theo từng nghiệp vụ . Sơ đồ mơ hình tổ chức

của NHĐT&PT Cầu Giấy thể hiện như sau :

25


×