Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Hình Thức Của Di Chúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.57 KB, 22 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
MÔN: Luật Dân Sự Việt Nam Module 1
ĐỀ SỐ 18:
Hình Thức Của Di Chúc
Họ và tên :
Lớp :
MSSV :
Hà Nội, 2011
1
A. Đặt vấn đề .
Pháp luật dân sự là một công cụ pháp lý của Nhà nước và công dân, góp
phần thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ dân sự
phát triển trong nền kinh tế - xã hội. Trong đó thì thừa kế là một quan hệ pháp
luật dân sự, các chủ thể tham gia bao gồm người người để lại di sản và người
thừa kế. Người để lại thừa kế chỉ có thể là một cá nhân, không thể là pháp nhân
hay một cơ quan Nhà nước nào khác, nhưng người nhận thừa kế có thể là cá
nhân, hoặc bất kì một pháp nhân nào khác.
Người để lại di sản thừa kế phải để lại di chúc, di chúc có thể là di chúc
bằng văn bản hay bằng lời nói. Điều 649 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định rất rõ
ràng về di chúc. Di chúc là sự bày tỏ, thể hiện ý chí, nguyện vọng của một con
người cụ thể sẽ định đoạt tài sản của mình ra làm sao. Sự bày tỏ này có thể
được thể hiện dưới các hình thức bằng chúc thư hoặc là những lời dặn dò,
những lời trăng trối lúc hấp hối. Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của
người lập di chúc ra bên ngoài cho người khác biết, để sau này đó sẽ là những
căn cứ pháp lý mà thực hiên ý chí của người đã chết. Tóm lại di chúc phải được
lập theo quy định của pháp luật.
Di chúc trước hết phải được lập thành văn bản, Điều 5 Hiến pháp 1992
đã có quy định: " Các dân tộc ít người có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn
bản sắc dân tộc...của mình". tuy nhiên di chúc có thể được viết bằng tiếng dân


tộc mình hoặc bất kì dân tộc nào khác. Di chúc miệng chỉ được lập ra khi người
để lại thừa kế không có điều kiện để lập di chúc bằng văn bản.
2
B. Giải quyết vấn đề .
I. Cơ sở lý luận
1, Di chúc.
Di chúc là sự bày tỏ ý chí của một người (người để lại di sản) nhằm định
đoạt toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc một phần tài sản
của mình được chuyển giao cho một hoặc nhiều người sau khi người đó chết.
Sự bày tỏ ý chí này gọi là lập di chúc. Nội dung di chúc thể hiện ý chí một bên
là người để lại di sản thừa kế chỉ được thực hiện sau khi người đó chết. Vì vậy:
- Người để lại di sản thừa kề không bị ràng buộc bởi di chúc do chính mình
lập ra, có thể sửa đổi di chúc hoặc huỷ bỏ bằng một bản di chúc khác sau này.
- Sẽ không có sự ràng buộc giữa người lập di chúc và người được chỉ định
thừa kế theo di chúc hoặc của bất kỳ người nào khác trong thời gian người lập
di chúc còn sống.
- Sau khi người lập di chúc chết thì chỉ có người được chỉ định thừa kế theo
di chúc mới được bày tỏ ý chi của mình là nhận hay không nhận tài sản của
người lập di chúc để lại.
2, Điều kiện của di chúc.
a, Về người để lại di chúc.
Theo quy định tại Điều 647 BLDS 2005, người để lại di sản phải đảm
bảo các điều kiện sau:
3
Trước hết, người để lại di sản phải là người đã thành niên, không mắc các
bệnh tâm thần hoặc bệnh nào khác mà không thể nhận thức được và không thể
làm chủ hành vi của mình. Theo như Điều 18 bộ luật này người thì người thành
niên là người đủ 18 tuổi trở lên. Người tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng đã đủ 15 tuổi
cũng có thể được lập di chúc với điều kiện phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc
người giám hộ vào việc lập di chúc. Đây là quy định phù hợp, đúng tinh thần

như Bộ luật lao động về đọ tuổi tối thiểu có thể tham gia lao động là 15 tuổi trở
lên.
Người từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có tài sản riêng, bởi vậy họ có quyền
lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, vì người 15 tuổi trở lên và
chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho người chưa thành niên, pháp luật quy định việc lạp di chúc phải được sự
đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc.
Người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ nhưng đã thành
niên cũng có quyền lập di chúc,. Tuy nhiên, việc lập di chúc của đối tượng này
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của cơ quan
công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban xã, phường, thị trấn.
Tiếp theo, ngưòi để lại di sản khi lập di chúc chỉ được phép định đoạt tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình, quyền sử dụng hợp pháp (là quyền sử dụng
đất..), một phần trong khối tài sản chung với đồng chủ sở hữu khác.
b, Di chúc hợp pháp.
Thứ nhất, người để lại di sản lập di chúc phải ở trong tình trạng minh
mẫn, sáng suốt. Lập di chúc là hành vi của chủ sở hữu (chủ sử dụng tài sản)
định đoạt tài sản của mình nên họ phải nhận thức được hành vi đó khi thực hiện
4
quyền định đoạt tài sản. Đây là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc đánh giá giá trị pháp lý của di chúc, đảm bảo tính chính xác theo ý
chí của chủ thể - người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của mình..
Thứ hai, người để lại di chúc phải hoàn toàn tự nguyện, không bị chi phối
về mặt tinh thần , tâm lý hoặc thể chất, không bị ép buộc phải lập di chúc theo ý
chí của người khác. Đây là điều kiện rất qun trọng vì di chúc là sự thể hiện ý chí
của người lập di chúc nên không thể ép buộc một ai đó lại lập di chúc khác tría
với ý muốn của họ được,.
Thứ ba, nội dung của di chúc không trái với pháp luật, không đúng với
lợi ích của xã hội. Vì đây sẽ là điều kiện để bảo đảm lợi ích của nhà nước cũng
như toà xã hội. Người để lại di chúc không được định đoạt tài sản không thuộc

sở hữu của mình, nội dung của di chúc không thể ép buộc người thừa kế đi
ngược lại lợi ích cuả nhà nước, xã hội và không được trái pháp luật.
Thứ tư, hình thức của di chúc không được trái với quy định của pháp luật.
Như đã nêu thì di chúc của người chưa thành niên thì phải có sự đồng ý cuả cha
mẹ hoặc ngời giám hộ. Về di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của
người không biết chữ phải có người làm chứng lập thành văn bản và có công
chứng, chứng thực. Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người ngời lập
di chú miệng thể hiện ý chí của mình trước ít nhất hai người làm chứng, ngưòi
làm chứng phải ghi rõ đầy đủ nội dung của di chúc này và cùng ký tên; đồng
thời bản di chúc phải được công chứng, chứng thực trong thời hạn năm ngày kể
từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng.
c, Người làm chứng.
5
Điều 654, Bộ luật dân sự 2005 quy định về điều kiện của người làm
chứng như sau: “Mọi người đều có thể là chứng cho việc lập di chúc, trừ những
trường hợp sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung của di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Đây là một quy định nhằm đảm bao sự công bằng, khách quan, tính chính
xác và nội dung đầy đủ của di chúc.
3, Các hình thức của di chúc.
Hình thức của di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản ra bên
ngoài cho người khác biết, để sau này có căn cứ vào đó mà thực hiện ý chí của
người để lại di sản sau khi người đó chết. Vì vậy trước hết di chúc phải được
lập thành văn bản. Di chúc bằng văn bản được chia ra làm nhiều loại:
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn.

- Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Mỗi loại di chúc khi được lập ra đều có giá trị pháp lý như nhau , đều
phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật. Tuy nhiên, khi lập di chúc
bằng văn bản người lập di chúc cần lưu ý là phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di
6
chúc. Vì pháp luật có quy định rằng người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ
sung hoặc thay thế. Do đó, di chúc được lập sau sẽ có giá trị pháp lý hủy bỏ di
chúc đã lập trước đó.
Trong một số trường hợp nhất định như ốm đau, bệnh tật hiểm nghèo,
tình thế cấp thiêt ảnh hưởng đến tính mạng thì người để lại di sản có quyền lập
di chúc bằng miệng, và giá trị pháp lý của di chúc miệng tương đương với di
chúc bằng văn bản.
Điểm b, khoản 1, Điều 652, BLDS 2005 quy định: “Hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật”. Nếu pháp luật quy định về hình thức của di
chúc phải được thể hiện dưới những hình thức nhất định hoặc phải thoả mãn
những điều kiện cụ thể thì người lập di chúc phải thỏa mãn những điều kiện,
hình thức đó, nếu không, di chúc sẽ vô hiệu. Theo quy định tại Điều 649, BLDS
2005 thì: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được lập di
chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Người thuộc dân tộc thiểu số có
quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình”.
II, Thực trạng pháp luật Việt Nam về hình thức di chúc.
Hình thức của di chúc là phương thức thể hiện ý chí của người lập di
chúc (người để lại di sản), nhằm bày tỏ ý nguyện định đoạt toàn bộ tài sản thuộc
quyền sở hữu hoặc một phần tài sản của mình sẽ được chuyển giao cho một
hoặc nhiều người ( cá nhân và pháp nhân) sau khi người đó chết. Sự bày tỏ
được thể hiện thông qua hình thức bằng văn bản (di chúc bằng văn bản). hoặc
bằng lời nói (di chúc miệng). Hình thức của di chúc là căn cứ pháp lý để phân
chia tài sản cho người được chỉ định trong di chúc.
7
Hình thức di chúc bằng văn bản: Là hình thức bằng chữ viết, có thể viết

tay hoặc đánh máy, được thể hiện trên một chất kiệu nhất định, chất liệu này
được Nhà nước cho phép sử dụng và ghi nhận như mực in, giấy in, giấy viết
1, Di chúc bằng văn bản.
Điều 650. Bộ luật dân sự 2005 qui định Di chúc bằng văn bản bao gồm :
1 , Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
2 , Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3 , Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4 , Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Người lập di chúc bằng văn bản có quyền, tùy theo ý muốn của mình và
tùy theo hoàn cảnh cụ thể chọn một trong những hình thức bằng văn bản nói
trên khi lập di chúc bằng văn bản. Các hình thức nói trên đều có giá trị pháp
lý như nhau. Tuy nhiên, khi lập di chúc bằng văn bản người lập di chúc phải
ghi rõ ngày tháng, năm lập di chúc. Vì pháp luật có quy định, người lập di
chúc có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế di chúc. Do đó, di chúc lập sau
có giá trị pháp lý hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc lập trước có nội
dung trái di chúc lập sau.
a, Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
Điều 655, Bộ luật dân sự 2005 có quy định: “Người lập di chúc phải tự
tay viết và kí vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo
các quy định tại Điều 653 của Bộ luật này.”
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×